Thứ Năm, 18 tháng 4, 2019

Những chiêu thức chống phá mới của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa


Trong chiến lược “Diễn biến hòa bình”, lĩnh vực tư tưởng, văn hóa luôn được các thế lực thù địch sử dụng làm mũi nhọn để chống phá cách mạng nước ta. Hiện nay, lợi dụng những thành tựu mới của khoa học, công nghệ, xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và những vấn đề nảy sinh từ mặt trái của nền kinh tế thị trường ở nước ta, chúng đang có những chiêu thức, thủ đoạn chống phá mới, làm cho cuộc đấu tranh trên lĩnh vực quan trọng, nhạy cảm này càng trở nên cam go và quyết liệt.
Những năm qua, bằng nhiều thủ đoạn, vừa công khai, trắng trợn, vừa ngấm ngầm hòng phá hoại, bôi nhọ, công kích chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, nền văn hóa mới của dân tộc, nhưng không mang lại kết quả, các thế lực thù địch đang có sự điều chỉnh thủ đoạn chống phá hòng chuyển hóa chế độ chính trị ở Việt Nam. Chúng cho rằng, vấn đề trước tiên, cốt yếu nhất là phải xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, xây dựng hệ thống lý luận khác, có khả năng triệt tiêu chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và lấy đó làm nền tảng tư tưởng cho việc xây dựng một xã hội mới, kiểu tư bản chủ nghĩa. Như vậy, mục tiêu tiến công trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa của các thế lực thù địch không hề thay đổi. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu đó, chúng đã và đang sử dụng những chiêu thức mới, tiếp cận theo hướng quan hệ “mềm dẻo”, thân thiện hơn, hợp tác toàn diện, thâm nhập sâu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ đó tác động, phá hoại nền tảng tư tưởng, bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta. Nhận diện đúng những chiêu thức mới của các thế lực thù địch chống phá cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng trong cuộc đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” - “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hiện nay.
Trước hết, cần nhận rõ chiêu thức mới của các thế lực thù địch là, chủ động thâm nhập, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng thông qua con đường quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực, nhất là kinh tế, đối ngoại, giáo dục và đào tạo. Đây là những lĩnh vực được Đảng, Nhà nước ta quan tâm, mở rộng trong quá trình hội nhập quốc tế. Trên lĩnh vực kinh tế, chúng âm mưu thông qua hoạt động hợp tác, đầu tư để làm cho nền kinh tế phát triển chệch hướng xã hội chủ nghĩa, thiết lập hệ thống và cơ cấu kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa tại Việt Nam; từ đó, tạo ra nền tảng vật chất, xã hội thuận lợi, hình thành nền “chính trị dân chủ” và “xã hội dân sự” kiểu phương Tây. Đây chính là môi trường, điều kiện thuận lợi cho các tổ chức chính trị đối lập xuất hiện, công khai chống Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng những vướng mắc trong nhận thức về l‎ý luận phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để xuyên tạc, phủ nhận đường lối lãnh đạo, thành tựu phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước, kích động tâm lý hoài nghi trong xã hội; cổ súy, tung hô việc phát triển nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, làm mất phương hướng, niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa, gây bất ổn về tư tưởng, xuất hiện tình thế mới về chính trị. Lợi dụng tình thế đó, chúng sẽ kích động đòi “dân chủ kinh tế”, yêu cầu Đảng, Nhà nước phát triển kinh tế thị trường theo kiểu phương Tây. Đồng thời, kêu gọi “dân chủ hóa chính quyền”, từng bước cô lập, tách các tổ chức đảng, đảng viên ra khỏi quần chúng, tạo áp lực về chính trị - xã hội, thậm chí gây bạo loạn, lật đổ, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Chúng thực hiện chính sách “thân thiện giả hiệu”, thâm nhập sâu vào hoạt động của nền kinh tế, tạo điều kiện, cơ hội tiếp cận rộng rãi với các đối tượng, tầng lớp nhân dân để xây dựng lực lượng, kích động, phá hoại nền tảng tư tưởng, thúc đẩy nhanh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta.
Cùng với âm mưu, thủ đoạn thâm nhập vào lĩnh vực kinh tế, các thế lực thù địch đẩy mạnh “tiến công” trên lĩnh vực đối ngoại. Chúng chủ trương: một mặt, thông qua hoạt động ngoại giao chính thức, “ngoại giao thân thiện”, tăng cường giao lưu, trao đổi, đối thoại với Việt Nam trên nhiều lĩnh vực nhằm quảng bá hình ảnh, giá trị tư bản chủ nghĩa; chủ động tiếp cận móc nối, hỗ trợ, mua chuộc, lôi kéo các đối tượng, nhất là những phần tử có tư tưởng bất mãn, thù địch, cơ hội, thoái hóa, biến chất, hữu khuynh, cực đoan, thân phương Tây, tạo lực lượng nòng cốt cho “chuyển hóa” và “tự chuyển hóa” tư tưởng ngay từ bên trên, bên trong. Mặt khác, chúng đa dạng các kênh quan hệ để tìm kiếm cơ hội, tiếp cận sâu hơn, dùng vật chất, tiền bạc mua chuộc, làm suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên. Trong đó, vấn đề hợp tác, giao lưu về giáo dục và đào tạo, nhất là việc đi học tập, đào tạo tại các nước tư bản của thế hệ trẻ được chúng hết sức quan tâm, bởi đây là “con đường” ngắn nhất, thuận lợi nhất để xâm nhập, tác động, chuyển hóa tư tưởng ở Việt Nam hiện nay. Thông qua việc học tập ở nước ngoài, chúng truyền bá các quan điểm, giá trị dân chủ tư sản, làm cho thế hệ trẻ có tư tưởng sùng ngoại, coi thường những giá trị văn hóa dân tộc, chạy theo lối sống hưởng lạc, thực dụng, chỉ coi trọng giá trị vật chất, bàng quan về chính trị,... tạo mầm mống thúc đẩy dân chủ, nhân quyền tư sản, tiến tới xóa bỏ nền dân chủ và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Một trong những chiêu thức vô cùng nguy hiểm mà các thế lực thù địch sử dụng hòng làm chuyển hóa, tiến tới xóa bỏ chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là, thúc đẩy hình thành “xã hội dân sự” theo mô thức phương Tây. Chúng núp dưới chiêu bài “dân chủ hóa”, hình thành “kênh phản biện” để cho ra đời các tổ chức đối trọng với các cơ quan, tổ chức trong bộ máy của Đảng, Nhà nước, đòi giám sát hoạt động của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội. Đồng thời, lợi dụng các diễn đàn tư tưởng, thông qua hoạt động hợp tác, nghiên cứu khoa học,... để tuyên truyền về “xã hội dân sự”, đề cao dân chủ tư sản, nhằm chuyển hóa lập trường, tư tưởng của đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân. Trên cơ sở đề cao “xã hội dân sự”, các thế lực thù địch âm mưu phủ nhận học thuyết Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng xã hội chủ nghĩa, về đấu tranh giai cấp trong điều kiện mới; làm phai nhạt mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, từng bước hạn chế, tiến tới loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, xây dựng xã hội “dân chủ”, “tự do” theo kiểu phương Tây.
Để thúc đẩy nhanh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền tác động hướng lái truyền thông. Đây là những vấn đề rất “nhạy cảm”, luôn được chúng triệt để lợi dụng để xuyên tạc, vu cáo, chống phá ta. Một số nước phương Tây còn áp đặt “dân chủ và bảo vệ nhân quyền” là yếu tố không thể thiếu trong chính sách ngoại giao và quan hệ quốc tế. Những năm qua, các thế lực thù địch đã dùng nhiều hình thức, biện pháp, huy động tối đa các phương tiện truyền thông để tuyên truyền, xuyên tạc, vu cáo trắng trợn tình hình dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo và vấn đề dân tộc ở Việt Nam. Chúng đưa ra yêu sách đòi mở rộng dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo, tự do lập hội để tập hợp lực lượng, kích động gây bạo loạn, dẫn đến mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Đặc biệt, chúng luôn tìm mọi cách hướng lái truyền thông nhằm tác động vào quá trình xây dựng hệ thống pháp luật, nhất là thời điểm sửa đổi các văn bản pháp luật về dân chủ, nhân quyền, tôn giáo hoặc ban hành các chỉ thị, nghị quyết, quy định về xây dựng, chỉnh đốn Đảng,… để bôi nhọ, hạ thấp uy tín của Đảng, Nhà nước; kích động, lôi kéo, chia rẽ nội bộ, nhằm gây áp lực với Đảng, Nhà nước ta. Đồng thời, thành lập nhiều tổ chức và đưa người vào Việt Nam để theo dõi, tìm hiểu, thu thập thông tin về vấn đề dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo, tiến hành móc nối, cài cắm, truyền bá tư tưởng sai trái, vu cáo, xuyên tạc tình hình thực tế ở Việt Nam.
Để đẩy nhanh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, âm mưu các thế lực thù địch là nhất thiết phải thực hiện “dân chủ” trong đời sống xã hội. Trước hết là thúc đẩy “dân chủ hóa” trong nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam, tiếp đó thực hiện “dân chủ hóa” trong truyền thông và xã hội. Hai yếu tố này có quan hệ mật thiết với nhau, yếu tố thứ nhất mang tính quyết định đến tiến trình “dân chủ hóa” từ bên trên, bên trong nội bộ ta; yếu tố thứ hai sẽ đẩy nhanh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của toàn xã hội. Quá trình “dân chủ hóa” truyền thông là đưa dân chủ vào mạng truyền thông quốc gia và đội ngũ cán bộ, phóng viên báo chí, truyền thông. “Con đường” xâm nhập để hướng lái truyền thông của các thế lực thù địch là tác động thông qua các hoạt động hợp tác giáo dục, hội thảo, giao lưu, “mượn” các phương tiện truyền thông của Nhà nước, các địa phương, cơ quan, đơn vị để tuyên truyền cho chúng. Lợi dụng sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0), các thế lực thù địch mạnh tay chi tài chính cho quảng cáo, đầu tư, tài trợ các chương trình để khống chế, dẫn dắt giới truyền thông hoạt động theo ý đồ của chúng, đưa truyền thông tách khỏi sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Mặt khác, chúng còn lợi dụng các trang mạng xã hội, facebook, bloger và một số báo, đài phương Tây, hệ thống phương tiện truyền thông của lực lượng phản động người Việt lưu vong,… để tuyên truyền, xuyên tạc, vu cáo, kêu gọi dân chủ, nhân quyền, tự do ngôn luận, tự do báo chí và cạnh tranh trên lĩnh vực truyền thông, gây nhiễu loạn tư tưởng, mất phương hướng trong đời sống xã hội.
Ngoài ra, các thế lực thù địch còn tăng cường hoạt động xâm nhập, móc nối, xây dựng nhân tố bên trong để tác động tư tưởng, phá hoại bản sắc văn hóa dân tộc, thực hiện xâm lăng văn hóa để thúc đẩy nhanh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta. Trong đó, xây dựng lực lượng ngầm trong nội bộ ta được xác định có vai trò quan trọng, làm nòng cốt trong việc thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ Trung ương đến cơ sở. Chúng tìm mọi cách xâm nhập thông qua hoạt động tình báo, gián điệp để đưa người cài cắm vào các cơ quan, tổ chức trong bộ máy của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các tổ chức chính trị - xã hội; hình thành các phe phái, khuynh hướng tư tưởng đối lập, tuyên truyền, gieo rắc những “mầm mống” dân chủ kiểu tư sản, khoét sâu vào mâu thuẫn nội bộ, nhằm chia rẽ, tiến tới chuyển hóa về tư tưởng trong bộ máy của Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị. Đồng thời, thông qua nhiều con đường khác nhau, đưa các sản phẩm văn hóa đồi trụy phương Tây xâm nhập vào nước ta, làm suy thoái đạo đức, lối sống của thế hệ trẻ, băng hoại các giá trị văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa là một bộ phận của cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta trong tình hình mới. Việc nghiên cứu, dự báo đúng âm mưu, thủ đoạn, chiêu thức mới của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng, góp phần làm thất bại mưu đồ chống phá của chúng, bảo đảm cho cuộc đấu tranh trên lĩnh vực này đạt hiệu quả cao.
Nguồn: tapchiqptd.vn


