Thứ Hai, 18 tháng 11, 2019

Sự bịa đặt và kích động trắng trợn


Tôi có đọc thấy một nhận định rất chủ quan của Thường Sơn rằng “Đảng giãy giụa trước khi giãy chết”. Thật ra, đó là một nhận định to gan, một nhận định động trời, một nhận định đầy xuyên tạc và bịa đặt, đầy kích động chống đối.
Không hiểu tác giả Thường Sơn căn cứ vào đâu mà đưa ra con số bịa đặt rằng có đến 40% đảng viên thoái Đảng, hơn nữa còn dự báo con số có thể lên tới 50 - 60%.
Đảng chưa bao giờ giấu giếm nhân dân về thực trạng tình hình Đảng. Gần 90 năm qua, thời kỳ nào cũng vậy, vẫn có một số đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng, bị khai trừ. Nhưng đó vẫn là con số cá biệt. Đảng cũng tự chỉ ra tình trạng nhạt đảng, nhưng đó cũng chỉ là một số đảng viên. Đúng là có đảng viên khi nghỉ hưu thì không chuyển sinh hoạt đảng về đâu cả, nghĩa là bỏ Đảng, nhưng đó vẫn là con số lẻ tẻ. Gần đây xung quanh việc Đảng thi hành kỷ luật đảng viên Chu Hảo thì đã có khoảng chục đảng viên tuyên bố ra đảng. Nhưng đó chỉ là con số hàng chục. Toàn Đảng vẫn là một đội ngũ phát triển, lớn mạnh không ngừng, chỉ trong vài năm nay số đảng viên của ĐCSVN đã tăng từ 3,5 triệu lên đến 4,5 triệu. Hàng năm ĐCSVN vẫn có đến hàng vạn đảng viên mới. Không vì hàng chục đảng viên bỏ đảng mà kích động bằng dự báo rằng sẽ có “một làn sóng bỏ Đảng diễn ra trên diện rộng”, lại càng không thể xuyên tạc rằng “tình trạng thoái đảng đang diễn ra rất phổ biến ở VN”.
Nhân dân ta đang phấn khởi nhận thấy tình hình xây dựng Đảng đang tiến triển tốt, có nhiều nghị quyết tốt, và không những chỉ ra nghị quyết mà còn tổ chức thực tiễn xây dựng Đảng không kém quyết liệt trong cuộc sống. Một số đảng viên bị thi hành kỷ luật, trong đó có những trường hợp bị khai trừ, không làm cho Đảng yếu đi, trái lại làm cho Đảng trong sạch, làm cho Đảng mạnh hơn, làm cho Đảng có uy tín hơn, làm cho nhân dân tin Đảng hơn. Nhìn chung kỷ luật của Đảng đang được siết chặt hơn, điều đó góp phần củng cố Đảng chứ không phải làm cho Đảng rệu rã, giãy giụa như lời tác giả Thường Sơn bịa đặt.
Hiện nay Đảng đang tích cực lãnh đạo cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, và cuộc đấu tranh đó đang có hiệu quả, làm cho nhân dân nâng cao lòng tin yêu Đảng.
Trải qua trên 30 năm đổi mới đất nước chuyển biến mau lẹ và tích cực, làm cho thế và lực của nước ta được tăng cường, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao, đang làm nức lòng nhân dân ta cùng bè bạn trên thế giới. Do đó dễ dàng nhận thấy uy tín của ĐCSVN được dâng cao lên nhiều. Nhiều nguyên thủ các nước phát triển trên thế giới đều phát biểu tôn trọng thể chế chính trị của VN. Một nước VN đang hội nhập quốc tế có hiệu quả, có trách nhiệm và đóng góp với thế giới, có đông đảo bè bạn trên thế giới. Không thể trắng trợn bịa đặt rằng ĐCSVN đang giãy giụa, rằng Đảng giãy chết. Chỉ có thế lực thù địch VN cùng một nhóm người bất mãn đang giãy giụa chống đối một đất nước VN độc lập tự chủ.
Ngay như nhìn vào tình hình kinh tế xã hội hiện tại thì cũng không thể xuyên tạc vai trò lãnh đạo của Đảng để nhắm mắt nói bừa rằng “Đảng đang giãy giụa, giãy chết”. Trong năm 2018 và năm 2019 tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 7% - cao nhất trong vòng 10 năm qua, đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài đều tăng lên, lạm phát được kiềm chế, giá trị xuất khẩu tăng lên vượt bậc, giá tiêu dùng tương đối ổn định. Không khí chung trong nhân dân đều vui mừng, phấn khởi. Nhìn tổng thể tình hình là “Dân an, Đảng vững”.
Không phải là Đảng không có khuyết điểm, nhung Đảng luon lắng nghe nhân dân (qua Mặt trận tổ quốc VN và Quốc hội nước CHXHCN VN), thường xuyên công khai tự phê bình và sửa chữa khuyết điểm. Một Dảng biết tự chỉ trích, biết sửa chữa khuyết điểm, thì đó là đảng vĩ đại, chứ không thể bịa đặt, bôi nhọ rằng “Đảng đang giãy giụa, giãy chết”.
QH ST


