Thứ Năm, 21 tháng 3, 2019

Y ÁN SƠ THẨM ĐỐI VỚI 5 BỊ CÁO LÀ THÀNH VIÊN CỦA TỔ CHỨC “LIÊN MINH DÂN TỘC VIỆT NAM”

Ngày 18/3, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” đối với 5 bị cáo là thành viên của tổ chức “Liên minh dân tộc Việt Nam”.
Theo nội dung bản án sơ thẩm ngày 5/10/2018, các bị cáo gồm: Lưu Văn Vịnh (sinh năm 1967, hộ khẩu thường trú tại tỉnh Hải Dương; ngụ quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh), Nguyễn Quốc Hoàn (sinh năm 1977, hộ khẩu thường trú tại tỉnh Lâm Đồng; ngụ Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh), Nguyễn Văn Đức Độ (sinh năm 1975, ngụ quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh), Phan Trung (sinh năm 1976, ngụ huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng), Từ Công Nghĩa (sinh năm 1993, dân tộc Chăm, hộ khẩu thường trú tỉnh Ninh Thuận), đã có hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, trực tiếp thực hiện các hành vi: thành lập tổ chức phản động với tên gọi “Liên minh dân tộc Việt Nam” do Vịnh làm Chủ tịch; tuyên truyền đả kích, bôi nhọ, xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lật đổ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Lưu Văn Vịnh với vai trò chủ mưu cầm đầu, đã tổ chức mọi hoạt động thành lập trái phép tổ chức “Liên minh dân tộc Việt Nam”, đề ra mục tiêu, đường lối hoạt động của tổ chức, lôi kéo người vào tổ chức. Nguyễn Văn Đức Độ với vai trò là Phó Chủ tịch tổ chức đã giúp sức tích cực trong việc phát triển tổ chức. Nguyễn Quốc Hoàn và Phan Trung có vai trò cố vấn, đã tích cực giúp Lưu Văn Vịnh trong các hoạt động thành lập như chuẩn bị tài liệu, soạn thảo cương lĩnh, giới thiệu nhân sự, may cờ cho tổ chức… Từ Công Nghĩa với vai trò được giao làm “phụ trách quân sự” đã tích cực lôi kéo người vào tổ chức để thành lập “nghĩa quân”.
Các đối tượng đã tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền lôi kéo người dân; phối hợp, liên hệ với các đối tượng chống đối; tham gia các cuộc biểu tình trái phép; tổ chức hội nghị trù bị ngày 30/10/2016 và thống nhất ngày ra mắt tổ chức tại một nhà thờ ở quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 6/11/2016. Ngày 6/11/2016, Cơ quan An ninh điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện lệnh bắt giam và khám xét khẩn cấp đối với Vịnh, Hoàn. Ngày 24/2/2017, Cơ quan An ninh điều tra trưng cầu giám định nội dung các tài liệu thu giữ, kết quả cho thấy những tài liệu này có chứa đựng thông tin gây phương hại đến trật tự an toàn xã hội; thông tin xuyên tạc, vụ khống, xúc phạm uy tín của Đảng và Nhà nước.
Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên phạt bị cáo Lưu Văn Vịnh mức án 15 năm tù, Nguyễn Quốc Hoàn 13 năm tù, Nguyễn Văn Đức Độ 11 năm tù, Từ Công Nghĩa 10 năm tù và Phan Trung 8 năm tù. Các bị cáo còn bị phạt quản chế 3 năm tại địa phương cư trú, sau khi chấp hành xong hình phạt tù.
Sau bản án sơ thẩm, các bị cáo kháng cáo kêu oan. Tại phiên tòa xét xử phúc thẩm, xét thấy các bị cáo không đưa ra được tình tiết mới, kháng cáo không có cơ sở chấp nhận, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm đã tuyên bác toàn bộ kháng cáo, tuyên y án sơ thẩm đối với 5 bị cáo./.

                                                                                          PQH

VẠCH TRẦN LUẬN ĐIỆU CỦA NGUYỄN ĐÌNH CỐNG

Cứ mỗi lần Đảng ta chuẩn bị Đại hội Đại biểu toàn quốc, các phần từ bất mãn, cơ hội chính trị như Nguyễn Đình Cống lại ra sức xuyên tạc, viết bài tung tin sai lệch lên các trang mạng xã hội. Bài “Góp ý về chuẩn bị Đại hội Đảng lần thứ 13” không những thể hiện rõ mưu đồ chống phá, mà còn lộ rõ hơn bản chất “khẩu phật, tâm xà” của ông ta.
Thứ nhất, Nguyễn Đình Cống lợi dụng đóng góp ý kiến chuẩn bị Đại hội XIII của Đảng, Y đã tung ra những luận điệu để xuyên tạc, đánh lừa dư luận. Cụ thể, khi bàn về phương châm: Kiên trì và đổi mới, kế thừa và phát triển lý luận và thực tiễn được Đảng ta xác định cho quá trình chuẩn bị Đại hội XIII, Nguyễn Đình Cống đã xuyên tạc rằng: “Việc Đảng ta kiên trì chủ nghĩa Mác – Lênin là kiên trì “một chủ nghĩa được tạo dựng từ ngụy biện, chứa nhiều độc hại, chỉ mang lại và bảo vệ lợi ích phi nghĩa cho vài nhóm nhỏ”. Với luận điệu này, Nguyễn Đình Cống trắng trợn xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin.
Thử hỏi, ông Cống dựa vào đâu mà cho rằng, “chủ nghĩa Mác – Lênin là ngụy biện và độc hại”, trong khi cả nhân loại tiến bộ và các nhà khoa học chân chính đều khẳng định chủ nghĩa Mác – Lênin là vũ khí lý luận và tư tưởng sắc bén trong cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột và bất công; dựa vào đâu mà ông dám xuyên tạc, “chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ mang lại và bảo vệ lợi ích phi nghĩa cho vài nhóm nhỏ”, trong khi thực tiễn đã minh chứng: Chủ nghĩa Mác – Lênin là hiện thân, đại diện cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại tiến bộ. Nhờ có chủ nghĩa Mác – Lênin các dân tộc bị áp bức bóc lột, trong đó có dân tộc Việt Nam đã bừng tỉnh và giũ bùn đứng lên đập tan xiềng xích, giành lại độc lập, tự do; chủ nghĩa Mác – Lênin là kim chỉ nam soi sáng công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, ổn định, kinh tế phát triển bền vững, nhân dân được hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Thứ hai, cũng thông qua cái gọi là “góp ý”, Nguyễn Đình Cống đã cố tình xuyên tạc đường lối đổi mới đất nước và đường lối ngoại giao độc lập, tự chủ của Đảng và Nhà nước Việt Nam khi cho rằng: “Những điều Đảng kiên trì như độc quyền, bóp nghẹt tự do tư tưởng và ngôn luận, đeo bám Trung cộng”. Luận điệu này của Nguyễn Đình Cống tuy không mới, nhưng điều đáng nói là Y đã sử dụng chiêu trò “đóng góp ý kiến”, nhìn bên ngoài có vẻ lương thiện, nhưng bên trong chứa đựng toàn điều xấu xa. Đó là, ông Cống mượn cớ “góp ý” vào công tác chuẩn bị Đại hội XIII của Đảng để làm sai lệch thông tin, che đậy ý đồ đen tối chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam. Ông Cống tự huyễn hoặc về cái gọi là, những gì Đảng ta đang làm là nhằm độc quyền và bóp nghẹt tự do dân chủ.
Song, mưu đồ của ông Cống dù tinh vi, xảo quyệt đến mấy cũng không che đậy được lẽ phải và chân lý. Bởi vì, toàn thể nhân dân Việt Nam đều biết, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội là sự lựa chọn của lịch sử, là ý chí và nguyện vọng của toàn thể dân tộc Việt Nam; điều này được hiến định trong Hiến pháp hiện hành của Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam không vì lợi ích tự thân mà luôn lấy lợi ích của giai cấp công nhân và nhân lao động Việt Nam làm thước đo chuẩn mực trong lãnh đạo và chỉ đạo mọi hoạt động thực tiễn. Nhờ có sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc Việt Nam đã đạt được thắng lợi trong công cuộc kháng chiến, kiến quốc, ngày nay tiếp tục giành được nhiều thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế – xã hội; Đảng không ngăn cấm tự do ngôn luận, tự do phát biểu ý kiến, song ngôn luận đó, ý kiến đó phải tuân thủ đúng Hiến pháp và pháp luật Việt Nam.
Về đường lối ngoại giao, Đảng ta luôn xác định và tuân thủ nguyên tắc độc lập, tự chủ, không “đeo bám” ai như sự xuyên tạc của Nguyễn Đình Cống. Đảng luôn xác định và mong muốn mở rộng quan hệ đối ngoại với tất cả các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, hợp tác hai bên cùng có lợi.
Do vậy, mọi luận điệu của Nguyễn Đình Cống dù tinh vi, xảo quyệt đến mấy cũng không che đậy được bản chất “khẩu phật, tâm xà”. Do đó, người dân Việt Nam cần nêu cao cảnh giác với những luận điệu sai trái, thù địch của Nguyễn Đình Cống – kẻ phản động hại nước, hại dân./.