Ngăn chặn hiệu quả “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” - nhiệm vụ quan trọng hàng đầu bảo đảm cho Đảng ta vững mạnh


Để xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ, thì Đảng cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp; trong đó, ngăn chặn hiệu quả biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ cơ bản, quan trọng hàng đầu hiện nay.
Trong công tác xây dựng Đảng, yêu cầu về nâng cao phẩm chất chính trị, chống suy thoái, biến chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên là một trong những vấn đề căn cốt nhất. Để làm được điều đó, đòi hỏi Đảng phải giữ vững nền tảng tư tưởng, thường xuyên giáo dục chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ cách mạng và yêu cầu đặt ra đối với cán bộ, đảng viên trong từng giai đoạn cách mạng. Bởi, chỉ có nắm vững chủ nghĩa Mác – Lê-nin và đường lối cách mạng của Đảng, mới bảo đảm cho cán bộ, đảng viên xác định đúng mục tiêu, lý tưởng, trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân. Có thấm nhuần đạo đức cách mạng, cán bộ, đảng viên mới giữ gìn được lối sống trong sạch, kiên quyết đấu tranh với chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng và mọi tệ nạn xã hội. Chính phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên là sức “đề kháng” mạnh mẽ chống lại mọi suy thoái, biến chất; nhân tố quan trọng tạo nên uy tín của Đảng, làm cho dân tin yêu, nguyện một lòng theo Đảng và quyết tâm thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng.
Thực tiễn cách mạng cho thấy, nhờ Đảng ta coi trọng xây dựng phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, mà tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên trung thành và sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của Đảng. Khi Đảng mới ra đời, mặc dù bị kẻ thù đàn áp gắt gao, tù đày, khổ cực, nhưng chính niềm tin vào lý tưởng và bằng phẩm chất cao đẹp, trong sáng, các chiến sĩ cách mạng tiền bối đã chịu đựng mọi hy sinh, gian khổ, không “phản bội, xưng khai”, dũng cảm đấu tranh với kẻ thù, lãnh đạo nhân dân làm cách mạng thắng lợi. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược trước đây và trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay, dù phải đương đầu với các thế lực xâm lược hùng mạnh, trải qua những biến động chính trị - xã hội to lớn, nhưng cán bộ, đảng viên vẫn tin tưởng sâu sắc vào thắng lợi cuối cùng, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Toàn Đảng thống nhất thành một khối, đoàn kết chặt chẽ xung quanh Ban Chấp hành Trung ương, lãnh đạo toàn dân tiến hành cách mạng, giành những thắng lợi to lớn: đất nước độc lập, thống nhất, công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày càng đạt được những thành tựu quan trọng, v.v.
Tuy nhiên, trước những âm mưu, thủ đoạn chống phá của kẻ thù, ảnh hưởng của mặt trái xã hội, một số đảng viên, do chủ nghĩa cá nhân, lại thiếu rèn luyện, phấn đấu, nên đã sa ngã, từ bỏ lý tưởng, thậm chí phản bội cách mạng. Đặc biệt, sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, những tác động tiêu cực từ mặt trái kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, “… một bộ phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí,… suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”1. Đó là một trong những nguyên nhân làm cho đất nước phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, chế độ, tạo điều kiện để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá.
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là quá trình tự biến đổi về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên theo chiều hướng phản tiến bộ, có hại cho cách mạng. Đây là cuộc đấu tranh tư tưởng giữa lập trường, quan điểm xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa; giữa lợi ích giai cấp công nhân, lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân trong người đảng viên. Trong quá trình đó, lập trường, quan điểm thiên về tư bản chủ nghĩa và việc đề cao lợi ích cá nhân dần tăng lên, còn quan điểm kiên định với chủ nghĩa xã hội, với lợi ích giai cấp công nhân và lợi ích của tập thể phai nhạt dần. Đó thực sự là một quá trình mà nhận thức và hành động của người đảng viên chuyển biến từ đúng thành sai, từ tiến bộ thành lạc hậu; từ tin tưởng và quyết tâm phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, sang hoài nghi, đi đến phủ nhận lý tưởng đó. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã nêu rõ 09 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên. Trong đó, đáng chú ý là những quan điểm đòi phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các nguyên tắc tổ chức của Đảng; đòi thực hiện “đa nguyên, đa đảng”, “tam quyền phân lập”, “xã hội dân sự”, v.v. Không những thế, một số người còn công khai nói, viết và làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thổi phồng khuyết điểm, thiếu sót của Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp; xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước; kích động tư tưởng bất đồng chính kiến, chống đối, v.v. Họ lợi dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để bôi nhọ, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, gây chia rẽ nội bộ; thực hiện “phi chính trị hóa”, ‘dân sự hóa” lực lượng vũ trang, v.v. Rõ ràng, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” không chỉ làm biến chất đội ngũ cán bộ, đảng viên mà còn phá hoại nghiêm trọng uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước và chính quyền các cấp; thậm chí, còn đe dọa đến sự tồn vong của chế độ. Vì vậy, ngăn chặn kịp thời và hiệu quả “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là yêu cầu cấp thiết hiện nay và là nhiệm vụ cơ bản, quan trọng, bảo đảm cho Đảng vững mạnh, đủ sức lãnh đạo công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đến thắng lợi.
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã xác định các nội dung quan trọng để ngăn chặn, đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; trong đó, nhấn mạnh phải: tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao nhận thức trong toàn Đảng về ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng và sự cần thiết của việc học tập, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Quán triệt tinh thần đó, công tác lý luận, tư tưởng của Đảng cần phải tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng cho cán bộ, đảng viên; chú ý nâng cao nhận thức về mục tiêu, lý tưởng cách mạng, về tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội và những hạn chế không tránh khỏi trong thực hiện kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập quốc tế. Cần hết sức coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, đề xuất những vấn đề mới, tìm ra những mô hình hiệu quả để bổ sung và làm phong phú, sâu sắc hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cần khẳng định rằng, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó có nguyên nhân cán bộ, đảng viên coi nhẹ học tập lý luận, hoặc “có học nhưng không hành”, “học để có bằng”, “để tiến thân” chứ không vận dụng vào giải quyết những vấn đề thực tiễn. Vì vậy, để nâng cao chất lượng công tác giáo dục lý luận, cần làm tốt việc quản lý học tập của cán bộ các cấp, bảo đảm “học thật, bằng thật”, không để tiêu cực xảy ra. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vững mạnh, nhất là về phẩm chất, đạo đức, lối sống; tăng cường vai trò lãnh đạo của Ðảng, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong mọi quá trình đổi mới, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế.
Một vấn đề rất quan trọng là xác định tiêu chí và thực hiện có hiệu quả nội dung xây dựng Đảng về đạo đức, chú trọng hệ thống chuẩn mực các mối quan hệ của cán bộ, đảng viên với tổ chức đảng và với nhân dân. Quá trình thực hiện, cần gắn chặt với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Chú ý phát huy tốt vai trò của người đứng đầu và của từng cán bộ, đảng viên trong thực hành rèn luyện, giữ gìn phẩm chất, đạo đức, lối sống, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Các cấp ủy, tổ chức đảng phải có biện pháp kiểm tra, giám sát việc thực hiện cam kết của cán bộ, đảng viên ở địa phương, cơ quan, đơn vị mình. Từng tổ chức cơ sở đảng cần hoàn thiện và thực hiện nghiêm quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là của bí thư, cấp ủy các cấp. Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; đề cao tinh thần tự phê bình và phê bình, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại đấu tranh với những biểu hiện vi phạm. Đồng thời, có cơ chế bảo vệ, khuyến khích người dám đấu tranh,… bảo đảm ngăn chặn kịp thời mọi biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ngay từ cơ sở. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, bảo vệ chính trị nội bộ. Trước tình hình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn biến phức tạp, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng cần tích cực, chủ động và kịp thời bổ sung những nội dung phù hợp; phối hợp chặt chẽ với công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong phát hiện, xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm. Từng cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp cần nắm rõ thực trạng và nguy cơ của tình hình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ngay trong tổ chức mình; kịp thời phát hiện và ngăn chặn hiệu quả mọi biểu hiện vi phạm ngay từ lúc mới manh nha.
Các cơ quan chức năng cần quản lý tốt các hoạt động báo chí, xuất bản, internet và mạng xã hội; phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan báo chí trong đấu tranh với các luận điệu thù địch, sai trái, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Các cấp cần chủ động cung cấp thông tin định hướng, cả thường xuyên và đột xuất, làm cho mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những thành quả trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,… đến với mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân để góp phần triệt tiêu mọi thông tin xuyên tạc, bịa đặt, chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch.
Ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là yêu cầu quan trọng của công tác xây dựng Đảng hiện nay. Đây là nhiệm vụ vừa cơ bản lâu dài, vừa cấp bách đối với các tổ chức đảng và mọi cán bộ, đảng viên, nhằm bảo đảm cho Đảng ta vững mạnh, hoàn thành tốt sứ mệnh mà nhân dân tin tưởng giao phó.
_____________
1 - ĐCSVN - Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII), Văn phòng Trung ương Đảng, H. 2016, tr. 19.
Nguồn: www.tapchiqptd.vn