Nhận diện những âm mưu lợi dụng Xã hội dân sự để chống phá Việt Nam


 “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” (TCB, TCH) có quan hệ chặt chẽ với “diễn biến hòa bình” (DBHB). “DBHB” thúc đẩy TCB, TCH. Đến lượt nó TCB, TCH thúc đẩy “DBHB”, trong đó TCB, TCH là nhân tố bên trong quan trọng nhất. Hoạt động lợi dụng vấn đề XHDS để tác động chuyển hóa chính trị ở nước ta đã và đang được các thế lực thù địch (CTLTĐ) thực hiện theo phương thức như vậy. Do vậy, chúng ta cần hết sức cảnh giác và kiên quyết đấu tranh ngăn chặn những mưu đồ thâm hiểm này.
Hiện nay, vấn đề “XHDS” được nhiều học giả, nhà khoa học, nhà quản lý và hoạch định chính sách ở cấp độ toàn cầu quan tâm nghiên cứu, bởi đây là một vấn đề chính trị, xã hội hết sức phức tạp và nhạy cảm. Sự sụp đổ của hệ thống XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu cũng như biến động chính trị trên thế giới thời gian qua như “Cách mạng màu” ở các nước không gian hậu Xô Viết hay “Mùa xuân Ả Rập” ở Trung Đông – Bắc Phi cho thấy Mỹ, phương Tây và các lực lượng đối lập đã triệt để lợi dụng vấn đề XHDS để tập hợp lực lượng lật đổ chính quyền đương nhiệm. Đối với VN, CTLTĐ đã và đang lợi dụng vấn đề XHDS để thúc đẩy TDB, TCH với âm mưu thay đổi chế độ chính trị ở VN.
Để thực hiện âm mưu tác động gây chuyển hóa chính trị ở VN, CTLTĐ đang ráo riết tiến hành một số hoạt động sau:
Một là, tuyệt đối hóa tính “độc lập” tương đối của XHDS với Nhà nước. CTLTĐ bằng nhiều chiêu bài khác nhau đã đẩy mạnh tuyên truyền về cái gọi là ranh giới giữa nhà nước với XHDS, giữa “công” và “tư”, giữa “chính trị” và “phi chính trị”. Theo đó, XHDS được đề cao, tuyệt đối hóa, được mô tả như là mô hình xã hội nhân đạo, tốt đẹp, dân chủ, ngược lại, Nhà nước là bảo thủ, chuyên chế và cưỡng bức.
Thực chất, đây là các luận điệu tuyên truyền nhằm làm cho vai trò tổ chức, quản lý xã hội của Nhà nước bị suy yếu, qua đó tạo môi trường xã hội cho sự ra đời của các tổ chức chính trị đối lập với ĐCSVN núp dưới danh nghĩa là XHDS.
Hai là, lợi dụng XHDS để đòi hỏi phi lý về dân chủ hóa. CTLTĐ lợi dụng vấn đề XHDS để đòi Nhà nước phải bảo đảm tự do vô giới hạn trong các lĩnh vực. Họ coi hình thành XHDS độc lập về chính trị là điều kiện, tiền đề cho việc bảo đảm quyền tự do, dân chủ của công dân và các quyền con người.
Lợi dụng các quyền con người, đặc biệt là cổ súy thái quá tự do cá nhân, thông qua quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do biểu tình… Hơn nữa, CTLTĐ tuyên truyền, khuyến khích mỗi công dân có quyền bày tỏ chính kiến không giới hạn và liên kết với những người khác hình thành các tổ chức “độc lập” tham gia vào đời sống cộng đồng, thoát ly khỏi sự quản lý của Nhà nước.
Ba là, lợi dụng viện trợ, quan hệ kinh tế, thương mại, ngoại giao để gây sức ép về dân chủ, nhân quyền, đòi thành lập các hội, các tổ chức độc lập về chính trị; tác động và gây sức ép đòi thay đổi đường lối, chính sách, hệ thống pháp luật và lĩnh vực tư pháp.
Bằng các hình thức tài trợ khác nhau cho một số tổ chức XHDS, CTLTĐ nhằm mục đích chính trị là hậu thuẫn cho các thế lực hoạt động chống phá cách mạng nước ta; lợi dụng vấn đề tự do lập hội để tập hợp lực lượng đối trọng với Đảng, Nhà nước, gây sức ép và đòi đa nguyên chính trị, đa đảng nhằm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta.
Bốn là, thông qua các tổ chức XHDS, các lực lượng thù địch lôi kéo quần chúng vào hoạt động dưới danh nghĩa vì mục tiêu chung, “thúc đẩy sự tham gia của người dân vào công việc của chính quyền”, dùng chiêu bài phản biện chính sách, phản biện xã hội, đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, bảo vệ môi trường… Từ đó tạo ra những tâm lý phản kháng của quần chúng chống lại các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước gây mất ổn định chính trị, xã hội.
Thời gian qua, một số đối tượng xấu đã lợi dụng các tổ chức xã hội để phục vụ cho các mưu đồ chính trị, tiến hành thành lập các tổ chức “XHDS chính trị” để thực hiện các hoạt động chống Đảng, Nhà nước. Trong đó, chúng ta có thể kể đến như: Hội Cựu tù nhân lương tâm, Hội Phụ nữ nhân quyền, Hội Anh em dân chủ, Diễn đàn XHDS, Khối 8406, Bauxite Việt Nam; Hiệp hội dân oan VN, Văn Đoàn độc lập, Kiến nghị 72, Tổ chức Việt Tân… Các tổ chức này đều được lập ra bởi các đối tượng có quan điểm chính trị đối lập, những người “bất đồng chính kiến”. Chúng thường lợi dụng các vấn đề “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền”, vì sự tiến bộ của xã hội để tuyên truyền xuyên tạc các vấn đề chính trị, kinh tế – xã hội; vu cáo Đảng, Nhà nước, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của ĐCSVN (Điều 4 – Hiến pháp năm 2013), đòi đa nguyên, đa đảng gây mất lòng tin của quần chúng nhân dân.
Từ các hoạt động này, các lực lượng thù địch nhằm làm suy yếu và vô hiệu hóa vai trò lãnh đạo của ĐCSVN và hiệu lực quản lý của Nhà nước, đưa xã hội rơi vào tình trạng hỗn loạn, vô chính phủ, tạo điều kiện cho sự ra đời của các tổ chức chính trị đối lập với ĐCSVN.
Âm mưu của CTLTĐ quốc tế là hòng tạo ra các lực lượng đối lập, chống đối ĐCSVN ngay trong lòng xã hội VN nên chúng tác động cho ra đời những tổ chức XHDS kiểu phương Tây để từ “phản biện”, hướng đến “phản đối” và cuối cùng thành tổ chức “phản động, chống đối” Đảng và Nhà nước. Thực chất là CTLTĐ phương Tây đang muốn sử dụng các tổ chức XHDS như một phương thức để “DBHB” tiến tới “Diễn biến không hòa bình” (cách mạng màu) lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Nhà nước XHCN ở VN(1).
Rõ ràng không phải ngẫu nhiên mà một số tổ chức phi chính phủ nước ngoài thường “quan tâm” nhiều đến các địa bàn trọng điểm về an ninh chính trị – xã hội hoặc đang xảy ra các sự kiện “nhạy cảm” liên quan đến vấn đề dân tộc, tôn giáo.
Trong bối cảnh đó, một mặt phải nâng cao cảnh giác, phát hiện kịp thời và kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu lợi dụng vấn đề XHDS của CTLTĐ, mặt khác cần tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với các tổ chức xã hội.
QH ST


Nhận diện các website mạo danh lãnh đạo Đảng, Nhà nước trước thềm Đại hội XIII


Theo quy định pháp luật, báo điện tử, trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của các cơ quan Đảng, Nhà nước phải sử dụng ít nhất 01 tên miền “.vn”
Cấu trúc của một trang thông tin điện tử (trang TTĐT) chính thống được Quy định tại các văn bản pháp luật. Cụ thể:
Điều 28. Trang thông tin điện tử của cơ quan nhà nước (Theo Luật Công nghệ thông tin ngày 29/6/2006). Điều 6. Tên miền truy cập cổng thông tin điện tử (Theo Nghị định số 43/2011/NĐ-CP của Chính phủ ngày 13/6/2011) về Quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước.
Các nguồn tin chính thống, đặc biệt là tin tức chính trị, luật pháp của Việt Nam được đăng, phát trên báo điện tử, trang thông tin điện tử tổng hợp được cấp phép hoặc trên các trang thông tin điện tử của cơ quan Đảng, Nhà nước với “nhận diện” là sử dụng tên miền “.vn”.
Theo quy định pháp luật, báo điện tử, trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của các cơ quan Đảng, Nhà nước phải sử dụng ít nhất 01 tên miền “.vn” và lưu giữ thông tin tại hệ thống máy chủ có địa chỉ IP ở Việt Nam (IP là viết tắt của từ tiếng Anh: Internet Protocol - giao thức Internet), là một địa chỉ đơn nhất mà những thiết bị điện tử hiện nay đang sử dụng. 
Tuy nhiên, thời gian gần đây xuất hiện nhiều trang TTĐT giả, mạo danh lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Có thể liệt kê ra đây các trang web mạo danh Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cùng nhiều bộ, ngành, tổ chức khác đều bị giả mạo các trang web cá nhân và tổ chức…với các tên miền, tên cá nhân chấm ".com, .net, .org, .info và .biz". Tin từ Trung tâm Internet Việt Nam (VNNIC, thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông) với các tên miền mở rộng, quốc tế là mạo danh.
* Mục đích của các trang TTĐT mạo danh:
"Chủ trang web muốn tạo được sự quan tâm, tin tưởng từ phía người đọc, trước tiên luôn tạo ra uy tín bằng cách cung cấp những thông tin nhanh và đúng như các tờ báo chính thống tại Việt Nam"
"Sau một thời gian khi mức độ uy tín tăng lên, niềm tin người đọc gửi vào đó càng lớn, chủ trang web có thể đưa lên những thông tin có sức tác động không nhỏ với người đọc".
"Chỉ cần một thông tin thất thiệt về chính sách từ trang này cũng đủ gây xáo trộn không nhỏ trong xã hội."
Vì vậy, chúng ta cần nhận diện rõ các website mạo danh lãnh đạo Đảng, Nhà nước, nhất là trước thềm Đại hội XIII của Đảng, để tránh tiếp nhận những thông tin xấu, độc; thông tin sai sự thật gây xáo trộn xã hội.