PQH

Thứ Tư, 20 tháng 3, 2019

Nâng cao hiệu quả sử dụng phương tiện truyền thông mới - “sức mạnh mềm” góp phần thúc đẩy văn hóa đối ngoại

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, các phương tiện truyền thông mới có vai trò ngày càng to lớn đối với xã hội hiện đại, vừa thể hiện sự phát triển của dân trí, khoa học - công nghệ,… vừa là phương tiện triển khai, thúc đẩy, góp phần nâng cao tiềm lực văn hóa, trong đó có văn hóa đối ngoại.
Phương tiện truyền thông mới và “sức mạnh mềm” của quốc gia 
Theo học giả Hoa Kỳ, J. Nai-ơ (J. Nye), sức mạnh tổng hợp của một quốc gia gồm có “sức mạnh cứng” (gồm sức mạnh quân sự, kinh tế, khoa học công nghệ, hạ tầng kỹ thuật, tài nguyên…) và “sức mạnh mềm” (gồm sức mạnh của văn hóa, thương hiệu quốc gia, thể chế xã hội và các chính sách đối nội, đối ngoại của quốc gia đó). “Sức mạnh cứng” chi phối, tác động các quốc gia khác bằng quân đội, quân sự, kinh tế, khoa học - công nghệ, tài nguyên…; còn “sức mạnh mềm” là khả năng lôi cuốn, thu phục, cảm hóa người khác bằng sức hấp dẫn của các giá trị về văn hóa, về thể chế, chính sách được thực thi hiệu quả ở nước mình, uy tín thương hiệu quốc gia; thông qua đó nhận được cảm tình, sự nể phục, trân trọng và hợp tác bền vững, lâu dài của các quốc gia khác. Ba thành tố nguồn gốc của “sức mạnh mềm” là văn hóa, thể chế chính trị và chính sách ngoại giao của quốc gia. Ngoài ra, “sức mạnh mềm” còn được tạo lập, nhân rộng bởi nhiều yếu tố khác, như sự phát triển của truyền thông hiện đại, của khoa học - công nghệ, trong đó có sự phát triển các phương tiện truyền thông mới. 
Ngày nay, “sức mạnh mềm” đang là một trụ cột quan trọng, có thể góp phần nâng cao sức cạnh tranh quốc gia và mở rộng phạm vi ảnh hưởng của một quốc gia cả trong khu vực và quốc tế… Vì thế, từ các cường quốc đến các nước nhỏ, các nước đang phát triển đều quan tâm, nghiên cứu tìm biện pháp để tăng cường, phát huy “sức mạnh mềm” của mình.
Hiện nay, “phương tiện truyền thông mới” đang là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên “sức mạnh mềm” của mỗi quốc gia. Thuật ngữ “phương tiện truyền thông mới” được đề cập từ cuối thập niên 80 của thế kỷ XX và ngày càng thông dụng. Tuy nhiên, cho đến nay quan niệm về phương tiện truyền thông mới vẫn là quan niệm mở. Một số học giả cho rằng, phương tiện truyền thông mới là phương tiện truyền thông hội tụ, là sự kết hợp của 3 yếu tố chính: công nghệ điện toán, mạng truyền thông và nội dung thông tin. Các học giả khác lại coi phương tiện truyền thông mới là nội dung tích hợp đa dạng các dữ liệu: chữ viết, âm thanh, hình ảnh tĩnh/động..., được lưu trữ trong các định dạng kỹ thuật số, được phân phối thông qua các mạng lưới, như cáp quang, vệ tinh, hệ thống truyền tải siêu thanh... 
Có thể thấy, các hình thức truyền thông không chỉ trở thành phương tiện chính để cung cấp thông tin và kiến thức mà còn tạo ra các khuôn khổ thiết yếu để lưu trữ, tăng cường đối thoại và giao lưu giữa các nền văn hóa. Phương tiện truyền thông mới ngày càng dễ tiếp cận vượt qua giới hạn về không gian, thời gian, góp phần làm đa dạng các kênh giao tiếp của công chúng, cung cấp các loại thông tin và giải trí hấp dẫn, thu hút nhiều đối tượng, nhất là giới trẻ trên thế giới với các trang và công cụ, như blog, website, fanpage, e-mail, skype, facebook… có khả năng chia sẻ thông tin thuận tiện, nhanh chóng. Truyền thông mới cũng giúp các chính sách của nhà nước được đến gần và nhanh hơn với nhân dân, giảm thiểu chi phí truyền phát, quảng bá. Truyền thông mới cũng có ý nghĩa đối với nhiều cơ quan công quyền và khu vực tư bên cạnh báo chí và phương tiện truyền thông khác. 
Truyền thông mới nên nằm trong mối quan hệ chặt chẽ với các ý tưởng mới về chi phí cũng như cấu trúc của truyền thông bao gồm những tài khoản mã hóa, tài khoản bảo mật, tìm kiếm dữ liệu, nâng cấp cơ sở vật chất, thư tín, phân vùng địa lý, giao thông, điện thoại gọi tự động… Vì đông đảo “cư dân số” chủ yếu là lớp trẻ có học vấn, giỏi công nghệ, cũng chính là những người sử dụng và quan tâm chính nên nhà nước cần chú ý cân bằng các nguồn lực để bảo đảm khả năng tiếp cận công bằng cho mọi công dân. 
Phương tiện truyền thông mới bản thân cũng là thước đo thể hiện “sức mạnh mềm” quốc gia bởi sự đầu tư khoa học - công nghệ cao, kinh tế dịch vụ mang tính tri thức cao, góp phần thể hiện thương hiệu quốc gia, trình độ học thức công dân quốc gia mình. Phương tiện truyền thông mới là công cụ hữu hiệu, góp phần truyền đạt, chia sẻ, trau dồi kiến thức mọi mặt, trong đó có văn hóa nói chung và văn hóa đối ngoại nói riêng trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Phát triển phương tiện truyền thông mới góp phần thúc đẩy văn hóa đối ngoại 
Đảng và Nhà nước ta xác định, để xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, đòi hỏi phải chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, làm giàu thêm văn hóa dân tộc, quảng bá hình ảnh Việt Nam, mở rộng ảnh hưởng, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia. Do đó, công tác văn hóa đối ngoại là một bộ phận quan trọng đặc biệt của nền văn hóa quốc gia, thể hiện sức mạnh nội sinh của dân tộc, có vai trò tích cực trong việc nâng cao vị thế, uy tín của đất nước, con người và văn hóa Việt Nam trên trường quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc hội nhập quốc tế của đất nước cũng như bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước.
Văn hóa đối ngoại được thực hiện bởi mọi tầng lớp nhân dân, Nhà nước đóng vai trò chỉ đạo, định hướng, hỗ trợ về cơ chế, chính sách, trong đó có các chính sách liên quan tới các phương tiện truyền thông mới; nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, khi trên lĩnh vực văn hóa, quá trình “toàn cầu hóa” diễn ra sôi động với sự hỗ trợ đắc lực của các phương tiện truyền thông, sự bùng nổ của thông tin, sự phát triển của khoa học - công nghệ gắn với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Bên cạnh đó, hiện nay, “sức mạnh mềm”, “quyền lực mềm” đang là nhân tố cơ bản để nâng cao sức cạnh tranh quốc gia cũng như để mở rộng phạm vi ảnh hưởng của một nước trong khu vực và trên thế giới. Cũng vì vậy, việc gia tăng “sức mạnh mềm” (thể hiện ở sức hấp dẫn, lan tỏa từ các giá trị văn hóa của quốc gia) được nhiều nước coi là trọng điểm trong chiến lược phát triển quốc gia và các phương tiện truyền thông mới đang là một trong những nhân tố quan trọng góp phần thực hiện thành công chiến lược đó. Vì thế, cần những giải pháp đồng bộ, căn cơ để nâng cao hiệu quả sử dụng các phương tiện truyền thông mới với tư cách là một trong những nhân tố tạo nên “sức mạnh mềm”, góp phần phát triển văn hóa đối ngoại của nước nhà, cụ thể là:
Thứ nhất, tích cực chủ động xây dựng kết cấu hạ tầng khoa học - công nghệ cho phương tiện truyền thông mới nói riêng và công nghệ truyền thông hiện đại nói chung.
Bản thân phương tiện truyền thông mới là thành tố góp phần tạo nên thương hiệu, lợi thế và “sức mạnh mềm” quốc gia; các nước đi sau như Việt Nam có thể tham khảo kinh nghiệm các nước thành công đi trước để xây dựng kết cấu hạ tầng khoa học - công nghệ cho phương tiện truyền thông mới. Cần có chính sách đúng nhằm động viên, khuyến khích các nhà đầu tư công nghệ mới dành những khoản tài chính nhất định cho đầu tư phương tiện truyền thông mới và nhân rộng các mô hình đúng đắn, có khả năng tiến xa ra thị trường nước ngoài. Đó cũng là cách xây dựng văn hóa, bản lĩnh doanh nghiệp thời kỳ mới.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả quản lý các phương tiện truyền thông mới nhằm phục vụ mục tiêu chính trị, kinh tế - xã hội, văn hóa quốc gia, trong đó có văn hóa đối ngoại; định hướng việc sử dụng phương tiện truyền thông mới đúng đắn, bảo đảm cho các mục tiêu của cá nhân không ảnh hưởng lợi ích quốc gia. Các cấp chính quyền, ngành chức năng, các đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội có thể phát động những phong trào thiết thực, mang tính văn hóa, tiến bộ, có hiệu quả kinh tế - xã hội cho đông đảo người dân trong và ngoài nước tham gia nhờ sự kết nối của phương tiện truyền thông mới, thông qua đó tạo sự lan tỏa và hiệu ứng tích cực. 
Thứ ba, thúc đẩy thực hiện các giải pháp quảng bá văn hóa nước ta thông qua các hoạt động truyền thông, đặc biệt là các phương tiện truyền thông mới. Đa dạng hóa các sản phẩm, hình thức truyền thông ra quốc tế bằng tiếng nước ngoài; sản xuất các ấn phẩm sách, báo, báo điện tử, các cơ quan truyền thông lớn của Việt Nam có chuyên trang bằng tiếng nước ngoài; xây dựng chương trình truyền hình đối ngoại giới thiệu văn hóa, nghệ thuật Việt Nam, sản xuất băng đĩa, phim, ảnh... có phụ đề bằng tiếng nước ngoài; xây dựng thư viện trên mạng bằng tiếng Việt và bằng tiếng nước ngoài, áp dụng các loại hình truyền thông mới như mạng xã hội... để vươn tới phục vụ đông đảo cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và bạn bè quốc tế. Phát huy mạng lưới thông tin đối ngoại của các cơ quan truyền thông chính thống để phát triển văn hóa đối ngoại của Việt Nam bằng tất cả các loại hình thông tin. Sử dụng các loại hình truyền thông mới để nâng cao hiệu quả truyền thông khi tổ chức các hoạt động văn hóa đối ngoại tại nước ngoài, thu hút sự tham gia của các hãng truyền thông uy tín tại địa bàn nước sở tại và các hãng truyền thông lớn trong khu vực và trên thế giới; tăng cường về phạm vi, mức độ, quy mô và chất lượng các hoạt động quảng bá văn hóa, nghệ thuật Việt Nam tới cộng đồng quốc tế và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
Thứ tư, đẩy mạnh phát triển khoa học - công nghệ, văn hóa, giáo dục và đào tạo. 
Trong bối cảnh nền kinh tế số và toàn cầu hóa hiện nay, nếu muốn mỗi người dân trở thành một “đại sứ” luôn biết vì quyền lợi quốc gia, biết vận dụng “sức mạnh mềm” trong đối ngoại, văn hóa đối ngoại thì mỗi người dân cần không ngừng được nâng cao dân trí, được tăng cường giáo dục về việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, tốt đẹp tiêu biểu, đã qua sàng lọc, lựa chọn, góp phần đưa các giá trị đó vào đời sống. Phát triển khoa học - công nghệ hướng tới việc người dân có thể làm chủ công nghệ, sử dụng hiệu quả phương tiện truyền thông mới trong việc nâng cao vốn văn hóa, bồi đắp những hệ giá trị văn hóa tốt đẹp, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, góp phần nâng cao sức mạnh mềm của dân tộc.
Thứ năm, tăng cường giao lưu, hợp tác quốc tế ở lĩnh vực thông tin và truyền thông; tích cực học tập kinh nghiệm quốc tế; đổi mới phương thức hợp tác quốc tế theo hướng thiết thực, hiệu quả, tiếp thu và ứng dụng công nghệ tiên tiến, khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn lực để phát triển hệ thống truyền thông theo kịp với sự phát triển và các bước tiến công nghệ mới của truyền thông trên thế giới./.