Cảnh giác với các biểu hiện mơ hồ, thiếu niềm tin vào nền tảng tư tưởng của Đảng


Mơ hồ, thiếu niềm tin vào nền tảng tư tưởng của Đảng tất yếu sẽ gia tăng nguy cơ chệch định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển đất nước. Đây là thực trạng cần được nhận thức đầy đủ, đề cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh loại bỏ.
V. I. Lê-nin khẳng định: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”1, “chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong”2. Vai trò lý luận cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác – Lê-nin đối với phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của các đảng cộng sản được chứng thực trong thực tiễn hơn 170 năm qua. Từ “một bóng ma ám ảnh châu Âu” đến chủ nghĩa xã hội hiện thực, chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã soi rọi cho phong trào cộng sản đi đến thắng lợi, mở ra kỷ nguyên hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội và hạnh phúc cho nhân loại. Lịch sử cũng chứng minh, khi nào, ở đâu sự mơ hồ, thiếu niềm tin, dao động, xa rời hay vận dụng một cách giáo điều,… chủ nghĩa Mác – Lê-nin thì nơi đó tất yếu dẫn đến lúng túng, sai lầm. Sự tan rã của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu trong những năm 90 của thế kỷ trước là một bài học như thế.
Đối với Việt Nam, vai trò “làm cốt”, “nền tảng tư tưởng”, “kim chỉ nam cho hành động” của chủ nghĩa Mác – Lê-nin đối với Đảng ta và cách mạng Việt Nam được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”3. Trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin để lãnh đạo nhân dân ta làm nên những kỳ tích lịch sử, thay đổi căn bản thân phận của dân tộc, nâng cao vai trò, vị thế của đất nước. Đó là sự thật, là bài học kinh nghiệm hàng đầu về trung thành, giữ vững nền tảng tư tưởng, lý luận trong xây dựng và lãnh đạo cách mạng của Đảng ta. Tuy nhiên, hiện nay khi chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng lên theo hướng bền vững hơn; con đường, mô hình phát triển của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng sáng rõ và được quốc tế công nhận,… nhưng thật đáng tiếc, trong Đảng, trong xã hội lại đang hình thành và tồn tại các biểu hiện mơ hồ, thiếu niềm tin vào chính “lý luận nền tảng” để có được những thành tựu ấy. Đó là sự nguy hại khôn lường, bởi đó không chỉ phản ánh tình trạng nhận thức và tình cảm đối với chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh giảm sút, mà còn dẫn đến hành động thực tiễn sai lầm, nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Mơ hồ về chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh thực chất là biểu hiện của việc hạn chế về nhận thức, hiểu không sâu, không chắc, hiểu một cách phiến diện, “chỉ thấy cây mà không thấy rừng”, không nắm được bản chất của những nguyên lý khoa học của lý luận chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là điều bình thường. Bởi, khó có ai có thể tường tận một học thuyết khoa học, cách mạng và toàn diện, thâu tóm gần như toàn bộ tri thức nhân loại như chủ nghĩa Mác – Lê-nin; càng không có nhiều người vận dụng sáng tạo, hiệu quả chủ nghĩa ấy vào thực tiễn cách mạng chưa có tiền lệ như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm ở Việt Nam. Nhưng điều đáng nói là một số người vì mơ hồ mà dao động, thiếu niềm tin, đòi xét lại, phủ nhận, phản bội chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó hoài nghi về mô hình và con đường phát triển của đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Càng nguy hiểm hơn, đây là điều kiện lý tưởng cho các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá cách mạng Việt Nam ngay từ cái gốc, cái nền tảng tư tưởng, lý luận.
Biểu hiện mơ hồ, thiếu niềm tin vào chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đang diễn ra ở nhiều nơi, trong mọi thành phần xã hội. Không khó để nhận thấy, một số người, thậm chí là cán bộ, đảng viên do mơ hồ, thiếu niềm tin vào chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà suy thoái về tư tưởng chính trị, mất lập trường giai cấp, mất phương hướng, tỏ rõ thái độ hoài nghi chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Họ không nhận thức được hết ý nghĩa, tầm quan trọng những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; lười học tập, nói và làm không theo nghị quyết của Đảng, trái pháp luật Nhà nước; suy thoái về tư tưởng chính trị, xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; không kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái. Khi được giao chức, giao quyền thì họ chuyên quyền, độc đoán, gia trưởng, vi phạm nguyên tắc của Đảng, không giữ tư cách đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên,… làm tổn hại đến uy tín của Đảng. Khi cần “tiêu chuẩn” để thăng quan, tiến chức thì họ chạy “tiêu chuẩn”. Khi được học tập để nâng cao trình độ thì họ lại học theo kiểu “đánh trống ghi tên”, lười học chính trị, học không liên hệ với thực tiễn, học rồi để đấy, học cốt là để đủ tiêu chí “thăng quan”; không biết hoặc không có ý thức vận dụng lý luận được học vào thực tiễn công tác, dẫn đến bệnh kinh nghiệm chủ quan, tự mãn với những gì đã có, coi thường và hạ thấp lý luận, tuyệt đối hóa những kinh nghiệm cá biệt, cụ thể, biến chúng thành những kinh nghiệm phổ biến để áp dụng trên mọi lĩnh vực, mọi trọng trách được giao.
Trong lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn công tác, vì mơ hồ về nền tảng tư tưởng của Đảng mà họ mắc bệnh giáo điều, bảo thủ, tuyệt đối hóa lý luận, coi thường và hạ thấp thực tiễn. Một số người khác lại bóc tách một cách siêu hình, không nghiên cứu lý luận một cách thấu đáo, toàn diện những nguyên lý khoa học của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng một cách máy móc theo kiểu “tầm chương trích cú”, không tính đến điều kiện lịch sử cụ thể của cơ quan, đơn vị, địa phương, đất nước mình trong từng thời kỳ. Hậu quả là dẫn đến thất bại và làm méo mó, biến dạng, hoen ố, thui chột những giá trị sống động, biện chứng của lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó, dẫn đến những biểu hiện sống thụ động, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh; thích tham gia bình luận, tranh luận chính trị trên mạng xã hội nhưng không hề có nền tảng kiến thức chính trị cơ bản nào; thậm chí họ cảm thấy ngán ngại khi nhắc đến lý luận chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, v.v. Có nhiều nguyên nhân để lý giải cho điều này, nhưng không thể không đề cập đến nguyên nhân từ những bất cập trong việc giáo dục lý luận chính trị, giảng dạy chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng hiện nay.
Các thế lực thù địch hiện đang đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hòa bình”, chống phá cách mạng nước ta trên tất cả các lĩnh vực với những thủ đoạn hết sức tinh vi, nguy hiểm. Nhiều người vì mơ hồ, thiếu niềm tin vào chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà thiếu bản lĩnh chính trị, lập trường cách mạng, đã ngộ nhận hoặc cố tình tuyên truyền không công cho kẻ thù; vào hùa với các thế lực thù địch và những người mang nặng định kiến, cực đoan chống lại đất nước, chế độ đã sinh ra, dung dưỡng họ. Họ thường lợi dụng và thổi phồng những khó khăn của đất nước, những hạn chế trong phát triển kinh tế, xã hội để xuyên tạc, quy chụp nguyên nhân là do chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, do bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam,… nhằm phủ nhận giá trị lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Thực tế cho thấy, trong xã hội đang hình thành một thứ “văn hóa đổ lỗi” cho Đảng, như: đổi trắng thay đen, so sánh thiệt hơn trình độ phát triển của nước ta với các nước khác một cách phiến diện, thiếu công tâm, không tính đến điều kiện đặc thù mỗi nước,... việc đó đã tạo hiệu ứng tiêu cực cho xã hội.
Thực trạng trên đang cảnh tỉnh cho chúng ta cần lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đồng bộ, hiệu quả hơn nữa các giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận; chủ động phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; kiên quyết đấu tranh để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Tiếp tục “Kiên định chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới”4; chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội; lan tỏa những giá trị trường tồn của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành nền tảng trong đời sống tinh thần xã hội.
Với bản chất khoa học và cách mạng, chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã đứng vững trước những thử thách khắc nghiệt của lịch sử và sự chống phá điên cuồng của kẻ thù. Vượt lên trên tất cả mọi sự xuyên tạc, bôi nhọ,… với mọi thủ đoạn thâm độc của các thế lực phản động, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vẫn sáng ngời và trường tồn với dân tộc. Đó là sự thật không thể phủ nhận. Hiện nay, sự vận động biến đổi nhanh chóng của thực tiễn trong thời kỳ cách mạng Công nghiệp 4.0 đang đặt ra nhiều thách thức mới về lý luận. Đây cũng là cái cớ để các thế lực thù địch ra sức phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh với những luận điệu và thủ đoạn ngày càng tinh vi, nguy hiểm hơn. Do đó, cần nhận thức đúng, nâng cao cảnh giác, khắc phục những biểu hiện mơ hồ, thiếu niềm tin vào nền tảng tư tưởng của Đảng, góp phần bảo vệ, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới.

______________________
1 - V. I. Lê-nin - Toàn tập, Tập 6, Nxb Tiến bộ, M. 1975, tr. 30.
2 - Sđd, tr.32.
3 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 2, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 289.
4 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 199.
Nguồn: www.tapchiqptd.vn

NHẬN DIỆN NGUYÊN NHÂN CỦA “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” TRONG CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY


Hiện nay, nguyên nhân của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên có nhiều nhưng trước hết là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Đây là nguyên nhân đầu tiên cần phải nhận thức rõ để đấu tranh, phòng ngừa có hiệu quả. Bởi lẽ, nếu mỗi chúng ta có được bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn thì không thể “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được. Bởi vậy, mỗi cán bộ, đảng viên phải ra sức học tập, nắm vững những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng để lý giải được những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra. Thường xuyên tu dưỡng, phấn đấu, trau dồi phẩm chất đạo đức cách mạng, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, nâng cao sức đề kháng thì không một căn bệnh nào có thể thâm nhập được. 
Một trong những nguyên nhân quan trọng nữa là trong công cuộc đổi mới, bên cạnh những kết quả đạt được thì vẫn còn một số vấn đề mà cả lý và thực tiễn chưa giải quyết được. Những mặt trái của nền kinh tế thị trường đang hàng ngày, hàng giờ tác động đến nhiều lĩnh vực làm sói mòn phẩm chất đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc; đến tâm tư, tình cảm của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Trong khi đó, các thế lực thù địch lại ra sức lợi dụng những hạn chế, yếu kém trong bộ máy công quyền, sự thoái hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên để kích động, nói xấu Đảng, Nhà nước và sự nghiệp cách mạng ở nước ta. Chúng sử dụng nhiều biện pháp hết sức tinh vi, thâm độc mà bình thường chúng ta khó có thể nhận biết được. Đặc biệt, chúng lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để tuyên truyền, kích động nói xấu Đảng, Nhà nước, gây chia rẽ, mất đoàn kết, làm ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống sinh hoạt hằng ngày của nhân dân ta.
                                         HVP


BÀI HỌC Ở LIÊN XÔ VÀ ĐÔNG ÂU VỀ “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” TRONG ĐẢNG


Bài học ở Liên Xô và các nước Đông Âu vẫn luôn nhắc nhở chúng ta về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng. Bằng những thủ đoạn chống phá, tạo sự chuyển hóa từ bên trong, các thế lực thù địch ra sức thúc đẩy nhanh quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở ngay trong đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Nguy hiểm hơn là “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ lãnh đạo Đảng và chính quyền Nhà nước xã hội chủ nghĩa; ở những cán bộ cấp cao, cán bộ có nhiệm vụ hoạch định chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng, Nhà nước và đặc biệt nguy hiểm là “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở những cán bộ cấp cao giữ vai trò “cầm lái con thuyền đất nước”. V.I. Lênin đã cảnh báo: “Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta… Nếu chúng ta do sai lầm mà gây ra sự chia rẽ thì tất cả sẽ sụp đổ”[1]. Vì lẽ đó, đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên phải được tiến hành thường xuyên, liên tục.
HVP


[1] V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1977, tập 42, tr.311.