QH ST








Sự bịa đặt, vu cáo trắng trợn của Cảnh Sảng


Phát biểu của ông Cảnh Sảng vu cáo Việt Nam “chiếm đảo” là sự leo thang mới trong những bịa đặt, vu cáo trắng trợn của TQ liên quan Biển Đông.
Ngày 8/11, tại buổi họp báo thường kỳ của BNG TQ, trả lời câu hỏi của phóng viên về việc “Việt Nam có thể xem xét các lựa chọn pháp lý để giải quyết tranh chấp với TQ ở Biển Đông, phản ứng của TQ là gì?”, người phát ngôn BNG TQ Cảnh Sảng ngang ngược cho biết: “Cốt lõi của vấn đề Biển Đông là vấn đề lãnh thổ, liên quan đến sự chiếm đóng quần đảo Nam Sa của TQ bởi Việt Nam và các nước khác có liên quan”.
Ông Cảnh còn nói rằng: “Tôi hy vọng Việt Nam đối mặt với thực tế lịch sử, giữ sự đồng thuận cao cấp của chúng tôi và giải quyết sự khác biệt thông qua đối thoại và tham vấn. Việt Nam cần tránh các hành động có thể làm phức tạp vấn đề hoặc làm suy yếu hòa bình và ổn định ở Biển Đông cũng như mối quan hệ song phương giữa Việt Nam và TQ”.
Cần phải khẳng định rằng, những phát biểu trên là bước leo thang mới trong sự bịa đặt, vu cáo trắng trợn của TQ liên quan đến Biển Đông.
Cái mà TQ ngang ngược gọi là “quần đảo Nam Sa” thực chất là quần đảo Trường Sa của Việt Nam mà TQ đã nhiều lần lên tiếng yêu sách bất chấp thực tế lịch sử và bằng chứng pháp lý.
Việt Nam nhiều lần khẳng định, “Việt Nam có đầy đủ chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp luật pháp quốc tế. Thực tế lịch sử cho thấy rõ điều này”, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng nêu rõ trong tuyên bố ngày 13/11.
Bà Hằng cũng khẳng định lại chủ trương nhất quán của Việt Nam là mọi tranh chấp quốc tế, trong đó có tranh chấp về vấn đề chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa phải giải quyết bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, Hiến chương LHQ.
Phát ngôn của ông Cảnh Sảng một lần nữa cho thấy sự trơ tráo của TQ với thói “vừa ăn cướp vừa la làng”. Không một quốc gia văn minh nào trong thời đại này tự nhiên lại tuyên bố “nhà của người ta” là “nhà của mình” một cách trắng trợn mà chẳng ngại gì mếch lòng hàng xóm và cộng đồng quốc tế cả.
Thời gian qua, không chỉ VN mà nhiều nước và các chuyên gia quốc tế nhiều lần lên án việc TQ phớt lờ luật pháp quốc tế, ngang nhiên thực hiện các hành vi "bắt nạt" các nước láng giềng. Gần đây nhất và việc TQ điều tàu khảo sát Hải Dương 8 cùng lực lượng hộ tống vào hoạt động trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của VN suốt từ đầu tháng 7 đến cuối tháng 10.
TQ ngang ngược liên tục đơn phương yêu sách các vùng biển chồng lấn với vùng biển của VN mặc dù các yêu sách này đã bị Tòa trọng tài quốc tế bác bỏ.
TQ tự mình vẽ ra “đường lưỡi bò” phi pháp, bị Tòa Trọng tài Quốc tế bác bỏ từ năm 2016 nhưng vẫn không ngừng “rêu rao”, tuyên truyền về những điều sai trái đó. Không chỉ tuyên truyền với người TQ, Bắc Kinh còn đề ra cả chiến dịch truyền thông bài bản nhằm biến “tin giả”, điều bịa đặt ấy thành sự thật bằng cách cài cắm “đường lưỡi bò” trong các sản phẩm và phổ biến chúng ra nước ngoài.
TQ có những hoạt động đơn phương cản trở các hoạt động khai thác kinh tế của VN trong vùng biển Việt Nam. TQ xây dựng các căn cứ quân sự tại các đảo nhân tạo phi pháp của mình trong vùng Biển Đông và làm ảnh hưởng nghiêm trọng môi trường biển tại đây.
TQ né tránh sử dụng các biện pháp giải quyết tranh chấp hòa bình như sử dụng hòa giải, trọng tài và tòa án, để giải quyết mâu thuẫn tại Biển Đông khiến các tranh chấp tại đây trở nên dai dẳng và ngày càng phức tạp.
Tuyên bố mới nhất của người phát ngôn Cảnh Sảng cho thấy độ liều lĩnh, chẳng cần đếm xỉa gì tới luật pháp quốc tế của TQ.
Tuy nhiên, vấn đề không chỉ dừng lại ở phát ngôn của ông Cảnh Sảng mà là mưu đồ độc chiếm biển Đông của TQ vốn có từ rất lâu rồi, nay nó hiện nguyên hình và ngày càng được thể hiện ra một cách trắng trợn hơn thôi!
(nguồn: Hương Sen Việt)




Xử phạt Nguyễn Năng Tĩnh 11 năm tù vì tội tuyên truyền chống phá Nhà nước


Ngày 15/11/2019, Tòa án nhân dân Nghệ An đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm và tuyên phạt Nguyễn Năng Tĩnh 11 năm tù, 5 năm quản chế.
Nguyễn Năng Tĩnh nguyên là giáo viên Trường Cao đẳng Văn hóa nghệ thuật Nghệ An. Đây là đối tượng có tư tưởng bất mãn, tiêu cực, có ý thức chống đối sâu sắc, có hoạt động móc nối, lôi kéo và chịu sự tác động của một số đối tượng cực đoan, phản động trong và ngoài nước. Tĩnh có hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia với phương thức thủ đoạn hết sức tinh vi và xảo quyệt, có nhiều thủ đoạn đối phó với cơ quan pháp luật. Trang faceobook cá nhân “Nguyễn Năng Tĩnh” được lập và sử dụng từ năm 2011 đến nay lôi kéo gần 1.000 người theo dõi.
Tĩnh tham gia nhiều hội nhóm hoặc kết bạn với nhiều đối tượng có tư tưởng thù địch chống phá Việt Nam. Ngoài đăng tải, chia sẻ các bài viết, video, hình ảnh nói về cuộc sống của bản thân, facebook cá nhân của Nguyễn Năng Tĩnh còn được sử dụng để đăng tải, chia sẻ các bài viết, hình ảnh, video có nội dung tuyên truyền, xuyên tạc nhằm mục đích chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Tĩnh đã xuyên tạc bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩaViệt Nam, phủ nhận thành quả cách mạng của dân tộc; bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước; kích động người dân biểu tình, chống chính quyền; các nội dung bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân, gây mất đại đoàn kết dân tộc.
Bị cáo Nguyễn Năng Tĩnh đã phạm vào tội: “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Áp dụng các Điểm: a,b,c – Khoản 1, Điều 117; Điều 44, Điều 122 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Năng Tĩnh 11 năm tù; phạt quản chế bị cáo 5 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.
Bản án được đông đảo người tham dự phiên tòa đồng tình, thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật với những hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam. Đây cũng là sự cảnh tỉnh cho những kẻ lợi dụng quyền tự do ngôn luận, lợi dụng mạng xã hội để đăng tải các thông tin bịa đặt, xuyên tạc, kích động, chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nguồn: Hương sen Việt









CĂN BỆNH THỜ Ơ, VÔ CẢM, THIẾU TRÁCH NHIỆM CẦN PHẢI ĐƯỢC CHỮA TRỊ!