Nguồn: tapchicongsan.vn

Giá trị không thể phủ nhận của Quốc tế Cộng sản

Ngày 02-3-1919, tại Mát-xcơ-va, Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản) - tổ chức cách mạng của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên thế giới - được thành lập. Chỉ tồn tại hơn 20 năm, song với những hoạt động sôi nổi và phong phú của mình, Quốc tế Cộng sản đã để lại những giá trị to lớn, không thể phủ nhận đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga và sự ra đời, phát triển của nhiều đảng cộng sản trên thế giới là những tiền đề cơ bản, trực tiếp cho sự ra đời của Quốc tế Cộng sản, thể hiện yêu cầu khách quan, bức thiết của phong trào công nhân và cách mạng thế giới lúc bấy giờ. Quốc tế Cộng sản là sự kế tiếp hợp quy luật, phản ánh kết quả đấu tranh của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế suốt hàng thế kỷ được soi sáng và dẫn dắt bởi học thuyết khoa học và cách mạng - chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Sự ra đời và hoạt động của Quốc tế Cộng sản đã để lại những giá trị lịch sử không thể phủ nhận đối với phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và phong trào cách mạng thế giới.
Tuy vậy, các thế lực thù địch và chủ nghĩa cơ hội, xét lại dưới mọi màu sắc vẫn ra sức xuyên tạc, công kích vào những tổ chức quốc tế của giai cấp công nhân - các tổ chức truyền bá, bảo vệ, phát triển và đưa chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào thực tiễn cách mạng. Đặc biệt là, họ phủ nhận những giá trị của Quốc tế Cộng sản đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Sự chống phá càng gia tăng sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa theo mô hình Xô viết ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ. Hiện nay, sự chống phá đó tiếp tục diễn ra quyết liệt khi các nước xã hội chủ nghĩa còn lại dù gặp nhiều khó khăn, thử thách, song vẫn kiên định con đường, mục tiêu chủ nghĩa xã hội, thực hiện đổi mới, cải cách và tiếp tục phát triển. Họ rêu rao rằng, Quốc tế Cộng sản cũng như chuyên chính vô sản ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa là chuyên chế cá nhân, là sự thống trị bằng bạo lực, tước đoạt quyền tự do cá nhân, vi phạm nhân quyền. Họ đổ lỗi cho Quốc tế Cộng sản đã đề ra chiến lược, sách lược sai lầm do dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, dẫn đến sự sai lầm của các đảng cộng sản và công nhân ở nhiều nước trong xác định đường lối đấu tranh và nhiệm vụ cách mạng. Họ cố tình phủ nhận tính cách mạng của Quốc tế Cộng sản, rằng đó không phải là tổ chức theo chủ nghĩa Mác – Lê-nin.
Vậy là, họ vừa đổ lỗi cho những sai lầm, hạn chế của Quốc tế Cộng sản vì tổ chức này là của chủ nghĩa Mác – Lê-nin; lại vừa đối lập về bản chất giữa Quốc tế Cộng sản với chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Đây là sự xuyên tạc vô lối về bản chất, tính chất cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin và Quốc tế Cộng sản, vì:
Thứ nhấtQuốc tế Cộng sản có công lao to lớn trong việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Ngay sau khi Ph. Ăng-ghen qua đời (năm 1895), các phần tử cơ hội, xét lại, phản bội chủ nghĩa Mác đã lên nắm quyền lãnh đạo và lũng đoạn Quốc tế II (1889 - 1914), đòi “hạ bệ chủ nghĩa Mác”; muốn thay chủ nghĩa Mác bằng hệ tư tưởng tư sản. Đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền hệ tư tưởng phản động trong phong trào cộng sản và công nhân; đưa ra luận thuyết ảo tưởng “hòa bình giai cấp” và chủ trương “chủ nghĩa tư bản hòa bình nhập vào chủ nghĩa xã hội”. Nguy hiểm hơn, họ còn công khai đứng về phía giai cấp tư sản - kẻ thù của giai cấp công nhân, ủng hộ cuộc chiến tranh đế quốc phi nghĩa, chống lại những người Bôn-sê-vích.
Năm 1919, Quốc tế Cộng sản ra đời đã đập tan những ảo tưởng đó của bọn cơ hội, xét lại. Những quan điểm tiến bộ, cách mạng, đứng vững trên lập trường mác-xít khoa học và cách mạng của Quốc tế Cộng sản đã từng bước lấn át, đẩy lùi, khắc phục những quan điểm “lầm đường, lạc lối” của phái “tả khuynh”, cơ hội, xét lại; giảm bớt tác hại cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Điều đó không những làm trong sạch phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, mà còn tạo điều kiện cho sự phát triển mới và đúng hướng của phong trào. Lịch sử ra đời và tồn tại của Quốc tế Cộng sản cũng đồng thời là lịch sử đấu tranh không ngừng nghỉ chống các phần tử cơ hội, xét lại dưới mọi màu sắc, để khẳng định, bảo vệ và phát huy những giá trị của chủ nghĩa Mác – Lê-nin trong thực tiễn. Đó là công lao to lớn đầu tiên của Quốc tế Cộng sản.
Thứ haiQuốc tế Cộng sản đã kết hợp chủ nghĩa Mác – Lê-nin với phong trào công nhân trên phạm vi toàn thế giới. Với sự hoạt động của Quốc tế Cộng sản và V.I. Lê-nin, khẩu hiệu “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại!” của C. Mác đã được phát triển thành “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”. Đó không chỉ thể hiện sự phát triển về mặt lý luận, mà còn phản ánh sự lớn mạnh của các lực lượng cách mạng, tiến bộ trong thực tiễn. Điều đó làm cho Quốc tế Cộng sản ngày càng phát triển, trở thành người lãnh đạo, là lãnh tụ của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Từ khi thành lập Quốc tế Cộng sản đến khi tuyên bố tự giải tán (năm 1943), phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ, có bước tiến dài, vững chắc. Sự hình thành, phát triển, tiến bộ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của các đảng cộng sản theo lập trường của chủ nghĩa Mác – Lê-nin là dấu ấn nổi bật, thể hiện công lao không thể phủ nhận của Quốc tế Cộng sản.
Trong hơn 20 năm tồn tại và phát triển, Quốc tế Cộng sản đã tổ chức 7 kỳ đại hội. Qua mỗi kỳ đại hội, cuộc đấu tranh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế ngày càng tiến bộ, trưởng thành. Một loạt đảng cộng sản, đảng công nhân ở nhiều nước đã ra đời, trực tiếp lãnh đạo và đưa phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phát triển ở mỗi nước. Năm 1919, chỉ có 10 đảng cộng sản tham gia Quốc tế Cộng sản, đến năm 1921, con số này đã lên đến 48. Quốc tế Cộng sản hoạt động theo những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Trong tổ chức cũng như khi thảo luận thông qua các văn kiện về nhiệm vụ chiến lược, cương lĩnh, luôn bảo đảm đoàn kết, nhất trí, ngăn ngừa những phần tử cơ hội, hữu khuynh, phần tử “phái giữa” chống phá và chui vào tổ chức; bảo vệ sự đoàn kết, thống nhất và bản chất cách mạng của Quốc tế Cộng sản. Đó là yếu tố đảm bảo chắc chắn cho sự trong sạch, vững mạnh của các đảng cộng sản để các đảng đủ sức làm tròn sứ mệnh tiên phong lãnh đạo cách mạng.
Thứ baQuốc tế Cộng sản định ra chiến lược, sách lược đúng đắn cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, cũng như phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Minh chứng cho điều này là, Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản thông qua cương lĩnh, kêu gọi nhân dân toàn thế giới kiên quyết đấu tranh chống phát-xít, ngăn chặn bàn tay đẫm máu của chúng. Đồng thời, đề ra các đối sách bảo vệ Liên Xô, bảo vệ thành trì cách mạng và nền hòa bình thế giới trước sự tấn công hủy diệt của chủ nghĩa phát-xít và nguy cơ chiến tranh thế giới xảy ra. Sự đối mặt của Quốc tế Cộng sản với chủ nghĩa phát-xít đã làm nổi bật tính chất cách mạng, nhân đạo, hòa bình và sự dũng cảm của tổ chức quốc tế này. Quốc tế Cộng sản cũng góp phần quyết định đến chất lượng bồi dưỡng, giáo dục các thế hệ cán bộ lãnh đạo của các đảng cộng sản, nhất là các đảng cộng sản trẻ tuổi và làm cho các đảng đó trở thành đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Dưới sự lãnh đạo của Quốc tế Cộng sản, các đảng cộng sản phát triển và trưởng thành về chính trị, tư tưởng và tổ chức; tích lũy được nhiều kinh nghiệm, giá trị trong đấu tranh cách mạng, chống chiến tranh đế quốc và phát-xít, vạch mặt bọn cơ hội, xét lại; bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin.
Quốc tế Cộng sản đã phát triển toàn diện vấn đề dân tộc, thuộc địa, vạch ra con đường, chiến lược đấu tranh cho các dân tộc thuộc địa, lệ thuộc; phối hợp hành động giữa phong trào cộng sản, công nhân quốc tế với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc; tích cực giúp đỡ các dân tộc trong đấu tranh vì độc lập, tự do. Trọng tâm trong sự nghiệp của mình là Quốc tế Cộng sản đã rất quan tâm đến vấn đề cách mạng thuộc địa, nhìn rõ mối quan hệ giữa phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc; ủng hộ phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ La-tinh, trong đó có Việt Nam; qua đó, góp phần làm gắn bó giữa cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng thuộc địa. Cùng với sự chiếu rọi từ ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười, sự quan tâm giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản là nhân tố rất quan trọng làm thức tỉnh nhân dân các dân tộc thuộc địa, bị áp bức đứng lên chống đế quốc, thực dân, giành độc lập, đưa đất nước phát triển theo xu hướng mới. Đó vừa là thành tựu về thực tiễn, vừa là giá trị về tư tưởng, lý luận của Quốc tế Cộng sản.
Thứ tưcông lao, vai trò to lớn và giá trị trường tồn của Quốc tế Cộng sản trong lịch sử hiện đại sau Cách mạng Tháng Mười là không thể phủ nhận. Không thể lợi dụng sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội theo mô hình Xô viết mà cho rằng chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã lỗi thời, lạc hậu; Quốc tế Cộng sản đã mất đi giá trị. Chính học thuyết này đã tạo nên những hiện thực làm biến đổi thế giới, thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ của lịch sử hiện đại và có sức lôi cuốn, tầm ảnh hưởng sâu rộng toàn nhân loại. Sự tổn thất to lớn của chủ nghĩa xã hội từ gần 3 thập niên trước đã chứng minh rằng, đảng nào kiên định và đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, thì cách mạng thành công, đảng đó giữ được vai trò lãnh đạo. Mọi sự vi phạm những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, thực hiện sai đường lối mà Quốc tế Cộng sản đã vạch ra, thì đều dẫn đến hậu quả nguy hại đối với chính sự tồn vong của đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Cách mạng Việt Nam sớm trở thành một bộ phận của cách mạng thế giới do có sự ảnh hưởng và đóng góp to lớn của Quốc tế Cộng sản. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho nhân dân Việt Nam, thông qua đường lối và chương trình hành động của Quốc tế Cộng sản; tạo điều kiện thuận lợi cho những người Cộng sản Việt Nam nghiên cứu, khảo sát thực tế, học tập kinh nghiệm của các đảng cộng sản và phong trào cách mạng ở các nước. Đồng thời, tích cực giúp đỡ, chuẩn bị các điều kiện thuận lợi cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; đào tạo cho cách mạng Việt Nam đội ngũ cán bộ vững vàng,… là những đóng góp to lớn của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam.
Kỷ niệm 100 năm Ngày thành lập Quốc tế Cộng sản, chúng ta một lần nữa khẳng định giá trị trường tồn của Quốc tế Cộng sản; tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, thúc đẩy cách mạng tiến lên, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới. Đó là câu trả lời rõ ràng của chúng ta trước mưu đồ của các thế lực thù địch mưu toan chống phá, phủ định chủ nghĩa Mác – Lê-nin và giá trị to lớn của Quốc tế Cộng sản.