ĐẨY MẠNH CHỐNG “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” TRONG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY


“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thực sự trở thành một trong những nguy cơ hàng đầu đối với Đảng Cộng sản Việt Nam. Do vậy, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đặc biệt trong cán bộ, đảng viên hiện nay là yêu cầu, nhiệm vụ cấp bách của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Nhiều lần Đảng ta đã chỉ rõ nguy cơ của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh: Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp như tham nhũng, lãng phí, “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới, nhất là triệt để sử dụng các phương tiện truyền thông trên mạng Internet để chống phá ta và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ[1]. Những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có xu hướng diễn biến phức tạp trong Đảng, trong hệ thống chính trị và trong xã hội[2]. Đây thật sự là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ; là điều kiện, là “mảnh đất tốt” để các thế lực thù địch tăng cường hoạt động “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là những âm mưu, thủ đoạn mà các thế lực thù địch đã thực hiện trong nhiều năm qua và ngày càng quyết liệt, tinh vi, xảo quyệt hơn nhằm đẩy nhanh quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Vì vậy, phải “ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””[3].
                                                 HVP




[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2016, Tr.68.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2016, Tr.195.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2016, Tr.201.

Phòng, chống "tự diễn biến”, "tự chuyển hóa" cần có lực lượng rộng rãi


Qua theo dõi, chúng tôi nhận thấy, hiện nay có một số bạn đọc chưa hiểu rõ về lực lượng sẽ tham gia vào việc phòng, chống chiến lược "diễn biến hòa bình" nói chung; phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nói riêng. Sau khi tìm hiểu, chúng tôi xin cung cấp một số thông tin tới bạn đọc.

Trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng ta về phòng, chống chiến lược "diễn biến hòa bình"; phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" đều xác định, lực lượng tham gia nhiệm vụ trên ở nước ta hiện nay gồm: Một là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở; hai là hệ thống các nhà trường trong cả nước; ba là các cơ quan, viện nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn; bốn là hệ thống các cơ quan báo chí của Trung ương, của các địa phương, các cấp, các ngành.
Trong đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội các cấp trong hệ thống chính trị có nhiệm vụ xây dựng các nghị quyết, chương trình hành động, kế hoạch hoạt động, đấu tranh trong hệ thống tổ chức của mình. Đồng thời trực tiếp tuyên truyền, giáo dục cho các thành viên, đoàn viên, hội viên và nhân dân hiểu rõ về bản chất của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tác hại của nó đối với xã hội và sự nghiệp cách mạng Việt Nam, tính cấp bách và ý nghĩa chính trị-xã hội to lớn của việc phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”...
Hệ thống nhà trường ở nước ta là lực lượng đặc biệt quan trọng trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, trước hết đối với thế hệ trẻ của đất nước. Thực tế cho thấy hiện nay, các hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nảy sinh ngay từ thế hệ trẻ, học sinh, sinh viên. Không ít những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, các tiêu cực và tệ nạn xã hội đã thâm nhập trực tiếp vào các nhà trường, vì vậy, các nhà trường phải vừa trang bị tri thức, giáo dục hình thành phẩm chất, nhân cách của con người Việt Nam mới, vừa kết hợp ngăn chặn các nguồn gốc, nguy cơ, tác nhân dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong học sinh, sinh viên.
Các cơ quan, viện nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn là lực lượng trực tiếp nghiên cứu các công trình khoa học các cấp, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa" nhằm cung cấp những luận cứ khoa học giúp Đảng xác định những chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo đấu tranh hiệu quả; đồng thời tổ chức các cuộc hội thảo lý luận và thực tiễn, biên soạn những chuyên đề chuyên sâu, sách chuyên khảo, tham khảo cho các chủ thể, các tổ chức, các lực lượng trong triển khai phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta. 
Với ưu thế mạnh mẽ của mình, các cơ quan thông tấn, báo chí, phát thanh, truyền hình có tiềm lực to lớn trong đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Vì vậy bản thân các cán bộ, phóng viên, biên tập viên của các cơ quan thông tấn, báo chí cần phát huy vai trò, thế mạnh của mình trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thông qua các tác phẩm báo chí về chủ đề này. Các cơ quan báo chí cần huy động các nhà nghiên cứu, đội ngũ chuyên gia, nhà giáo, báo cáo viên, tuyên truyền viên... để tạo lực lượng rộng rãi, chuyên sâu cùng đấu tranh trực diện trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Nguồn: www.qdnd,vn