Hiện nay, thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm đang trở thành căn bệnh ngày càng trầm trọng, lây lan trong xã hội. Dân tộc ta vốn có truyền thống đoàn kết, “tương thân, tương ái”, “thương người như thể thương thân”, “lá lành đùm lá rách”… Truyền thống ấy luôn được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm, vun đắp nhằm mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Hơn 30 năm đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử; kinh tế ngày càng khởi sắc, đời sống người dân ngày càng được cải thiện. Song, những tác động từ mặt trái của nền kinh tế thị trường, sự du nhập lối sống nước ngoài, nhất là lối sống thực dụng không phù hợp với truyền thống văn hóa và đạo lý dân tộc đã khiến một bộ phận trong xã hội ngày càng trở nên vô cảm, thờ ơ, thiếu trách nhiệm và trở thành căn bệnh làm mờ nhạt những truyền thống tốt đẹp đó.
Hiện nay, trên nhiều diễn đàn, các phương tiện thông tin truyền thông đã cảnh báo và đưa nhiều minh chứng về sự thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm gây bức xúc trong xã hội. Thờ ơ, vô cảm đã cho thấy sự thể hiện trơ lì về cảm xúc, dửng dưng trước các sự việc xung quanh; thờ ơ với nỗi đau khổ, mất mát của người khác, chỉ biết quan tâm đến lợi ích của mình. Chính sự thờ ơ, vô cảm ấy mà thấy tốt không ủng hộ, thấy xấu không lên án, ngại va chạm tạo điều kiện, tiếp tay cho cái xấu, cái ác nảy nở.
Không thể đổ lỗi cho nền kinh tế thị trường. Bởi lẽ, trong xã hội vẫn không thiếu những người tốt, những câu chuyện về “người tử tế”, những câu chuyện ấm áp lòng người như những hiệp sĩ đường phố, về người đi xây cầu từ thiện, những tấm gương quên mình cứu người giữa dòng nước lũ; tấm lòng của các nhà hảo tâm chung tay ủng hộ những mảnh đời khó khăn, bất hạnh trong cơn hoạn nạn… đã góp phần xây dựng lối sống hướng thiện, một xã hội, cộng đồng tốt đẹp, nhân văn...
Để chữa trị căn bệnh này cần phát huy vai trò, sức mạnh của toàn dân. Đẩy mạnh các hoạt động giáo dục, tuyên truyền làm thức dậy tình thương yêu con người, đồng loại, sự hy sinh và trách nhiệm đối với xã hội. Đồng thời, phát huy vai trò của các cơ quan chức năng, chính quyền các cấp, các tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội và cá nhân trong đấu tranh, ngăn ngừa căn bệnh thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm; khuyến khích các hoạt động nhân ái, bao dung, nghĩa hiệp, chống lại cái xấu, vun đắp và xây dựng những giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Nguồn: Nhân Văn Việt



Phản bác ý kiến cho rằng Đảng ta đã phủ nhận vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước.


Theo Nghị quyết số 10-NQ/TW của Hội nghị lần thứ năm BCHTW Đảng khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân (KTTN) trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế, trong đó đề ra mục tiêu phấn đấu tăng tỉ trọng đóng góp của khu vực KTTN vào GDP để đến đến năm 2030 sẽ chiếm khoảng 60 – 65%. Từ đó họ suy diễn sự đóng góp vào GDP lớn như vậy thì có nghĩa là Đảng ta đã phủ nhận vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước (KTNN).
Vấn đề vai trò của các thành phần kinh tế được Đảng ta xác định rất rõ.
Chúng ta xác định thời kỳ quá độ lên CNXH sẽ là thời gian rất dài và trong thời kỳ này, chúng ta phải xây dựng nền KTTT giải phóng LLSX và từng bước nâng tầm QHSX cho phù hợp.
Để giải phóng sức sản xuất xã hội như vậy thì chúng ta xây dựng nền kinh tế có các thành phần kinh tế phát triển bình đẳng trước pháp luật. Trong đó có KTTN, KTNN, có kinh tế đầu tư nước ngoài…
Chúng ta khuyến khích mọi thành phần, mọi gia đình, mọi tổ chức trong xã hội tham gia phát triển kinh tế. Trong đó, vai trò dẫn dắt, vai trò chủ đạo là KTNN. Hiện nay người ta đang dựa vào một số doanh nghiệp nhà nước (DNNN) làm ăn không hiệu quả để chỉ trích kinh tế nhà nước. Đó là thủ đoạn đánh đồng DNNN với KTNN.
Thực ra DNNN chỉ là một bộ phận, mà không phải bộ phận chủ yếu của KTNN. KTNN hiện bao gồm các bộ phận cấu thành như: Các DNNN 100% vốn Nhà nước hoặc đã chuyển đổi hình thức theo Luật DN và phần vốn, tài sản Nhà nước trong các DN khác đang hoạt động theo Luật DN; toàn bộ hệ thống tài chính, tiền tệ và các quỹ và tài sản quốc gia khác (tài chính và phi tài chính) thuộc sở hữu toàn dân như rừng, biển, tài nguyên khoáng sản trong lòng đất, vùng trời, dưới đại dương thuộc chủ quyền của quốc gia thậm chí những cấu thành của chúng không thể tính toán hết bằng tiền…
Toàn bộ những yếu tố cấu thành KTNN tạo thành động lực cực kỳ mạnh, là công cụ để Nhà nước điều tiết nền kinh tế.
Lịch sử nhân loại đã chứng minh, cho đến ngày nay, các nền kinh tế thành công đều phát triển không thể bằng cách tự điều tiết mà cần có sự can thiệp và hỗ trợ từ phía nhà nước. Nhà nước với vai trò ban hành thể chế phát triển; nhà nước với tư cách một chủ thể tiêu dùng và đầu tư lớn; nhà nước sử dụng các công cụ kinh tế, trong đó có DNNN để tác động, dẫn dắt nền kinh tế… đi đúng đường lối và chiến lược phát triển KT-XH của đảng cầm quyền đề ra
Người ta cố tình nhầm lẫn, lấy ví dụ từ một số DNNN có vấn đề để cho rằng KTNN không giữ vai trò chủ đạo được. Trong khi nhiều DNNN phát triển tốt thì họ không đề cập. Ví dụ, đóng thuế cho nhà nước, Tập đoàn Viettel dẫn đầu cả nước ba năm liên tục.
Vai trò KTNN là dẫn dắt nền kinh tế, điều tiết được bước đi của nền kinh tế. KTNN mà không đủ mạnh thì nền kinh tế sẽ ách tắc. Và nếu nó thể hiện được vai trò chủ đạo, thì nền kinh tế sẽ phát triển. Thông qua đó, KTTN sẽ đóng vai trò càng ngày càng quan trọng. Đó là động lực để phát triển bởi thành phần kinh tế này là của toàn thể nhân dân cùng tham gia đóng góp. Cho nên chúng ta mới nói nền KTTT định hướng XHCN có quan hệ rất đặc biệt là giữa kinh tế với chính trị, giữa kinh tế với các vấn đề xã hội.
Quan hệ giữa KTNN với KTTN hiện nay là mối quan hệ hết sức tốt đẹp. KTNN hỗ trợ thì KTTN mới phát triển được như thế.
Cho nên, KTTN đang phấn đấu để đến đến năm 2030 sẽ chiếm khoảng 60 – 65% GDP, thậm chí tỷ lệ này sẽ còn cao hơn nữa trong tương lai thì cũng không vì thế mà phủ nhận vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.