Nguồn: www.tapchiqptd.vn

Phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Quân đội hiện nay

“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là một trong những nguy cơ đe dọa tới sự tồn vong của Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; là cách thức để các thế lực thù địch thực hiện mục tiêu “phi chính trị hóa” Quân đội. Vì vậy, nhận diện và phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Quân đội là nhiệm vụ cấp thiết hiện nay.
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là vấn đề xã hội, có căn nguyên từ những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, quản lý của Nhà nước đối với xã hội; sự tác động của mặt trái kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế; từ âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, đặc biệt là chiến lược “Diễn biến hòa bình”; từ sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, quần chúng, v.v. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đã được Đảng ta nhận diện với những biểu hiện cụ thể; đồng thời xác định: chủ động phòng ngừa, đấu tranh phê phán, ngăn chặn, đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.
Trong Quân đội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” tuy chưa có biểu hiện rõ nét, phạm vi không rộng, tính chất chưa nghiêm trọng, song nó đang hiện hữu và ảnh hưởng trực tiếp đến việc giữ vững bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc; mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội. Nhận thức rõ điều đó, những năm qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, các cơ quan, đơn vị trong toàn quân luôn tích cực, chủ động đấu tranh phòng, chống, ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; coi đó là một nội dung trọng tâm trong tổng thể các nội dung, biện pháp đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” gắn với xây dựng các tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện.
Trong tình hình mới, để đấu tranh, phòng chống có hiệu quả với các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong Quân đội, cần tiến hành đồng bộ các giải pháp về chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính,... phát huy sức mạnh của mọi tổ chức, lực lượng; của từng cán bộ, đảng viên và quần chúng. Trong đó, cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:
Một làgiữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội. Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu, bởi mục tiêu cốt lõi của chiến lược “Diễn biến hòa bình” cũng như hệ quả cuối cùng của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là tách Quân đội khỏi sự lãnh đạo của Đảng. Do đó, phải thường xuyên giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quân ủy Trung ương đối với Quân đội; bảo đảm cho Quân đội luôn tuyệt đối trung thành và phục tùng sự lãnh đạo của Đảng trong mọi tình huống. Vấn đề cơ bản, cấp bách hiện nay là phải củng cố, kiện toàn, xây dựng hệ thống cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao, đủ sức lãnh đạo toàn quân thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách quân sự, quốc phòng của Đảng, Nhà nước. Đồng thời, gắn xây dựng các tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện; giải quyết tốt mối quan hệ giữa lãnh đạo với chỉ huy, giữa tổ chức đảng với các tổ chức trong đơn vị, giữa đảng viên với quần chúng, giữa cán bộ với chiến sĩ. Xây dựng đơn vị thực sự đoàn kết, thống nhất cao, nhất là đoàn kết trong cấp ủy, chỉ huy và chính ủy, chính trị viên các cấp.
Cùng với đó, phải quan tâm giáo dục, rèn luyện, quản lý đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất đạo đức cách mạng, năng lực công tác tốt, hoàn thành xuất sắc chức trách, nhiệm vụ được giao. Đặc biệt, cần chú trọng xây dựng bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến dịch, chiến lược. Công tác bố trí, sử dụng, đánh giá cán bộ phải bảo đảm dân chủ, công tâm, khách quan, chính xác; quan tâm làm tốt công tác chính sách, giải quyết triệt để, thấu đáo tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên, quần chúng, tạo động lực để họ phấn đấu và cống hiến. Đó là yếu tố quan trọng để triệt tiêu mầm mống của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Hai làthường xuyên chăm lo giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, quần chúng. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là hệ quả từ nhiều nguyên nhân, song cốt lõi là do một bộ phận cán bộ, đảng viên, quần chúng thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu; sa vào chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng; quên trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, Tổ quốc và nhân dân; ngại khó, ngại khổ, ngại va chạm; vi phạm nguyên tắc, điều lệ Đảng, nói không đi đôi với làm, thoái hóa, biến chất về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống. Vì vậy, cần chú trọng giáo dục chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chủ nghĩa yêu nước, nền tảng văn hóa Việt Nam, truyền thống Quân đội, đơn vị,... làm cho bản chất giai cấp công nhân thấm sâu và phát triển vững chắc trong tư tưởng, tình cảm của cán bộ, đảng viên; từ đó, nâng cao giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị cho mọi cán bộ, đảng viên, quần chúng. Đồng thời, phải thường xuyên giáo dục, rèn luyện cán bộ, chiến sĩ có phẩm chất đạo đức, lối sống trong sạch, lành mạnh; có tinh thần tự giác, tích cực học tập, rèn luyện, tu dưỡng; không ngừng nâng cao kiến thức, năng lực công tác, tận tụy, tâm huyết với công việc, gắn bó với cơ quan, đơn vị. Đặc biệt, cấp ủy, chỉ huy các cấp phải thường xuyên cập nhật tình hình, làm cơ sở để giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ nhận rõ âm mưu, thủ đoạn, phương thức hoạt động của các thế lực thù địch, nhất là các hoạt động chống phá trên không gian mạng. Qua đó, nâng cao khả năng miễn dịch cũng như trình độ đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch cho cán bộ, chiến sĩ.
Cùng với đó, cần quan tâm bảo đảm tốt đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội; xây dựng môi trường văn hóa phong phú, tốt đẹp, lành mạnh để Quân đội trở thành nơi nuôi dưỡng nhân cách, phẩm chất tốt đẹp cho mọi quân nhân. Từ đó, tăng cường sức đề kháng, tạo “màng lọc” ngăn chặn văn hóa ngoại lai, phản động, phản tiến bộ xâm nhập vào Quân đội. Đó là cơ sở để ngăn ngừa tác động từ bên ngoài, làm vô hiệu hóa mọi âm mưu, thủ đoạn thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ của các thế lực thù địch.
Ba làkiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, quan liêu, tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực trong Quân đội. Các yếu tố đó chính là kẻ thù hết sức nguy hiểm, phá hoại từ trong nội bộ, làm suy yếu sức mạnh của tổ chức và đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm cho “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” càng trở nên phức tạp. Để thực hiện tốt nội dung này, các cấp ủy đảng trong Quân đội cần quán triệt và thực hiện nghiêm quan điểm, chủ trương, quyết tâm và “khí thế” của Đảng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng; thực hiện hiệu quả các nhóm giải pháp về xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII), gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Trên tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, không nể nang, né tránh”, từng cơ quan, đơn vị cần thực hiện tốt tự phê bình và phê bình; nhận diện và đánh giá đúng mức độ nguy hại của suy thoái, biến chất đối với cán bộ, đảng viên, quân nhân; chỉ rõ ở cơ quan, đơn vị mình có chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, quan liêu, tham nhũng, các tiêu cực khác và có những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hay không? Nếu có thì đó là ai, phạm vi, tính chất, mức độ như thế nào? Trên cơ sở đó, xác định biện pháp khắc phục, giáo dục, rèn luyện, xử lý nghiêm minh, triệt để, không bao che, dung túng, không sợ khuyết điểm; tránh tình trạng đánh giá chung chung, né tránh, hình thức; kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”. Đồng thời, thực hiện tốt Quy chế Dân chủ trong các cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên phải thực sự được bàn bạc, tham gia giám sát mọi mặt hoạt động của đơn vị thông qua các tổ chức đảng, chính quyền, quần chúng; khắc phục tình trạng chạy chức, chạy quyền, v.v.
Xây dựng cơ chế tiếp nhận, xử lý thông tin tiêu cực, sai trái, khuất tất trong các cơ quan, đơn vị. Thực hiện tốt vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì theo Quy định 08 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII), không để tình trạng tranh công, đổ lỗi, gây mất đoàn kết nội bộ. Tăng cường kiểm tra, giám sát đảng viên, tổ chức đảng trong chấp hành Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước; nghị quyết, chỉ thị, quy chế, quy định của Đảng; kiên quyết xử lý nghiêm đảng viên, tổ chức đảng vi phạm. Thực hiện hiệu quả công tác bảo vệ chính trị nội bộ để kịp thời phát hiện, ngăn chặn, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực trong đơn vị.
Bốn làđẩy mạnh đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, chống quan điểm sai trái, thù địch. Đây là mặt trận nóng bỏng, gay go, quyết liệt hiện nay, bởi các thế lực thù địch luôn coi mặt trận này là đòn bẩy nhằm thúc đẩy nhanh hơn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta. Để đấu tranh có hiệu quả, trước hết, cần chú trọng thực hiện tốt hơn nữa công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác lý luận trong Quân đội, bảo đảm lực lượng này có đủ phẩm chất, năng lực, nhạy bén, sắc sảo để có thể theo kịp sự vận động, phát triển và đấu tranh với những thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt của kẻ thù. Bên cạnh đó, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng phải hướng trọng tâm vào việc nâng cao nhận thức, trách nhiệm của mọi cán bộ, chiến sĩ đối với nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống quan điểm sai trái, thù địch. Thường xuyên quán triệt, giáo dục nâng cao cảnh giác cho bộ bội trước những âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù; đặc biệt là các chiêu trò sử dụng internet, mạng xã hội để tuyên truyền, kích động, hòng làm lung lạc nhận thức và ý chí của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ. Lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị thường xuyên làm tốt công tác định hướng, quản lý tư tưởng trong đơn vị trước những vấn đề nhạy cảm, được dư luận xã hội quan tâm.
Toàn quân cần tổ chức đấu tranh rộng rãi trên mọi phương tiện, với mọi lực lượng, bằng nhiều hình thức, biện pháp; trong đó, quan tâm bồi dưỡng lực lượng nòng cốt, chuyên sâu có tinh thần trách nhiệm cao, năng lực, trình độ lý luận và dũng khí đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù trong mọi tình huống. Đồng thời, bảo đảm tốt cơ sở vật chất, trang thiết bị công nghệ; xây dựng cơ chế cung cấp thông tin nhanh, nhạy, kịp thời cho các lực lượng nhằm động viên, khuyến khích đông đảo quân nhân tham gia, hình thành thế trận đấu tranh rộng khắp, nhiều tầng, nhiều lớp, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân làm thất bại âm mưu thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của các thế lực thù địch.
Đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là yêu cầu, nhiệm vụ và trách nhiệm của mọi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ hiện nay, góp phần xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Nguồn: www.tapchiqptd.vn