Bảo đảm an toàn thông tin trên mặt trận tư tưởng


Mặt trận tư tưởng được coi là “mặt trận không tiếng súng” nhưng mối nguy hại từ những luồng tư tưởng xấu lại có sức công phá lớn đe dọa đến sự tồn vong của quốc gia, dân tộc. Lành mạnh hóa không gian, môi trường sống với nền tảng tư tưởng vững mạnh, hệ thống thông tin đáng tin cậy cùng bản lĩnh chính trị của người truyền phát - tiếp nhận thông tin là nhân tố quan trọng góp phần chống lại những luận điệu xuyên tạc của thế lực thù địch trong và ngoài nước.
Sự nhiễu loạn thông tin trên mặt trận tư tưởng
Thông tin là sức mạnh, vì thế việc kiểm soát tốt thông tin, nhất là những thông tin chính trị, ngoại giao, quân sự, kinh tế, khoa học có vai trò quan trọng quyết định đến sự lớn mạnh, ổn định, phát triển của mỗi quốc gia. Trên mặt trận tư tưởng, thông tin là hạt nhân, là cầu nối quan trọng giữa chủ thể truyền phát (cơ quan, đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội) với chủ thể tiếp nhận (công chúng). Đó là mối quan hệ, tương tác hai chiều, tác động qua lại và chi phối lẫn nhau. Thông tin tốt sẽ định hướng, tập hợp được quần chúng, tạo sự đồng thuận cùng hướng đến những lý tưởng mục tiêu tốt đẹp. Trái lại, những thông tin xấu, độc có tác động tiêu cực, gây hoang mang, dao động, suy giảm niềm tin; kích động bạo lực, lật đổ với mưu đồ chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, làm thay đổi nhận thức, hành động của con người theo chiều hướng xấu, tạo sự khủng hoảng và những cơn dư chấn mạnh trong đời sống chính trị - xã hội, gây “những tổn thương tinh thần” cho nhiều thế hệ… Do vậy, việc kiểm soát tốt thông tin với tính chất là khâu đầu tiên “thanh lọc” những vấn đề tốt - xấu để định hướng, tuyên truyền, mang đến cho người tiếp nhận những tri thức hữu ích nhằm không ngừng nâng cao trình độ văn hóa, kiến thức chuyên ngành, phục vụ tốt nhất cho hoạt động sản xuất vật chất và nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân là việc làm cần thiết, cấp bách, lâu dài, có ý nghĩa chiến lược.
Kiểm soát thông tin, trách nhiệm đầu tiên thuộc về cơ quan quản lý, các tổ chức đoàn thể chính trị, nhưng vai trò của chủ thể nhân dân cũng không kém phần quan trọng. Việc chủ động, nâng cao trình độ nhận thức sẽ là những điều kiện đầu tiên, căn bản để người dân tự kiểm soát, chắt lọc, nhận diện thông tin.
Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, internet mang lại những cơ hội thuận lợi để con người ở các châu lục có điều kiện tiếp cận, trao đổi, giao lưu một cách dễ dàng, thuận tiện, nhanh nhạy trên mọi lĩnh vực, không phân biệt màu da, dân tộc, giai tầng, lứa tuổi; giúp các quốc gia, dân tộc xích lại gần với nhau hơn; xóa nhòa khoảng cách về không gian địa lý, mở ra những cơ hội, vận hội mới để cùng nhau hợp tác, phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực thì mặt trái của internet, mạng xã hội cũng gây ra những hệ lụy không nhỏ, tác động tiêu cực đến đời sống tư tưởng, tình cảm con người, nhất là tầng lớp thanh thiếu niên. Trên không gian mạng hiện nay, bên cạnh những thông tin chính thống, phản ánh sự thật lại là sự áp đảo của các thông tin xuyên tạc, bịa đặt được cung cấp bởi các thế lực thù địch, các nhà mạng nước ngoài. Sự tràn ngập của các thông tin tốt - xấu lẫn lộn, sự xâm lăng văn hóa, sự xuất hiện của những xuất bản phẩm kém giá trị, sự lộng hành của các trang web “đen”, những hạn chế, yếu kém trong công tác quản lý truyền thông… đang tạo những nguồn cơn dẫn đến nguy cơ của cuộc chiến tranh mới mà Đại hội XII của Đảng gọi là “chiến tranh cục bộ, chiến tranh mạng”(1), đe dọa đến sự an toàn, an ninh con người ở nước ta hiện nay.
Một trong những thách thức trong công tác tư tưởng là sự nhiễu loạn của hệ thống thông tin với những tin tốt - xấu lẫn lộn, khó kiểm soát. Với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, sự trỗi dậy của các nhóm, thế lực phản động, chúng đã tận dụng những ưu thế vượt trội của công nghệ số, mạng xã hội để tuyên truyền những tư tưởng độc hại nhằm gây nhiễu thông tin chính thống, làm ô nhiễm môi trường, không gian mạng, gây hoang mang dư luận; phá vỡ niềm tin và cắt đứt sợi dây liên kết giữa Đảng với nhân dân, nhất là vào những thời điểm mang ý nghĩa chính trị - lịch sử quan trọng như trước và sau các kỳ Đại hội Đảng, các ngày lễ kỷ niệm, các sự kiện trọng đại của đất nước với tần số bài viết đăng tải lớn trên nhiều kênh, phương tiện truyền thông nhằm bôi nhọ danh dự, nhân phẩm của các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, gây sự chú ý, tò mò của công chúng, làm lạc hướng dư luận. Không chỉ tấn công vào hệ thống chính trị trong những thời điểm cụ thể mà hằng ngày, hằng giờ trên không gian mạng, các trang web có nội dung thiếu lành mạnh, cắt ghép hình ảnh, thêm bớt thông tin theo chiều hướng bất lợi xuất hiện liên tục, bàn luận đến nhiều vấn đề, sự kiện trong nước, chủ yếu xoáy sâu vào những góc khuất, những mặt trái của xã hội với cái nhìn định kiến, bịa đặt, xuyên tạc, kình địch với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, phủ nhận những thành quả cách mạng trong công cuộc đổi mới của nước ta.
Giải pháp bảo đảm an toàn thông tin trên mặt trận tư tưởng
Mặt trận tư tưởng được coi là mặt trận sống còn trong công tác xây dựng Đảng. Sự thống nhất, đồng thuận về tư tưởng, nhận thức, giữ vững và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ là động lực quan trọng làm nên sự ổn định, vững bền của quốc gia. Tuy nhiên, những lỗ hổng trong công tác an toàn, an ninh thông tin, sự tấn công, chống phá của các thế lực thù địch, mặt trái của công nghệ thông tin, internet… tạo những kẽ hở để những thông tin xấu hoành hành, gây hậu quả nghiêm trọng, chi phối đến nhận thức, hành động của nhiều thế hệ. 
Dự thảo Luật An ninh mạng do Bộ Công An soạn thảo, sau 14 lần chỉnh sửa đã chính thức trình Quốc hội tại kỳ họp lần thứ 4, Quốc hội khóa XIV, nhận được sự quan tâm lớn của dư luận, cho thấy “cuộc chiến trên không gian mạng” là vô cùng khó khăn, quyết liệt. Để tạo không gian, môi trường tư tưởng lành mạnh, có văn hóa trên các trang mạng, các phương tiện truyền thông, người dân được tiếp cận với những thông tin chính thống, đúng sự thực, bản chất vấn đề, công tác tư tưởng của Đảng được thông suốt cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và sự hưởng ứng nhiệt tình của đông đảo nhân dân, với những biện pháp cụ thể.