Ngăn chặn núp bóng hội thảo, tọa đàm chia rẽ nhân tâm


Tự do hội họp là một trong những quyền cơ bản của con người, được ghi trong Hiến pháp, pháp luật VN và được bảo đảm thực hiện trong thực tế. Lợi dụng điều này, nhiều đối tượng đã thông qua các cuộc hội thảo, tọa đàm để phát ngôn, xuyên tạc, lôi kéo, kích động chống phá Đảng, Nhà nước, thúc đẩy tiến trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” (TDB, TCH)
Vấn đề lợi dụng quyền hội họp, phát ngôn, lợi dụng hoạt động phản biện xã hội để truyền bá tư tưởng chống phá Đảng, Nhà nước là việc làm không mới nhưng vô cùng nguy hiểm, vì với sự trợ giúp của MXH, những thông tin, luận điệu xuyên tạc được lan truyền nhanh, tác động tới nhân dân, gây ra nghi kỵ, làm mất niềm tin, chia rẽ đoàn kết trong xã hội.
Gần đây, trước việc TQ có hành động phi pháp xâm phạm chủ quyền của VN ở bãi Tư Chính, một số cá nhân, trang MXH – vốn không xa lạ với những luận điệu chống phá Đảng, Nhà nước ta, đã lợi dụng đưa ra những quan điểm, nhận định đi ngược, xuyên tạc, bóp méo, bịa đặt chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta.
Cá biệt, có người được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, từng có những scandal “ngôn ngữ” trước đây, lại tiếp tục có những phát biểu bừa bãi khi tham dự một cuộc tọa đàm khoa học, như sẽ “hỏi thăm” BNG, BQP “nếu để mất bãi Tư Chính…”. Lập tức, phát biểu trên được một số trang MXH và những cá nhân bất mãn, cơ hội chính trị dẫn lại, phát tán, với mục đích phụ họa cho những luận điệu chống phá, gây nghi ngờ, chia rẽ trong xã hội về chủ trương, chính sách đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Đảng và Nhà nước ta.
Thực tế, thủ đoạn của các tổ chức, đối tượng chống phá không hề xa lạ. Theo thống kê, trong 10 năm lại đây, lợi dụng quyền được lập hội, quyền tự do ngôn luận, nhiều hội nghề nghiệp được phép thành lập đã có những hoạt động biến tướng, không tuân thủ pháp luật mà đi theo mô hình tổ chức “xã hội dân sự” ở phương Tây. Dưới các nội dung: Đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng; bảo vệ môi trường, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo…, một số tổ chức, cá nhân liên kết với các nhóm, hội, diễn đàn tự phát, lôi kéo quần chúng, tập hợp lực lượng.
Ngoài ra, thông qua dự án tài trợ, hội thảo, tập huấn, trao đổi nghiệp vụ…, nhiều tổ chức phi chính phủ (NGO) ngoài nước đã tìm cách móc nối, mua chuộc số cán bộ, đảng viên thoái hóa để tuyên truyền, kích động tâm lý bất mãn, lôi kéo họ thoát ly khỏi sự lãnh đạo của Ðảng và Nhà nước. Chúng lợi dụng internet để phát tán thông tin thất thiệt, bịa đặt, bôi nhọ Đảng, chính quyền và các đồng chí lãnh đạo; tung hô những chức sắc tôn giáo, trí thức, văn nghệ sĩ bất mãn, cơ hội chính trị; kích động tư tưởng vô chính phủ, tuyên truyền, đề cao các giá trị phương Tây…
Mục đích cuối cùng là làm “đổi màu” các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, từ đó phê phán công cuộc đổi mới, tiến tới đòi đa nguyên, đa đảng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản VN.
Lịch sử đất nước, lịch sử cách mạng đã chứng minh, sức mạnh của dân tộc ta xuất phát từ lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, từ lý luận Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn giúp Đảng ta nêu cao đoàn kết dân tộc, lãnh đạo cách mạng giành chính quyền, chiến thắng kẻ thù xâm lược, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, đưa đất nước vượt qua khó khăn, thử thách, xóa đói nghèo, nâng cao dân trí… Thế nên, việc lợi dụng hội họp, hội thảo, tọa đàm để đưa ra những phát ngôn nhằm chia rẽ nhân tâm, gây mất ổn định chính trị, xã hội là việc làm cần phải nhận diện, lên án, loại trừ.