Nhận thức đúng về thực hiện Luật Nghĩa vụ quân sự

Cho đến nay, cả nước đã hoàn thành nhiệm vụ tuyển chọn, gọi thanh niên nhập ngũ năm 2019. Số lượng thanh niên nhập ngũ trong cả nước lên đến hàng vạn người. Cũng như nhiều năm trước, trong đợt tuyển quân năm nay đã có nhiều thanh niên tốt nghiệp đại học, có việc làm, thu nhập ổn định nhưng vẫn làm đơn tình nguyện nhập ngũ.
Cá biệt có gia đình hai anh em cùng làm đơn xin được nhập ngũ trong một đợt. Trả lời phỏng vấn báo chí trong dịp lên đường nhập ngũ, nhiều thanh niên đã bày tỏ những suy nghĩ chân thành của mình: “Ngay từ khi còn nhỏ, em đã mong được mặc bộ quân phục màu xanh, làm anh Bộ đội Cụ Hồ”. Có người thì nói: “Em luôn mong muốn có dịp được sống trong quân ngũ để rèn luyện những phẩm chất cao quý của thanh niên… tiếp tục phát huy truyền thống của dân tộc ta”. Có người chia sẻ: “Bảo vệ chủ quyền, sự toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải của dân tộc là trách nhiệm, vinh dự của thế hệ trẻ… Chúng em hiểu trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc của thế hệ trẻ, nhất là trong tình hình hiện nay”.
Thế nhưng trên internet, mạng xã hội đã có kẻ lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tán phát thông tin xấu độc. Chẳng hạn, có kẻ viết: “Chính sách nghĩa vụ quân sự thực chất là chạy đua vũ trang”; “ Thời bình sao phải tuyển nhiều lính như thời chiến?”; “Sao không tập trung vào phát triển kinh tế, chống tham nhũng?”... Những “phản biện” nói trên công bằng mà nói, có thể do thiếu hiểu biết về đường lối, chính sách quốc phòng, về Luật Nghĩa vụ quân sự của Đảng và Nhà nước ta. Nhưng đã có kẻ xấu lợi dụng dịp này để xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Mục đích của họ là phá hoại mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, đặc biệt là với quân đội.
Đường lối, chính sách quốc phòng của Đảng và Nhà nước ta có cơ sở lịch sử, chính trị, pháp lý minh bạch. Trước hết, đó là vì dân tộc ta phải thường xuyên chống lại các thế lực xâm lược để bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ. Lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc ta cho thấy, không có một thế kỷ nào nhân dân ta không phải chống lại các cuộc chiến tranh xâm lược.
Ngay từ thời kỳ phong kiến, các triều đại trong lịch sử Việt Nam đã có chính sách “ngụ binh ư nông”(2). Chính sách này ra đời trong bối cảnh-một đất nước đất không rộng, người không đông, lại thường xuyên bị các thế lực nước ngoài xâm lược. Chính sách “ngụ binh ư nông” là sự kết hợp nhiệm vụ duy trì lực lượng quốc phòng với sản xuất, sẵn sàng chuyển hóa lực lượng quân sự từ sản xuất sang chiến đấu khi cần thiết và ngược lại, chuyển lực lượng chiến đấu về sản xuất trong thời bình.  
Trong bối cảnh quốc tế và khu vực ngày nay đã có nhiều thay đổi, tuy nhiên, Việt Nam vẫn đứng trước nhiều nguy cơ đe dọa về độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ... Ngày nay, những nguy cơ, thách thức cũ vẫn còn đó thì lại có thêm những nguy cơ, thách thức mới. Đó là bảo vệ chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN), bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước và hạnh phúc của nhân dân. Gắn liền với nguy cơ, thách thức đó là phương thức chống phá của các thế lực thù địch-đó là chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ. Về kỹ thuật, đó là việc các thế lực thù địch sử dụng internet, mạng xã hội làm phương thức chống phá mới.
Ứng phó với tình hình đó, đường lối, chính sách quốc phòng của Đảng và Nhà nước ta đã có những điểm mới. Văn kiện Đại hội XII của Đảng ta xác định: “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền”… Chính sách và chiến lược quốc phòng của Đảng ta là “tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh”; “xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc... Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước”.
Đảng và Nhà nước ta cũng đã công khai hóa chính sách quốc phòng của Nhà nước ta. Đó là: “Việt Nam thực hiện chính sách quốc phòng mang tính chất hòa bình, tự vệ, thể hiện ở chủ trương không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong các quan hệ quốc tế, giải quyết mọi bất đồng và tranh chấp với các quốc gia khác bằng biện pháp hòa bình. Việt Nam chủ trương từng bước hiện đại hóa quân đội, tăng cường tiềm lực quốc phòng chỉ nhằm duy trì sức mạnh quân sự ở mức cần thiết để tự vệ.
Việt Nam chủ trương không tham gia các tổ chức liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của mình để chống lại nước khác”.(3)
Luật Nghĩa vụ quân sự (sửa đổi) được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII thông qua là sự thể chế hóa Hiến pháp 2013 quy định: “Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân” (Điều 15); “Nhà nước xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có lực lượng thường trực hợp lý, lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh và rộng khắp, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng” (Điều 16).
Luật Nghĩa vụ quân sự quy định nghĩa vụ quân sự là “Nghĩa vụ vẻ vang của công dân phục vụ trong Quân đội nhân dân;… Công dân trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự, không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ học vấn, nghề nghiệp, nơi cư trú phải thực hiện nghĩa vụ quân sự theo quy định của luật này” (Điều 4).
Luật Nghĩa vụ quân sự nhằm thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc-chế độ trong tình hình mới. Về mặt lý luận cũng như thực tế, thực hiện Luật Nghĩa vụ quân sự không làm tăng quân số tuyệt đối, không nhằm chạy đua vũ trang… mà chỉ nhằm luân chuyển nhân lực từ dân sự sang quân sự và ngược lại (đó là những đợt ra quân theo định kỳ hằng năm).
Ý kiến “phản biện” rằng: “Thời bình sao phải tuyển nhiều lính như thời chiến?”; “Sao không tập trung vào phát triển kinh tế, chống tham nhũng?”, nếu không nói là một luận điệu chính trị xấu độc thì cũng thể hiện sự hiểu biết ấu trĩ về nhiệm vụ của lực lượng vũ trang nói chung, của Quân đội ta nói riêng trong thời bình.
Thực tế cho thấy, ngay trong thời chiến, Quân đội ta vẫn dành một lực lượng nhất định tham gia sản xuất (phục vụ quốc phòng và dân sinh)… Hiện nay, không ít đơn vị quân đội đang làm đồng thời cả hai nhiệm vụ-kinh tế và quốc phòng, như một số đơn vị quân đội làm kinh tế, tự đáp ứng một phần nhu cầu, giảm thiểu gánh nặng ngân sách cho Nhà nước. Hoặc các bệnh viện quân đội vừa là một cơ sở y tế trong hệ thống y tế quốc gia, vừa làm nhiệm vụ sẵn sàng phục vụ cứu chữa trong thời chiến. Trong thời bình, ở những bệnh viện này, không chỉ cán bộ, chiến sĩ quân đội được chữa trị mà còn có cả những bệnh nhân dân sự… nhất là những bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo.
Trên lĩnh vực phòng, chống thiên tai, quân đội luôn là lực lượng nòng cốt và có không ít cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh trong khi làm nhiệm vụ cứu hộ-cứu nạn, giúp nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai trên khắp mọi miền Tổ quốc.