Thứ nhất, cần thống nhất trong nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền và người dân về vai trò đặc biệt của công tác tư tưởng, lý luận đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, cũng như công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Triển khai có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của Đảng có liên quan trực tiếp và gián tiếp đến việc đấu tranh chống lại các luận điệu sai trái trên mặt trận tư tưởng; ngăn chặn, đẩy lùi âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch cũng như những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, như: Nghị quyết Trung ương 5 khóa X về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới; Nghị quyết số 37-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XI về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030; Nghị quyết Hội nghị Trung ương khóa XI về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Bên cạnh đó, việc nâng cao ý thức chấp hành, thực thi pháp luật của các cơ quan chủ quản, người tham gia sử dụng công nghệ thông tin, internet, mạng xã hội cần được quan tâm, tăng cường, nhất là những quy định trong Nghị định số 72/2013/NĐ-CP, ngày 15-7-2013, của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng; Luật An ninh quốc gia (năm 2004); Luật An toàn thông tin mạng (năm 2015); Luật báo chí (năm 2016)… Đây là hành lang pháp lý và những tri thức công cụ cần được trang bị trước khi sử dụng, tham gia hoạt động đăng tải và tiếp nhận thông tin trên mạng internet.
Thứ hai, để cung cấp cho công chúng những thông tin tốt, có chất lượng, bảo đảm độ chính xác, tin cậy đến với nhân dân, các cơ quan, đoàn thể phụ trách về công tác thông tin truyền thông, tuyên truyền cần phối hợp tốt với các cấp chính quyền trong việc cung cấp thông tin chính thống cho báo chí; kịp thời định hướng dư luận, tránh sự hiếu kỳ, đồn thổi. Nhằm có những thông tin tốt, có trọng lượng, đòi hỏi người làm công tác thông tin tuyên truyền phải không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, xử lý khéo léo, linh hoạt trong mọi tình huống. Có khả năng dự báo tình hình, đoán định những kịch bản có thể xảy ra. Thường xuyên đổi mới tư duy, cập nhật những vấn đề mới; có những tham mưu, tư vấn hữu ích đối với những nhà hoạch định đường lối, chính sách.
Thứ ba, với những diễn biến phức tạp trên mạng xã hội hiện nay, việc tăng cường công tác quản lý nhà nước về thông tin truyền thông là yêu cầu bức thiết. Đặc biệt đối với các cơ quan thông tấn, báo chí cần bám sát mục tiêu, tôn chỉ, đường lối của Đảng; biểu dương, nhân rộng những tấm gương tiêu biểu, những mô hình, cách thức; phản ánh những hành vi sai trái, những luận điệu xuyên tạc, tạo dựng niềm tin, xây dựng lý tưởng, khát vọng cho nhân dân.
Sự bùng nổ của công nghệ thông tin, nhiều loại hình báo, đài ra đời, nhất là các trang thông tin điện tử khiến cho công tác quản lý, định hướng gặp nhiều khó khăn, không theo kịp sự phát triển. Trong khi đó, do tác động của cơ chế thị trường, đồng tiền, danh vị, nhiều cơ quan báo chí và đội ngũ phóng viên, biên tập đã cho đăng tải những thông tin kém giá trị, những hình ảnh phản cảm, có tác động xấu đến việc hình thành tư tưởng, tình cảm cho tầng lớp thanh thiếu niên. Một số cây bút chạy theo tâm lý thời thượng, không kiểm soát được nội dung thông tin gây ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của nhiều cá nhân, tổ chức.
Bên cạnh đó, những vụ, việc đưa tin thất thiệt, những bình luận cá nhân về những vấn đề chính trị, hành động đăng tải những hình ảnh, clip thiếu chuẩn mực văn hóa trên mạng xã hội facebook đã vô tình gây nguy hại lớn cho cá nhân, gia đình và toàn xã hội. Vì vậy, việc tăng cường giáo dục ý thức pháp luật, nâng cao năng lực, hành vi của người dùng internet cũng như có hình phạt xứng đáng, có tính răn đe với những hành vi vi phạm mới có thể làm lành mạnh, trong sạch không gian, môi trường thông tin trên mạng xã hội.
Việc triển khai Đề án Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025 cần được triển khai đồng bộ, thống nhất theo hướng tinh gọn, hiệu quả, nâng cao tính chủ động, tích cực, sáng tạo của các cơ quan báo chí trên mặt trận tư tưởng. Xây dựng những báo điện tử lớn, có độ tin cậy và tầm ảnh hưởng sâu rộng trong công chúng để việc tuyên truyền, định hướng thuận lợi, có kết quả.
Để quản lý hoạt động tư tưởng, các nhà ban hành luật, chính sách cần nhanh nhạy, kịp thời nắm bắt tình hình thực tiễn, tránh máy móc, hành chính quan liêu, xử lý không khéo dẫn đến khủng hoảng truyền thông, gây bất lợi cho các cơ quan, đoàn thể. Đối với việc quản lý, theo dõi các trang mạng nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, cần có chế tài và sự phối hợp nhịp nhàng để tranh thủ sự ủng hộ của các nhà mạng; có cơ chế phối hợp để cùng họ kiểm soát, quản lý tốt thông tin cá nhân, tổ chức được đăng tải, phù hợp với quy định, thông lệ quốc tế và pháp luật của Việt Nam.
Thứ tư, tăng cường hợp tác, trao đổi kinh nghiệm về quản lý internet, mạng xã hội với các nước tiên tiến trên thế giới. Tranh thủ sự hỗ trợ về công nghệ thông tin, hạ tầng kỹ thuật, đổi mới công nghệ nhằm kiểm soát thông tin tối ưu. Bởi trong bối cảnh quốc tế hóa sâu rộng hiện nay, việc liên kết giữa các quốc gia trong khu vực, vùng lãnh thổ là điều kiện tiên quyết trong việc hợp tác cùng xử lý những bất cập nảy sinh trên không gian mạng - một không gian xuyên biên giới, tác động đến mọi quốc gia, dân tộc. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh nghiên cứu, xây dựng các “bức tường lửa” ngăn chặn sự tấn công, hoành hành của các nhà mạng nước ngoài có động cơ can thiệp vào công việc nội bộ quốc gia, muốn truyền bá những tư tưởng, xuất bản phẩm độc hại.
Thứ năm, đối với chủ thể sử dụng, tham gia hoạt động cung cấp, tiếp nhận thông tin cần trang bị cho mình những tri thức cần thiết, nhất là kiến thức pháp luật để ứng xử có văn hóa trên không gian mạng. Người dùng internet ở Việt Nam rất đa dạng và ngày càng trẻ hóa, thuộc mọi giai tầng, lứa tuổi, vùng, miền. Nếu họ không được trang bị những kiến thức tối thiểu về trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn của bản thân, những ích lợi và hậu quả khôn lường từ mạng xã hội thì sự tiêm nhiễm những tư tưởng độc hại rất dễ xảy ra. Điều này đặt ra nhiều vấn đề về công tác giáo dục của gia đình, nhà trường, xã hội, cần tạo ra những không gian lành mạnh, nhân văn để thế hệ trẻ có nền tảng tư tưởng, văn hóa cần thiết, biết nhận diện đâu là tốt, là xấu để cống hiến và bảo vệ nền tảng tư tưởng mà Đảng, nhân dân đã lựa chọn.
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, công tác tư tưởng của Đảng cần phải đổi mới mạnh mẽ cả về nội dung, phương thức tuyên truyền, cần lựa chọn, bổ sung những cán bộ “vừa hồng, vừa chuyên” trên mặt trận đầy chông gai, thử thách. Cần tỉnh táo, chủ động trong tiếp nhận thông tin cùng bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hướng về nhân dân để phục vụ, như vậy công tác tư tưởng sẽ là “thành trì” vững mạnh bảo vệ sự ổn định, phát triển vững bền của quốc gia, dân tộc trong bối cảnh, tình hình phức tạp hiện nay./.
-------------------------
(1)   Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 71
                                          Nguồn: http://www.tapchicongsan.org.vn