Không sao chép học thuyết phân quyền một cách rập khuôn, máy móc

Học thuyết phân quyền là sự phủ định biện chứng đối với các nhà nước chuyên chế tập quyền, đánh dấu sự cáo chung của chế độ quân chủ chuyên chế, độc tài, đặt nền móng cho sự hình thành các nhà nước dân chủ. Đây cũng là học thuyết có ý nghĩa về phương diện kỹ thuật pháp lý sâu sắc trong tổ chức quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Việc giao quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân cho các nhánh quyền lực nhà nước khác nhau (lập pháp, hành pháp, tư pháp) làm cho quá trình phân công lao động quyền lực minh bạch, chuyên môn hóa, hiệu quả và hiệu lực hoạt động của các quyền ngày càng cao; hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền của quyền lực nhà nước; nhân dân có điều kiện kiểm soát quyền lực nhà nước của mình và giữa các quyền có sự kiểm soát lẫn nhau.
1- Tư tưởng “Tam quyền phân lập” được các nhà hiền triết đề xướng từ thời La Mã cổ đại, nhưng với tư cách là một học thuyết, có thể nói nó là sản phẩm của nền dân chủ phương Tây, gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản chống lại sự độc đoán, chuyên quyền của kiểu tổ chức quyền lực nhà nước phong kiến với toàn bộ quyền lực nhà nước tập trung vào tay một người là Vua. Theo quan niệm vua là con Trời, thể theo lòng Trời mà làm vua, ý vua là pháp luật cao nhất. Có thể xem, học thuyết phân quyền có giá trị về chính trị - kỹ thuật pháp lý to lớn trong tổ chức quyền lực nhà nước. Bởi hạt nhân hợp lý nhất của học thuyết này là quan niệm quyền lực nhà nước không được tập trung vào một người hay một cơ quan mà được cấu thành từ ba quyền cơ bản - lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ba quyền được giao cho ba cơ quan khác nhau, có nhiệm vụ, quyền hạn độc lập tương đối với nhau. Giữa ba quyền này có sự kiểm soát, thậm chí có sự kiềm chế, đối trọng lẫn nhau. Dựa trên học thuyết tam quyền phân lập, hơn hai thế kỷ nay, các nhà nước tư sản phương Tây đã tổ chức quyền lực nhà nước của mình. Tuy nhiên, việc vận dụng học thuyết này ở các nước là hết sức đa dạng, muôn màu, muôn vẻ. Cũng phân chia quyền lực nhà nước thành lập pháp, hành pháp và tư pháp nhưng nhiệm vụ và quyền hạn cũng như cách thức tổ chức mỗi quyền thì ở từng nước quy định rất khác nhau. Có nước thì phân quyền cứng rắn theo chính thể cộng hòa tổng thống (như nước Mỹ); có nước thì phân quyền mềm dẻo theo chính thể cộng hòa đại nghị (như Đức) hay chính thể quân chủ lập hiến (như nước Anh); ngược lại, có nước phân quyền lưỡng tính theo chính thể cộng hòa lưỡng tính (như Nga, Pháp). Cũng tổ chức quyền lực nhà nước gồm ba quyền, nhưng có nước giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp không có sự độc lập đối trọng chế ước lẫn nhau (như nước Anh) mà dựa vào phe đối lập thiểu số trong nghị viện. Có nước giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp lại độc lập, kiềm chế và đối trọng một cách cứng rắn (như nước Mỹ); có nước kiềm chế đối trọng một cách mềm dẻo giữa các quyền (như ở Đức). Việc vận dụng học thuyết tam quyền phân lập vào tổ chức quyền lực nhà nước ở các nước tư sản rất khác nhau. Bởi tổ chức quyền lực nhà nước về phương diện chính trị và kỹ thuật pháp lý phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như tương quan lực lượng giữa các giai cấp, nhất là trong nội bộ của giai cấp cầm quyền, đặc thù của cuộc đấu tranh giai cấp ở trong nước và trên trường quốc tế, tư tưởng lập hiến của những người đương thời,... Tất cả các yếu tố đó đều là những nhân tố chi phối và ảnh hưởng đến việc vận dụng học thuyết phân quyền trong tổ chức quyền lực nhà nước của mỗi nước. Vì thế, không thể nói phân quyền theo mô hình của nước này thì tốt, còn theo mô hình của nước kia thì không tốt, theo mô hình này thì dân chủ, theo mô hình kia thì không có dân chủ. Vì thế, tuyệt nhiên không có sự sao chép, rập khuôn, máy móc mô hình phân quyền của nước này cho nước kia; đòi hỏi tổ chức quyền lực nhà nước của nước này phải giống nước kia mới có dân chủ và nhân quyền như một số người mong muốn.
Tuy đa dạng như phân tích ở trên, nhưng hiện nay trên thế giới có thể khái quát có hai mô hình phân quyền điển hình. Đó là phân quyền mềm dẻo thuộc chính thể cộng hòa đại nghị hoặc chính thể quân chủ lập hiến (Đức, Anh,...) và phân quyền cứng rắn thuộc chính thể cộng hòa tổng thống không phổ biến ở các nước (như Mỹ). Phân quyền mềm dẻo có đặc trưng cơ bản là giữa hành pháp và lập pháp không có sự phân quyền một cách rõ rệt. Quyền hành pháp thuộc về đảng hoặc liên minh các đảng chiến thắng sau bầu cử và vì thế nghị viện do đảng hoặc liên minh các đảng thắng cử nắm giữ hành pháp. Ngược lại, phân quyền cứng rắn có đặc trưng là giữa lập pháp và hành pháp có sự phân quyền một cách rõ rệt và có sự kiềm chế, đối trọng lẫn nhau. Mô hình phân quyền mềm dẻo có thể dẫn chính phủ đến lạm quyền (vì đa số nghị sĩ trong nghị viện thuộc về hành pháp), nhưng đổi lại mọi quyết định ở nghị trường được thông qua một cách nhanh chóng, còn sự lạm quyền của chính phủ nếu có thể xảy ra thì được hạn chế bằng ý kiến thiểu số của nghị sĩ đối lập, kiểm soát của nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và thiết chế tư pháp độc lập. Mô hình phân quyền cứng rắn ở Mỹ bảo đảm không có cơ quan nào nắm trọn vẹn quyền lực nhà nước trong tay mình, lấn át hoặc chi phối hoàn toàn hoạt động của các cơ quan nhà nước khác. Quyền lực nhà nước và quyền lực của từng cơ quan đều bị giới hạn trong một phạm vi xác định và chịu sự kiềm chế từ phía cơ quan nhà nước khác. Tuy nhiên, phân quyền cứng rắn cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Ví dụ như tổng thống (hành pháp) được quyền phủ quyết các đạo luật của nghị viện, làm cho hoạt động lập pháp bị kéo dài, tốn kém. Ngược lại, nghị viện có quyền phê duyệt dự án ngân sách hoạt động của chính phủ, nghĩa là nghị viện có thể làm ảnh hưởng đến hoạt động của chính phủ và tổng thống (như trì hoãn việc thông qua ngân sách buộc chính phủ phải đóng cửa). Do việc giao cho mỗi nhánh quyền lực những phương tiện kiềm chế đối trọng đối với quyền kia đã đẻ ra việc thỏa thuận ngầm hoặc thỏa hiệp giữa các nhánh quyền lực về lợi ích. Và do có sự thỏa hiệp này mà hoạt động của nghị viện (lập pháp) và hoạt động của hành pháp (tổng thống) không bảo đảm một cách chắc chắn sự thỏa hiệp giữa phe phái đó là luôn luôn thể hiện được ý chí và nguyện vọng của toàn thể nhân dân. Ví dụ như Chính phủ Mỹ trong năm đầu của Tổng thống Đô-nan Trăm phải đóng cửa, gây thiệt hại hàng chục triệu đô-la cho người dân Mỹ.
Như vậy, không có một mô hình phân quyền nào có ưu thế vượt trội và ngay các nước tổ chức quyền lực nhà nước dựa trên một mô hình nào đó thì cũng vẫn có sự khác nhau. Ví dụ, cũng tổ chức quyền lực nhà nước theo mô hình phân quyền mềm dẻo, nhưng ở Anh, ở Đức, ở I-ta-li-a,... lại rất khác nhau. Ở Anh, người đứng đầu nhà nước là nữ hoàng Anh (của chế độ quân chủ nhưng quyền lực chỉ mang tính tượng trưng) quyền lập pháp và hành pháp thuộc Đảng Bảo thủ hay Công Đảng tùy thuộc Đảng nào thắng cử sau các cuộc bầu cử. Ngược lại, ở Đức hoặc ở I-ta-li-a thì quyền lập pháp và hành pháp phổ biến thuộc về đảng chiếm nhiều phiếu nhất liên minh với một hay một số đảng hoặc lực lượng để có đa số dân bầu cử. Ở các nước này, do luật bầu cử quy định nên khó có một đảng chiếm được đa số ghế ngay sau cuộc bầu cử, do đó phải liên minh với một hoặc một số đảng để có đa số ghế trong nghị viện.
Từ tất cả những thực tế ở trên có thể thấy rằng: Học thuyết phân quyền (hay học thuyết tam quyền phân lập theo bản dịch tiếng Trung) có ý nghĩa chính trị và kỹ thuật pháp lý trong tổ chức quyền lực nhà nước đều được vận dụng ở các nước, nhưng việc vận dụng thì muôn màu, muôn vẻ ở các nước khác nhau, dựa trên tinh thần nội dung của học thuyết phân quyền mà không rập khuôn, máy móc. Do đó, không thể nói áp dụng mô hình phân quyền của nước này dân chủ hơn nước kia. Vấn đề cơ bản là dựa trên những yếu tố phổ quát nhất của học thuyết phân quyền, vận dụng phù hợp với đặc thù của mỗi nước sao cho phát huy tốt hiệu lực và hiệu quả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân trong quản lý nhà nước và phát huy nhân tố con người trong đời sống nhà nước và đời sống xã hội ở nước đó.