Thực tế cho thấy, trong những năm qua, các thế lực thù địch thường lợi dụng những vấn đề kinh tế-xã hội khó khăn, như ô nhiễm môi trường, những sơ hở trong quản lý kinh tế-dịch vụ công… để kích động người dân chống lại chính quyền. Hành vi “bất tuân dân sự”-là kịch bản trong đó, những phần tử cầm đầu tập hợp lực lượng, tụ tập đông người, biểu tình gây rối… từng bước đi đến bạo loạn, lật đổ chế độ xã hội, chuyển hóa xã hội hiện hữu sang con đường tư bản chủ nghĩa, lệ thuộc vào ngoại bang. Vì vậy, cuộc đấu tranh trên lĩnh vực chính trị tư tưởng ngày càng quyết liệt. Trên mặt trận ấy, các cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam lại là một trong những lực lượng tiên phong...
Mục tiêu của cách mạng Việt Nam ngày nay là: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Điều kiện và tiền đề để thực hiện mục tiêu đó là giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và ổn định xã hội. Thực hiện Luật Nghĩa vụ quân sự là góp phần đưa dân tộc ta đi đến mục tiêu đó.
 (1) - Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
(2) - Là chính sách trong các triều đại: Nhà Đinh, Lê sơ, Lý, Trần.
(3) - Sách trắng quốc phòng (Việt Nam) Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.
 Nguồn: www

Phúc trình nhân quyền 2019 - bình cũ, rượu cũ

Năm nào cũng vậy, cứ vào đầu năm là một số tổ chức nước ngoài không có thiện cảm với Việt Nam lại đưa ra những báo cáo, bài viết đánh giá một cách lệch lạc tình hình của Việt Nam, đặc biệt là vấn đề nhân quyền. Mặc dù những lời lẽ đó chẳng có gì là mới mẻ cả.
Đơn cử như một tổ chức tư nhân tên là Tổ chức theo dõi nhân quyền (HRW), không có một vị trí nào trong liên hợp quốc hay trong bất kỳ một tổ chức do quốc tế thành lập mà tự cho mình cái quyền đi đánh giá nhân quyền của các nước khác lại thường xuyên đưa ra các báo cáo, đánh giá sai trái về tình hình nhân quyền ở Việt Nam. Thật là ngược đời.
Mới đây, trong bản “Phúc trình toàn cầu 2019” được công bố ngày 17-1-2019, chúng nói rằng, tình hình nhân quyền tại Việt Nam “xuống cấp nghiêm trọng” và đưa ra cáo buộc, Việt Nam “xâm phạm các quyền dân sự và chính trị cơ bản như quyền tự do biểu đạt, quyền tự do báo chí và tiếp cận thông tin, quyền tự do lập hội và nhóm họp, quyền tự do thực hành tôn giáo”...
Chúng vu cáo Việt Nam “bỏ tù nặng hơn những người bất đồng chính kiến” và việc ban hành Luật An ninh mạng là “hà khắc để bóp nghẹt thêm quyền tự do ngôn luận”, rồi tự tưởng tượng ra viễn cảnh “những người dám đặt câu hỏi về các dự án, chính sách của chính phủ hoặc tìm cách bảo vệ đất đai và tài nguyên địa phương thì sẽ bị theo dõi, tước quyền đi lại, quản thúc tại gia, giam giữ tùy tiện và bị thẩm vấn”.
Để viện dẫn cho “nhà bất đồng chính kiến”, phúc trình đưa ra 12 đối tượng vốn là bị cáo trong các phiên tòa hình sự, bị tòa án xét xử năm 2018 về các tội danh “Tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam”, “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”...
Đồng thời, chúng lên án các quốc gia đang hợp tác với Việt Nam như Trung Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ,… kêu gọi chính phủ các nước gây sức ép với Việt Nam, mượn nhân quyền để ngăn cản việc mở rộng đầu tư, hợp tác của Việt Nam. Đáng xấu hổ hơn khi chúng lên tiếng đòi Hội đồng châu Âu hoãn phê duyệt Hiệp định thương mại tự do châu Âu - Việt Nam (EVFTA) “cho đến khi chính phủ Việt Nam thực hiện các bước cụ thể để cải thiện hồ sơ nhân quyền”. Thậm chí, Giám đốc Vận động Chính sách châu Á John Sifton còn lên tiếng hăm dọa: “Vội vã thông qua thỏa thuận thương mại tự do với Việt Nam sẽ là một sai lầm nghiêm trọng”.
Cái kết đắng cho chúng là Ủy ban Châu Âu lại càng xúc tiến nhanh hơn việc ký kết các hiệp định thương mại tự do với Việt Nam.
Có thể thấy rằng việc đảm bảo Nhân quyền ở Việt Nam từ trước đến nay đó là một nguyên tắc trong tất cả các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Những thành tựu trong việc đảm bảo Nhân quyền ở Việt Nam là không thể bóp méo và đã các cá nhân và tổ chức quốc tế ghi nhận.
Xin được viện dẫn chính từ đánh giá, báo cáo của những tổ chức quốc tế có uy tín. “Việt Nam đang có nhiều tiến bộ về phát triển con người và giảm nghèo đa chiều, dù vẫn còn những thách thức trong việc giảm bớt chênh lệch giữa các vùng, miền và nhóm dân cư, thu hẹp khoảng cách giới, cũng như giải quyết các vấn đề môi trường liên quan đến phát thải carbon dioxide và đa dạng sinh học” - đây là thông điệp được Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) đưa ra hồi tháng 10-2018.
Bà Caitlin Wiesen, Giám đốc quốc gia của UNDP tại Việt Nam chia sẻ: “Việt Nam có thể tự hào về tiến bộ đạt được trong giảm nghèo đa chiều, giúp 6 triệu người thoát nghèo trong 4 năm, từ năm 2012 đến năm 2016, theo chuẩn nghèo đa chiều quốc gia”. “Với chỉ số phát triển con người tăng 1,41% từ năm 1990, Việt Nam chỉ còn 4 bậc để vào nhóm các nước có mức phát triển con người cao. Nếu tăng cường nỗ lực giảm chênh lệch giữa các vùng, miền và nhóm dân cư, chúng tôi tin rằng Việt Nam sẽ sớm vào nhóm các nước có mức phát triển con người cao”. Bà Caitlin Wiesen cũng đã đánh giá cao việc Việt Nam có một cơ chế rõ ràng và nhất quán trong việc triển khai các khuyến nghị theo cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR), hay việc Việt Nam phê chuẩn các công ước của LHQ về quyền con người, trong đó có Công ước của LHQ về quyền của người khuyết tật năm 2014. 
Cố vấn chính sách về pháp quyền của UNDP tại Việt Nam Scott Ciment cho rằng, Việt Nam đã tham gia 7 trên 9 điều ước quốc tế về quyền con người cơ bản, đó là một dấu mốc quan trọng. Gần đây là những điều chỉnh trong Bộ luật Hình sự, Luật Dân sự và nhiều luật khác cũng là những bước tiến lớn trong việc đảm bảo nhân quyền. “Tôi cho rằng Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng tự hào trong lĩnh vực nhân quyền. Các hoạt động hợp tác quốc tế về quyền con người cũng được Việt Nam đẩy mạnh... Điều này cho thấy Việt Nam luôn cầu thị, nghiêm túc trong việc thực hiện và đảm bảo quyền con người cho công dân nước mình” – cố vấn Scott Ciment khẳng định.
Cựu trợ lý Ngoại trưởng Mỹ chuyên trách về dân chủ, nhân quyền và lao động Tom Malinowski cũng từng nhấn mạnh, Việt Nam đã có nhiều bước tiến trong thực hiện nhân quyền, nhất là việc Chính phủ đã thông qua hai công ước quốc tế quan trọng là công ước chống tra tấn và công ước về quyền của người khuyết tật. Ông Tom Malinowski khẳng định, thực tiễn đó sẽ là điều kiện thuận lợi cho Việt Nam hội nhập quốc tế sâu hơn.
Những đánh giá đó như là một cái tát đau đớn vào những kẻ đang ảo tưởng rằng có thể lấy vấn đề nhân quyền ra để kêu gọi cộng đồng quốc tế chống lại Việt Nam, cổ súy cho những kẻ làm tiền bằng ăn vạ và nói láo.
Thật đáng thương cho những con thú đang lạc lõng giữa sự phát triển của đất nước chỉ để ôm khư khư cái bình cũ, rượu cũ rồi nhận lại sự khinh bỉ của người đời.