Giải pháp đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên internet và mạng xã hội trong quân đội hiện nay


Sự phát triển của công nghệ thông tin và các ứng dụng trên không gian mạng đã làm thay đổi bộ mặt của xã hội; internet và mạng xã hội có tầm ảnh hưởng cả tích cực và tiêu cực đến người dân Việt Nam, trong đó có cán bộ, đảng viên, nhân viên, hạ sỹ quan, binh sỹ trong quân đội. Các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng sự phát triển của internet, mạng xã hội để tăng cường hoạt động tuyên truyền chống Đảng, Nhà nước, quân đội...
Sự chống phá của các thế lực thù địch trên internet và mạng xã hội đối với quân đội thể hiện ở những nội dung sau: Một là, tập trung chống phá trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội. Phê phán, đả kích, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc Đảng lãnh đạo quân đội trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt. Cổ xúy “phi chính trị hóa” quân đội, quân đội phi giai cấp... Bản chất và mưu đồ của chúng là từng bước làm cho quân đội biến chất về chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” dẫn tới mất sức chiến đấu.Hai là, tập trung phá hoại bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, chức năng và nhiệm vụ của quân đội ta. Chúng tăng cường tuyên truyền, đăng tải các thông tin bịa đặt, bôi nhọ, xuyên tạc truyền thống, bản chất của quân đội. Phát tán những quan điểm, tư tưởng đối lập với quan điểm của Đảng như: đòi xét lại vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam. Chúng yêu cầu xây dựng lực lượng vũ trang toàn dân, trả quân đội về cho Nhà nước, tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng... Ba là, tuyên truyền chống phá các nguyên tắc tổ chức cơ bản trong xây dựng quân đội, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội.Tập trung tiến hành những chiến dịch tuyên truyền chống phá với trọng tâm là bôi nhọ, hạ uy tín của các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước và quân đội.