2- Đối với nước ta, việc tham khảo, vận dụng học thuyết phân quyền trong tổ chức quyền lực nhà nước được tiến hành thận trọng, phù hợp với đặc thù của cuộc đấu tranh giành, giữ, bảo vệ và xây dựng chính quyền nhà nước thuộc về nhân dân và được thể hiện một cách sinh động trong các bản Hiến pháp - đạo Luật gốc về tổ chức quyền lực nhà nước.
Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp đầu tiên của nước ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng Ban Soạn thảo, xét về phương diện tổ chức quyền lực nhà nước có thể nói đã thể hiện sự vận dụng tinh thần và nội dung học thuyết phân quyền một cách sáng tạo phù hợp với đặc thù và tương quan lực lượng trong cuộc đấu tranh giành và giữ chính quyền nhà nước non trẻ lúc bấy giờ với bốn yếu tố cơ bản: 1- Quyền lực nhà nước được cấu thành từ quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; 2- Ba quyền này có sự phân chia nhiệm vụ và quyền hạn; 3- Nhiệm vụ, quyền hạn của ba quyền này có tính độc lập tương đối với nhau; 4- Giữa ba quyền này có sự kiểm soát và chế ước lẫn nhau. Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1946 đã viết “Nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ. Được quốc dân giao cho trách nhiệm thảo bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Quốc hội nhận thấy rằng Hiến pháp Việt Nam phải ghi lấy những thành tích vẻ vang của Cách mạng và phải xây dựng trên những nguyên tắc dưới đây:
- Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo.
- Đảm bảo các quyền tự do dân chủ.
- Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân”.
Theo đó, quyền lực nhà nước được tổ chức thành ba quyền, gồm: “Nghị viện nhân dân (lập pháp) là cơ quan có quyền cao nhất, do công dân Việt Nam bầu ra. Ba năm một lần” (Điều 22, 24), có nhiệm vụ “giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc, đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài” (Điều 23); “Chính phủ (hành pháp) là cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc” (Điều 43); “có nhiệm vụ trực tiếp quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội trong cả nước” (Điều 52); “Tòa án là cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” (Điều 63); có nhiệm vụ xét xử. Đặc biệt chế định Chủ tịch nước vừa là người đứng đầu nhà nước (nguyên thủ quốc gia), vừa là người đứng đầu Chính phủ (hành pháp) được Hiến pháp giao nhiệm vụ và quyền hạn rất lớn “có quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận lại Luật của Nghị viện trong vòng 10 ngày sau khi nhận được thông tri” (Điều 31); và “không phải chịu một trách nhiệm nào, trừ khi phạm tội phản quốc)” (Điều 50). Ngược lại, “Nghị viện có quyền kiểm soát và phê bình Chính phủ” (Khoản c, Điều 36); “truy tố Chủ tịch, Phó chủ tịch hay một nhân viên Nội các về tội phản quốc, Nghị viện lập một Tòa án đặc biệt để xét xử” (Điều 51). Đây chính là chế định pháp lý Hiến định về kiềm chế và chế ước lẫn nhau giữa lập pháp và hành pháp nhằm bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng đối với bộ máy nhà nước non trẻ trong điều kiện đấu tranh giai cấp gay gắt và phức tạp lúc bấy giờ. Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là Trưởng ban soạn thảo Hiến pháp năm 1946 vốn có uy tín cá nhân tuyệt đối, đã ý thức sâu sắc trong việc xây dựng chế định Chủ tịch nước. Xem xét chế định pháp lý Hiến định này gắn với hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ có thể khẳng định rằng, nhờ những quy định Hiến pháp về Chủ tịch nước có nhiều quyền hành trong Hiến pháp năm 1946 mà sự lãnh đạo của Đảng đối với bộ máy nhà nước được bảo đảm thực hiện trong thực tế. Ở đây, sự lãnh đạo của Đảng được bảo đảm bằng người đứng đầu Đảng, đồng thời là người đứng đầu bộ máy nhà nước, thông qua đó mà đường lối, chính sách, quan điểm của Đảng được thực hiện và trở thành hiện thực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Bởi như chúng ta đã biết, sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chính quyền nhà nước non trẻ đứng trước tình thế như “ngàn cân treo sợi tóc”. Ngay trong Nghị viện, có đến 72 người là thành viên của Việt quốc, Việt cách; bên ngoài một lực lượng lớn phản động quốc tế và tay sai tràn vào nước ta, âm mưu thành lập chính quyền bù nhìn tay sai đế quốc. Trước tình hình đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, một mặt, có chủ trương mang tính chất sách lược, quyết định tuyên bố “tự giải tán” Đảng Cộng sản Đông Dương (mà thực chất là rút lui vào hoạt động bí mật); mặt khác, khẩn trương tổ chức Tổng Tuyển cử bầu Quốc hội để ban hành Hiến pháp nhằm thực hiện một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Nhờ bộ máy nhà nước đề cao vai trò của cá nhân người đứng đầu mà quyền lực nhà nước được thực thi một cách nhanh nhạy, đáp ứng kịp thời việc xây dựng và củng cố chính quyền non trẻ lúc bấy giờ.
Nghiên cứu các quy định của Hiến pháp năm 1946 có thể thấy nhiều điểm tương đồng với mô hình tổ chức quyền lực nhà nước của nhiều nước dân chủ và pháp quyền phương Tây lúc bấy giờ. Hiến pháp không quy định nguyên tắc phân quyền, nhưng việc phân công quyền lực nhà nước rất rõ ràng, minh bạch. Chủ tịch nước có quyền phủ quyết tương đối (yêu cầu thảo luận lại luật trong vòng 10 ngày) giống như chính thể tổng thống, Chủ tịch nước được miễn trừ trách nhiệm (như chính thể nội các); quyền bất tín nhiệm của Nghị viện đối với nội các. Các quy định này nhằm hình thành cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các nhánh lập và hành pháp.
Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược cải tạo xã hội chủ nghĩa (XHCN) và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp của cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Cả hai bản Hiến pháp ra đời trong điều kiện các nước XHCN đã trở thành một hệ thống đối lập với hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa. Vì thế, Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980 là những Hiến pháp tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa. Với nguyên tắc này, tất cả quyền lực nhà nước cũng thuộc về nhân dân, nhưng tập trung vào Quốc hội và hội đồng nhân dân (HĐND). Sau khi nhân dân bầu ra Quốc hội và HĐND các cấp thì quyền lực nhà nước của mình được ủy quyền cho Quốc hội và HĐND. Quốc hội và HĐND thay mặt nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng của cả nước và ở địa phương theo từng cấp. Vì thế, quyền lực nhà nước tập quyền vào các cơ quan dân cử; không có sự phân quyền một cách minh bạch giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mô hình này phù hợp với điều kiện đất nước có chiến tranh và nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp; và đây cũng là mô hình tổ chức quyền lực nhà nước tổng thể của hệ thống các nước XHCN lúc bấy giờ. Nước ta không thể tổ chức quyền lực nhà nước thoát ly mô hình tổng thể này. Với nguyên tắc tập quyền XHCN, bộ máy nhà nước đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của Nhà nước ta lúc bấy giờ là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà ở miền Nam. Tuy nhiên, tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc này cũng bộc lộ một số nhược điểm. Đó là quyền lực nhà nước không được phân công nhiệm vụ một cách minh bạch nên có sự dựa dẫm, ỷ lại giữa các quyền, không phát huy hết trách nhiệm của mỗi quyền; nhân dân  - chủ thể của quyền lực nhà nước chỉ thực hiện quyền lực nhà nước thông qua cơ quan dân cử, không có điều kiện để đánh giá và kiểm soát hiệu lực và hiệu quả hoạt động của mỗi quyền, dẫn đến bộ máy nhà nước trì trệ, kém năng động.
Nhận thức sâu sắc những hạn chế của nguyên tắc tập quyền XHCN trong điều kiện đổi mới, Đảng ta đã tiến hành tổng kết thực tiễn và từng bước cải cách bộ máy nhà nước trên những nhận thức lý luận mới. Trước hết trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước đã đề ra chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta - bước đột phá về nhận thức, mở ra cơ sở lý luận để từng bước thận trọng chuyển từ tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc tập quyền XHCN sang tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc phân công quyền lực nhà nước của Nhà nước pháp quyền XHCN.