Lật tẩy chiêu trò của tổ chức phản động Việt Tân sau sự việc Châu Văn Khảm

Trong dịp Tết Nguyên đán Kỷ Hợi 2019, trang facebook Việt Tân tán phát nhiều tài liệu, có nội dung phản ánh sai lệch sự việc, vu cáo, bịa đặt, nói xấu Đảng, Nhà nước và chế độ Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, như: “Việt Nam vi phạm các quyền bắt giữ nhà hoạt động người Úc gốc Việt; lại thêm nhiều bạn trẻ lên tiếng phản đối chính phủ Việt Nam bắt giữ trái phép Châu Văn Khảm…”; đồng thời, tán phát nhiều “thư ngỏ” có nội dung kêu gọi các tổ chức được cho là vì tự do, dân chủ, nhân quyền lên tiếng, can thiệp buộc chính phủ Việt Nam trả tự do ngay lập tức, vô điều kiện cho Châu Văn Khảm. Đây chỉ là những chiêu trò cũ nhằm chống phá cách mạng Việt Nam của tổ chức phản động Việt Tân.
Châu Văn Khảm, bí danh Hoàng Liêm (70 tuổi, quê gốc ở Thừa Thiên – Huế), lưu trú tại số 12, KingsLand Rd, Berala, NSW 02141, Úc. Châu Văn Khảm từng nhập ngũ và tham gia lính Việt Nam Cộng hòa, được đào tạo và được đưa về làm việc tại Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa.
Sau năm 1975, Châu Văn Khảm vượt biên sang trại tỵ nạn tại Malaysia. Năm 1983, định cư tại Úc; đến năm 2010, đối tượng tham gia tổ chức khủng bố Việt Tân với bí danh Hoàng Liêm.
Đầu tháng 1 năm 2019, theo chỉ đạo của tổ chức Việt Tân, Châu Văn Khảm nhập cảnh trái phép vào Việt Nam nhằm thực hiện mục đích: kiểm tra, đánh giá và tổ chức huấn luyện cho các đối tượng trong nội địa, tiến hành các hoạt động chống phá. Ngày 10-1-2019, Châu Văn Khảm nhập cảnh về Campuchia rồi gửi lại toàn bộ giấy tờ tùy thân, điện thoại, thẻ tín dụng cho đối tượng trong tổ chức khủng bố Việt Tân tại Campuchia.
Sau đó, Châu Văn Khảm được nhận một chứng minh nhân dân Việt Nam mang tên Chung Chính Phi để sử dụng xâm nhập qua cửa khẩu Hà Tiên, Kiên Giang về Việt Nam.
Hồi 23h ngày 12-1-2019, đối tượng Châu Văn Khảm có mặt tại khách sạn Vàng Anh, ở quận Phú Nhuận, TP Hồ Chí Minh, để huấn luyện cho đối tượng Nguyễn Văn Viễn (48 tuổi), một trong những thành viên của tổ chức khủng bố “Dân chủ Việt”, trước đó là thành viên “Hội anh em dân chủ” kiến thức về Việt Tân; đồng thời cấp cho đối tượng này 300 USD và kết nạp Viễn vào Việt Tân.
Như vậy, đối tượng Châu Văn Khảm đã nhập cảnh trái phép vào Việt Nam, vi phạm Điều 5 - Luật số 47/2014/QH13, Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam. Trong đó, vi phạm những hành vi bị nghiêm cấm, cụ thể tại Điểm 4: “Cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật để được nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú tại Việt Nam” và Điểm 5: “Lợi dụng việc nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú tại Việt Nam để chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”.
Không những thế, đối tượng Châu Văn Khảm đã vi phạm Điểm 1, Điều 109 - Luật số: 100/2015/QH13- Bộ luật Hình sự BLHS/2015: “Người tổ chức, người xúi giục, người hoạt động đắc lực hoặc gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình”- Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.
Việc bắt giữ đối tượng thuộc thành viên của tổ chức khủng bố, nhập cư trái phép vào Việt Nam là hành động cần thiết, đúng với quy định của pháp luật và thể hiện tính pháp lý đúng đắn, cần thiết; là việc làm đáng khen ngợi.
Thực tiễn luôn minh chứng, không một quốc gia nào trên thế giới lại có thể thờ ơ trước những đối tượng xâm nhập trái pháp luật vào nước mình nhằm mục đích móc nối, huấn luyện cho các phần tử chống đối và tiến hành các hoạt động phá hoại nhà nước đó.
Việt Tân là một tổ chức phản động, khủng bố, luôn âm thầm thực hiện các hoạt động chống phá Việt Nam. Sự việc đối tượng Châu Văn Khảm - thành viên của tổ chức phản động này đã bị bắt tại Việt Nam trước Tết Nguyên đán Kỷ Hợi thể hiện sự chủ động, cảnh giác cao độ của các cơ quan thực thi pháp luật trước hành vi của các thế lực chống đối; khẳng định sự ổn định vững chắc về mặt an ninh của đất nước ta.
Đây cũng là hồi chuông cảnh tỉnh, cái giá sẽ phải trả cho các đối tượng bất mãn trong và ngoài nước nếu cố tình thực hiện các hành vi chống phá, hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.
Đứng trước sự thật thất bại bởi những hành vi đi ngược lại với văn minh của nhân loại và xu thế phát triển tất yếu của xã hội loài người, các thành viên của tổ chức phản động Việt Tân không nhận thức được sự thật lịch sử, vẫn thường xuyên tán phát tài liệu kèm vidieo clip xuyên tạc sự thật các vấn đề dân chủ, nhân quyền của Việt Nam; kích động thế hệ trẻ chống lại Đảng, Nhà nước ta với luận điệu: “sao còn thờ ơ với sự tồn vong của dân tộc” và tán phát những hình ảnh chắp ghép với mục đích tạo dư luận ảo trên không gian mạng để đánh lừa nhận thức của giới trẻ.
Những chiêu trò thấp hèn đó không thể cản bước sự phát triển của đất nước Việt Nam và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội của nước ta. Thế hệ trẻ Việt Nam không thờ ơ với chính trị, trái lại, họ luôn luôn xung kích, sẵn sàng cống hiến, kể cả hy sinh khi cần vì Tổ quốc. Những luận điệu xuyên tạc của Việt Tân không thể đánh lừa dư luận và cản trở sự phát triển của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nguồn: Báo điện tử CAND