Thủ đoạn cơ bản mà các thế lực thù địch sử dụng để tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước và quân đội trên internet, mạng xã hội là tuyên truyền các nội dung trá hình, bới móc, thổi phồng, xuyên tạc những sai lầm, khuyết điểm hoặc lợi dụng những hạn chế, sơ hở trong quản lý để vu khống, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò của quân đội. Thường xuyên theo dõi các hoạt động, diễn biến của quân đội để xuyên tạc đường lối chính trị, quân sự quốc phòng của Đảng và Nhà nước. Bên cạnh đó, chúng còn thiết lập các trang web, các blog, mở các “diễn đàn”, “câu lạc bộ” trên mạng nhằm phát tán tài liệu phản động và truyên truyền, nhào nặn, trộn lẫn thật - giả, tốt - xấu; phát tán các thông tin, tài liệu, hình ảnh, video clip có nội dung tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước và quân đội để vu cáo; tăng cường lôi kéo các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị để chống phá quân đội. Ngoài ra, chúng còn xuyên tạc các thông tin mới, làm mới các thông tin cũ, triệt để lợi dụng các thông tin về mặt trái, tiêu cực trong quân đội; những ý kiến, quan điểm sai lệch từ các nguồn tin trên một số phương tiện thông tin đại chúng gắn với những bình luận chủ quan, bóp méo, xuyên tạc sự thật, thổi phồng gây “nhũng nhiễu” thông tin, kích động tâm lý đám đông nhằm tập hợp lực lượng, lôi kéo các thành phần chống đối tham gia. Đẩy mạnh hoạt động mua chuộc, móc nối, lôi kéo các phần tử suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bất mãn. Tạo dựng ra cái gọi là “sự đấu đá giữa các phe, cánh” tranh giành quyền lực để gây sự nghi kỵ, ngờ vực, gây chia rẽ, phá hoại lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, Nhà nước và quân đội. Sử dụng không gian mạng để tuyên truyền, kích động, kêu gọi khủng bố, gây hoang mang trong dư luận xã hội.
Việc nhận diện và đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên internet, mạng xã hội trong quân đội luôn được Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam thường xuyên quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện chặt chẽ. Các cấp ủy đảng trong quân đội và toàn quân đã quán triệt và thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị về đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch. Phát huy vai trò của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ chính trị các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo và hướng dẫn thực hiện đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên internet, mạng xã hội. Làm tốt công tác giáo dục, định hướng tư tưởng, nâng cao nhận thức và trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên, quần chúng trong đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch. Huy động sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng tham gia vào cuộc, đồng thời có sự đổi mới về nội dung, phương pháp, hình thức đấu tranh... Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế như việc quán triệt, triển khai thực hiện một số chủ trương, kết luận của Ban Bí thư và Quân ủy Trung ương, hướng dẫn của Tổng cục Chính trị ở một số cấp ủy chưa chặt chẽ. Công tác tuyên truyền, giáo dục của một số cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, một số cơ quan chính trị các cấp nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và quần chúng về âm mưu, thủ đoạn, phương thức và tác hại của các quan điểm sai trái, thù địch trên internet, mạng xã hội còn hạn chế. Bảo vệ chính trị nội bộ có lúc, có nơi còn sơ hở, để lọt, lộ thông tin, tài liệu. Tình trạng vi phạm pháp luật và kỷ luật quân đội nghiêm trọng chưa giảm. Việc đấu tranh phản bác lại các quan điểm sai trái, thù địch trên các phương tiện thông tin đại chúng, internet, mạng xã hội chưa thường xuyên, chưa đa dạng về hình thức và sức lan tỏa còn hạn chế. Một số đơn vị chưa chủ động trong nhận diện và đấu tranh có hiệu quả đối với các quan điểm sai trái, thù địch. Còn thiếu những hình thức và giải pháp cụ thể, có sức thuyết phục để xây dựng, củng cố niềm tin, phản bác những quan điểm sai trái, giải đáp những khúc mắc, băn khoăn, mâu thuẫn nảy sinh trong công cuộc đổi mới. Chưa phát huy hết vai trò của các lực lượng, phương tiện trong nhận diện và đấu tranh chống các quan điểm sai trái trên internet, mạng xã hội. Việc cung cấp, cập nhật thông tin tích cực của Đảng, Nhà nước và quân đội trên internet, mạng xã hội chưa thường xuyên...
Những hạn chế cơ bản trên chủ yếu xuất phát từ việc cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị ở một số đơn vị nhất là ở cơ sở chưa quan tâm đúng mức, lãnh đạo, chỉ đạo trong đấu tranh còn chung chung, triển khai thực hiện chưa triệt để, thiếu kiểm tra đôn đốc. Một số bộ phận giúp việc, lực lượng đấu tranh chuyên sâu chưa hoạt động thường xuyên.Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, định hướng nhận thức có thời điểm, có nơi còn thiếu sâu sắc, thiếu nhạy bén, tính thuyết phục chưa cao. Còn biểu hiện bàng quang, thờ ơ trước các quan điểm, thông tin sai trái, thù địch lan truyền trên internet, mạng xã hội. Ý thức tự giác, tích cực, chủ động và trách nhiệm tham gia vào cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch còn nhiều hạn chế. Nhiều vấn đề tư tưởng nảy sinh ở các đơn vị cơ sở chưa được giải quyết thấu đáo, kịp thời; trong phát ngôn, ứng xử với nhân dân của một số cán bộ, đảng viên còn thiếu gương mẫu, gây phản cảm và bất bình trong nhân dân và dư luận. Một số cơ quan, đơn vị chấp hành quy chế, quy định về bảo vệ chính trị nội bộ, giữ bí mật quốc gia, bí mật quân sự chưa tốt; chấn chỉnh các sai phạm có lúc chưa kiên quyết, chưa kịp thời. Công tác nghiên cứu lý luận còn nhiều bất cập, chưa tạo cơ sở khoa học vững chắc cho đấu tranh phòng, chống các quan điểm thù địch, sai trái một cách hiệu quả. Chưa dự báo hết diễn biến phức tạp của tình hình, những vấn đề mới nảy sinh...
Để góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên internet, mạng xã hội chống phá cách mạng Việt Nam, Quân đội nhân dân Việt Nam cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Một là, tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tinh thần chủ động nhận diện và đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên internet, mạng xã hội cho cán bộ, đảng viên, công nhân viên, chiến sỹ trong toàn quân. Để thực hiện có hiệu quả, chất lượng và có chiều sâu nhiệm vụ này, trước hết, cần phát huy vai trò của các cấp ủy đảng, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên các cấp trong tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm và tinh thần tích cực, chủ động cho cán bộ, đảng viên, quần chúng trong đấu tranh phòng, chống các quan điểm sai trái, thù địch. Tạo nhận thức đúng đắn, toàn diện và đầy đủ về tính hai mặt của internet, mạng xã hội cũng như âm mưu, thủ đoạn, phương thức chống phá của các thế lực thù địch. Tạo khả năng “miễn dịch” trước các thông tin xấu độc, cũng như tăng sức “đề kháng” để chủ động tiến công, kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng nhằm trang bị lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước... Tập trung xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, giáo dục lòng yêu nước, ý chí chiến đấu và rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng trong đơn vị.Làm tốt công tác tư tưởng, nhất là trong quản lý bộ đội. Đẩy mạnh nghiên cứu làm sáng rõ cơ sở khoa học của đường lối, chủ trương của Đảng về quân sự quốc phòng; luận giải thấu đáo, thuyết phục những vấn đề mới nảy sinh...
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy và cơ quan chính trị các cấp trong nhận diện và đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên internet, mạng xã hội. Các cấp ủy đảng, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị các cấp cần xác định rõ vai trò, trách nhiệm và sự cấp thiết phải nhận diện, đấu tranh với các quan điểm sai trái thù địch. Đưa nhiệm vụ đấu tranh vào nghị quyết lãnh đạo thường kỳ hoặc chuyên đề của cấp ủy đảng và nội dung sinh hoạt của tổ chức đảng, sát với thực tiễn thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị. Xây dựng các chương trình, kế hoạch, nội dung đấu tranh trọng tâm, trọng điểm sát với lãnh đạo, chỉ đạo của cấp trên. Tăng cường hiệu lực cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm để vận dụng sáng tạo phù hợp với tình hình trong từng thời kỳ, chống giáo điều, máy móc. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo các tổ chức quần chúng như Hội đồng quân nhân, tổ chức đoàn thanh niên, phụ nữ, công đoàn... trong đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch. Làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện mơ hồ, ngộ nhận, mất cảnh giác trước các nguồn thông tin xấu độc, phản động. 
Ba là, chủ động nắm tình hình, phát hiện sớm hoạt động chống phá của các thế lực thù địch để đấu tranh ngăn chặn. Công tác nắm tình hình cần tập trung vào những vấn đề cụ thể như: Phát hiện các trang web, blog, “diễn đàn” thường xuyên đăng tải những nội dung xấu, thù địch; phát hiện âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước, quân đội trên không gian mạng. Phối kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan điều tra, bảo vệ chính trị nội bộ của quân đội và Công an nhân dân để kịp thời nhận diện rõ những phương thức, thủ đoạn mới; phát hiện cá nhân, tổ chức sở hữu, quản lý, điều hành các trang mạng xã hội thường xuyên đăng tải các bài viết, hình ảnh, video tuyên truyền phá chống phá Đảng, Nhà nước và quân đội. Sử dụng tổng hợp các lực lượng, phương tiện, biện pháp công tác, thường xuyên rà soát, lên danh sách các trang web, blog, diễn đàn có nội dung chống phá, các đối tượng viết bài (có tên thật hoặc nickname, bút danh); khai thác thông tin trên các trang web, blog, diễn đàn để xác định đối tượng sở hữu, quản lý, viết bài và đề xuất biện pháp đấu tranh, xử lý.
Bốn là, thường xuyên đổi mới phương thức, huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, đẩy mạnh hoạt động đấu tranh phản bác luận điệu sai trái, thù địch tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước, quân đội của các thế lực thù địch. Quân đội nhân dân Việt Nam cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, ban, ngành có liên quan đẩy mạnh hoạt động đấu tranh phản bác quan điểm, luận điệu thù địch, sai trái của các đối tượng, phần tử xấu trên internet, mạng xã hội. Đa dạng hóa hoạt động đấu tranh theo hướng: thiết lập và sử dụng các trang web, blog, diễn đàn để đăng tải các bài viết với nội dung tuyên truyền các quan điểm chính thống, định hướng dư luận, phản bác hoặc tiến hành đấu tranh phản bác ngay tại các trang mạng “độc hại”, phản động được đối tượng sử dụng. Xây dựng và mở rộng đội ngũ cộng tác viên đưa tin, viết bài, bình luận; nâng cao chất lượng các bài viết đấu tranh phản bác với luận cứ khoa học, tính thuyết phục cao. Kết hợp chặt chẽ các biện pháp đấu tranh, cả trực tiếp và gián tiếp; giữa xây và chống, trong đó lấy xây là chính; chủ động cung cấp thông tin và phối hợp với các cơ quan báo chí để viết bài đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên internet, mạng xã hội.
Có thể thấy, nhận diện và đấu tranh có hiệu quả với các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trên internet, mạng xã hội là cuộc chiến đầy khó khăn, thách thức đối với quân đội ta cả trong hiện tại và tương lai. Việc thực hiện tốt những giải pháp trên sẽ góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch của các thế lực chống phá cách mạng Việt Nam trên internet, mạng xã hội trong thời gian tới./.
Nguồn: www.tapchicongsan.org.vn