GIÁ TRỊ TRƯỜNG TỒN CỦA QUỐC TẾ CỘNG SẢN VỚI PHONG TRÀO CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Trong những ngày này, hàng triệu người cộng sản chân chính và lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới đều hướng về Quốc tế Cộng sản, nhân dịp kỷ niệm 100 năm thành lập. Ra đời và tồn tại gần một phần tư thế kỷ, Quốc tế Cộng sản thực sự là một tổ chức cách mạng rộng lớn nhất, “là một Đảng cộng sản thế giới”[1] như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định. Và dù lịch sử của Quốc tế Cộng sản đã khép lại, nhưng vai trò, cùng những đóng góp to lớn của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng thế giới, trong đó có Việt Nam vẫn là một sự thật hiển nhiên, không thể bác bỏ. Những vấn đề có tính quy luật được Quốc tế Cộng sản vạch ra, không chỉ là động lực mà còn là bài học thực tiễn sinh động, mang giá trị trường tồn đối với cách mạng Việt Nam.
Thứ nhất, Quốc tế Cộng sản xác định đúng vấn đề dân tộc và thuộc địa, đã định hướng rõ con đường cứu nước, giải phóng dân tộc cho nhân dân Việt Nam qua hành trình tìm tòi, khảo nghiệm lịch sử của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Giữa lúc cách mạng Việt Nam khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo, năm 1920 tại Đại hội lần thứ II, Quốc tế Cộng sản đã thông qua Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa do Lê-nin khởi thảo. Với khẩu hiệu "Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại", Quốc tế Cộng sản đã khẳng định vấn đề có tính quy luật: Cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận không thể tách rời của cách mạng vô sản. Và người có vai trò lịch sử, tiếp thu tư tưởng chỉ đạo nói trên của Quốc tế Cộng sản là Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Sau bao nhiêu năm bôn ba khắp chân trời góc bể, nghiên cứu nhiều nền văn hóa, tìm hiểu nhiều cuộc cách mạng, cùng thiên tài chính trị của mình, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra tư tưởng vĩ đại của V.I.Lênin trong Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa; xem đó là "chiếc cẩm nang thần kỳ", là "con đường" để giải phóng "hoàn toàn" dân tộc Việt Nam. Từ đó Người “hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”[2]; phá vỡ sự bế tắc lịch sử đương thời, mở ra con đường đi tới thắng lợi cho cách mạng Việt Nam. Kiên định con đường cách mạng vô sản - con đường mà các nhà kinh điển mác xít khẳng định tính đúng đắn cả bằng lý luận và thực tiễn - cũng là bài học sinh động của cách mạng Việt Nam. Hơn 89 năm qua, kể từ khi Đảng ta ra đời, nhờ kiên định con đường cách mạng vô sản mà Nhân dân ta được sống trong tự do, độc lập; hai tiếng “Việt Nam” trở thành lương tri, phẩm giá con người. Ngày nay, khi nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn hiện hữu, thì vấn đề cốt yếu nhất là phải giữ vững cho được sự định hướng của Đảng đối với mọi mặt đời sống xã hội; thực hiện chuyên chính vô sản, kiên định con đường cách mạng vô sản mà chủ nghĩa Mác - Lê nin và Quốc tế 3 xác định.
Thứ hai, sự chỉ đạo, giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản cùng với hoạt động không ngừng nghỉ của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và những nhà yêu nước dẫn đến sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam - nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Ngay trong Đại hội II tháng 7/1920 của Quốc tế Cộng sản đã bàn đến vấn đề thành lập và củng cố các đảng cộng sản kiểu mới của giai cấp vô sản; thông qua điều lệ Quốc tế Cộng sản, khẳng định nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, hoạt động và sinh hoạt tư tưởng; kêu gọi các nước tiên tiến giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc cả vật chất, tinh thần, lực lượng… Quốc tế Cộng sản cũng giúp Nguyễn Ái Quốc và những người yêu nước Việt Nam trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước; có điều kiện nghiên cứu khảo sát thực tế, học tập kinh nghiệm của các đảng, các phong trào; tạo diễn đàn đấu tranh để các Đảng cộng sản ở chính quốc quan tâm đúng mức đến cách mạng thuộc địa. Nhờ đó, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam có một bước chuyển biến căn bản từ tự phát sang tự giác, để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 03/2/1930. Đảng ra đời với Cương lĩnh đúng đắn, đã đưa cách mạng Việt Nam hòa nhịp vào phong trào cách mạng thế giới, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi; thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Giai đoạn hiện nay, khi các thế lực thù địch, phản động ra sức chống phá và từ bài học xương máu của Quốc tế Cộng sản, một vấn đề có tính quy luật đó là không ngừng củng cố xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức theo những nguyên tắc mà Lênin và Quốc tế Cộng sản chỉ ra.
Thứ ba, cùng với nhân tố chủ quan, chủ nghĩa Mác - Lênin, Quốc tế Cộng sản là một trong những tiền đề quan trọng nhất tác động đến việc hình thành, phát triển và quyết định bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh - một bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Trong hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã tiếp xúc với nhiều học thuyết chính trị khác nhau. Tuy nhiên, Người cho rằng: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”[3]. Và nhờ hoạt động thực tiễn trong phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và trong Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã có một bước chuyển biến căn bản từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhờ hoạt động trong Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu lý luận và thực tiễn phong trào cách mạng thế giới, vận dụng vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể Việt Nam; từ đó có những vượt trội về tầm nhìn, để dứt khoát khẳng định rằng: “Muốn cứu nước giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản”[4]. Trong khi giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng. “Tư tưởng của Người đã và đang soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, trở thành những giá trị bền vững của dân tộc Việt Nam và lan tỏa ra thế giới”[5]. Ngày nay, sự nghiệp đổi mới ở nước ta đang đi vào chiều sâu, các vấn đề mới đặt ra trong đời sống xã hội ngày càng nhiều, đòi hỏi phải được giải đáp, thì việc nghiên cứu khẳng định bản chất cách mạng và khoa học; vận dụng, bảo vệ và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành nhiệm vụ quan trọng, cấp bách - vấn đề có tính quy luật đối với cách mạng Việt Nam.
Thứ tư, Quốc tế Cộng sản đã đào tạo nhiều cán bộ xuất sắc, những lãnh tụ chân chính của cách mạng Việt Nam - một bài học sinh động về công tác bồi dưỡng đội ngũ của Đảng. Thông qua việc phân công và đào tạo trong công tác thực tiễn và qua các trường lớp của Quốc tế Cộng sản, nhiều chiến sĩ trung kiên Việt Nam đã trở thành các lãnh tụ chính trị xuất sắc của Đảng ta như: Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trần Phú, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, v.v.. Vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi  “Liên Xô là… Tổ quốc thứ hai”[6], Lênin là người thầy và Trường Đại học Phương Đông là mái ấm của các dân tộc thuộc địa. Nhờ đội ngũ cán bộ được đào tạo cơ bản và có hệ thống, mà Đảng ta có bước trưởng thành vững chắc về lý luận. Dù lịch sử có những biến động, đổi thay đòi hỏi sự cần thiết phải điều chỉnh về đường lối, nhưng nhìn chung chiến lược và sách lược mà Đảng ta đề ra ngay từ thời kỳ đầu thành lập, cũng như trong từng giai đoạn về sau là đúng đắn. Bài học về công tác xây dựng, bồi dưỡng cán bộ, trong bất kỳ giai đoạn lịch sử nào luôn được Đảng ta thực hiện với phương châm “cán bộ là cái gốc của mọi công việc…huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”[7]; kiên quyết đấu tranh với mọi biểu hiện tự diễn biến, tự suy thoái trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, kịp thời phát hiện và đưa ra khỏi Đảng những phần tử cơ hội, thoái hóa, biến chất, để Đảng thực sự là đạo đức là văn minh; là người lãnh đạo đồng thời là đầy tớ trung thành của Nhân dân.
Thứ năm, Quốc tế Cộng sản còn để lại bài học vô giá cho cách mạng Việt Nam trong cuộc đấu tranh kiên trì, bền bỉ với chủ nghĩa chống cộng, chủ nghĩa cơ hội, xét lại dưới mọi màu sắc. Lịch sử Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế là minh chứng rõ nét về sự ra đời tất yếu khách quan của Quốc tế Cộng sản, luôn gắn liền cuộc đấu tranh không khoan nhượng với tư tưởng phi vô sản của những phần tử phản động như Becxtanh, Cauxki và Trôtxki… để bảo vệ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác; đồng thời bổ sung phát triển những nguyên lý đó một cách sáng tạo, khoa học phù hợp tình hình thực tiễn đã thay đổi. Phát huy tinh thần tiến công cách mạng của Lênin và những chiến sĩ trung kiên trong Quốc tế Cộng sản, Đảng ta từ khi ra đời cho đến nay luôn coi trọng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Ở mỗi thời kỳ, nhất là những bước ngoặt, hay khi cách mạng gặp khó khăn, Đảng ta càng chú trọng tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện nhiệm vụ quan trọng này; coi đó là cuộc chiến đấu trong thời bình. Mọi biểu hiện của việc xem nhẹ hoặc hạ thấp vai trò của cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận đều là sự xa rời những vấn đề có tính quy luật mà chủ nghĩa Mác - Lênin và Quốc tế Cộng sản đã khẳng định.
Thời gian càng lùi xa, càng cho phép chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn, chính xác hơn, để kiểm chứng, nhận thức đúng về những giá trị trường tồn và vai trò của Quốc tế Cộng sản đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Quốc tế Cộng sản không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên mà là sự kế tiếp hợp quy luật, kết quả đấu tranh của Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế kéo dài hàng thế kỷ với học thuyết khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin soi sáng, dẫn đường. Vì vậy, Quốc tế Cộng sản đã và sẽ mãi mãi là nhân tố quan trọng, có vai trò định hướng, dẫn dắt sự phát triển, tiến bộ của thế giới hiện đại, trong đó có cách mạng Việt Nam.
TXV

[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011,  tr.310.
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011,  tr.562.
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.289.
[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.30.
[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.08.
[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.198.
[7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.309