Trước đây, tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta, theo nguyên tắc tập quyền XHCN, mặc dù quyền lực nhà nước vẫn được Hiến pháp ghi nhận là thuộc về nhân dân nhưng nhân dân không được thừa nhận là chủ thể cao nhất của quyền lập hiến. Quốc hội được Hiến pháp xác định là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Do đó, Hiến pháp không phải là phương tiện pháp lý cao nhất để nhân dân giao quyền, nhân dân ủy quyền quyền lực nhà nước cho Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân và các cơ quan nhà nước khác. Theo đó, Hiến pháp không được quan niệm là một phương tiện pháp lý cao nhất để nhân dân giao quyền, nhân dân ủy quyền quyền lực nhà nước của mình và để giới hạn quyền lực nhà nước, buộc Nhà nước phải hoạt động trong giới hạn của Hiến pháp.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đã đề ra một nguyên tắc mới về tổ chức quyền lực nhà nước trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta là “Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp với sự phân công rành mạch ba quyền”. Tuy trong nguyên tắc này chưa có yếu tố kiểm soát quyền lực nhà nước, nhưng là bước đổi mới cơ bản trong tư duy xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân mà Đại hội VII của Đảng đã khẳng định. Xây dựng Nhà nước pháp quyền trở thành một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, có tầm chiến lược, bao gồm toàn bộ tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Theo đó, năm 2001, Nhà nước đã tiến hành sửa đổi một số điều của Hiến pháp năm 1992 về tổ chức bộ máy nhà nước để thể chế một số quan điểm, đường lối của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và khẳng định “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Lần đầu tiên thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền XHCN” và nguyên tắc “phân công, phối hợp,...” được trang trọng ghi nhận trong Hiến pháp nước ta. Đây chính là nền tảng để tất yếu đi đến nhận thức phải kiểm soát quyền lực nhà nước ở Đại hội X và Đại hội XI của Đảng. Văn kiện Đại hội X, trong mục tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN đã đề cập đến vấn đề “xây dựng hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền”, trong đó đã đề cập sâu về vấn đề “xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Có thể coi đây là một nhận thức mới, một sự thay đổi về chất trong tư duy lý luận. “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” mà các bản Hiến pháp trước đây thừa nhận và khẳng định thì đến đây mới thực sự có sự nhận thức đầy đủ và nhất quán. Bởi, không thừa nhận quyền lập hiến là quyền lực gốc, quyền lực thiết lập nên quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp; quyền lập hiến cao hơn quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp thì không thể thừa nhận theo đúng nghĩa “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” và không thể có cơ sở để khẳng định quyền lực nhà nước là thống nhất. Bởi sự thống nhất của quyền lực nhà nước là sự thống nhất ở quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể giao quyền, chủ thể ủy quyền thể hiện tập trung ở quyền lập hiến thuộc về nhân dân. Đây chính là cơ sở hình thành cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước một cách đầy đủ và đúng đắn.
Từ nhận thức mới về kiểm soát quyền lực nhà nước được ghi nhận ở Văn kiện Đại hội X của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã đưa vào tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam một yếu tố mới, đó là kiểm soát quyền lực nhà nước. Có thể nói lần đầu tiên trong văn kiện của Đảng ta đã ghi nhận một quan điểm cơ bản về tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN, chứa đựng đầy đủ các giá trị mới về chất so với nguyên tắc tập quyền XHCN về tổ chức quyền lực nhà nước. Đó là nguyên tắc: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Thể chế hóa nguyên tắc này, Hiến pháp năm 2013 đã trang trọng tuyên bố ở Điều 2 rằng:
“1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân;
2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức;
3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Như vậy, nếu mô hình tập quyền XHCN không xem phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước là một tất yếu khách quan, thì đến chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước được xác định như là một yếu tố cấu thành không thể thiếu trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Đó là quá trình kế thừa và phát triển tư duy, đấu tranh với quan điểm và thói quen của mô hình tập quyền XHCN, bởi sức ỳ của mô hình này đã tồn tại nhiều thập niên, đã ăn sâu bám rễ vào tư duy của nhiều người mà không thể thay đổi nhanh chóng được. Từ khởi xướng chủ trương cải cách bộ máy nhà nước một cách mạnh mẽ ở Đại hội VI (năm 1986) đến Cương lĩnh xây dựng đất nước lên chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ (năm 1991) thừa nhận Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp với sự phân công rành mạch 3 quyền; đến việc thừa nhận “Nhà nước ta... là Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”, vận hành theo nguyên tắc căn bản là “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” là một quá trình vận động tất yếu của nhận thức với sự thay đổi và nâng cao từng bước thận trọng qua các kỳ Đại hội Đảng.
Từ đổi mới về nhận thức, hình thành tư duy lý luận nói trên, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta đã có những thay đổi rất căn bản. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước dân chủ hơn, hiệu lực hơn, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan được phân định minh bạch hơn. Theo đó, Quốc hội được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền lập hiến, lập pháp (không còn là cơ quan toàn quyền duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp như trước đây) quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước với tư cách là một phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước ở tầng cao nhất của bộ máy nhà nước như ở nhiều nước. Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước do Quốc hội bầu, là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại, thống lĩnh các lực lượng vũ trang, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh. Chính phủ được phân công không chỉ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, cơ quan chấp hành của Quốc hội mà còn là cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Việc quy định vị trí và vai trò mới này của Chính phủ trong tổ chức quyền lực nhà nước, vừa phản ánh nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước, vừa chỉ rõ Chính phủ không chỉ là cơ quan chấp hành của Quốc hội nhằm tạo cho Chính phủ có đầy đủ vị thế và thẩm quyền độc lập, không dựa dẫm, ỷ lại vào Quốc hội mà chịu trách nhiệm độc lập trước đất nước và nhân dân thông qua việc Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao và cơ chế giám sát, phản biện của nhân dân.
Tòa án nhân dân không những được quy định là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà còn khẳng định “thực hiện quyền tư pháp” (Điều 102, Hiến pháp năm 2013); “Thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” (khoản 2, Điều 103, Hiến pháp năm 2013). Quy định mới này thể hiện sự phân công quyền lực nhà nước một cách mạch lạc; đề cao trách nhiệm của Tòa án nhân dân trong việc thực hiện quyền tư pháp; công bằng và công lý của một quốc gia thể hiện tập trung nhất ở quyền xét xử của Tòa án. Từ đây, nhân dân có địa chỉ cụ thể để xây dựng và đánh giá việc thực hiện quyền tư pháp mà nhân dân đã giao phó, đã ủy quyền.
Vai trò và nhiệm vụ của Tòa án nhân dân cũng như vai trò nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân có sự điều chỉnh, thể hiện tư duy mới. Đối với tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, Điều 102, khoản 3 đã đưa lên hàng đầu vai trò và nhiệm vụ “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân”. Đối với Viện kiểm sát nhân dân, nhấn mạnh vai trò và nhiệm vụ hàng đầu là “bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân” (khoản 3, Điều 107). Trong lúc đó, Hiến pháp năm 1992 không phân biệt sự khác nhau giữa vai trò và nhiệm vụ của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, cả hai đều giống nhau và quy định chung vào một điều “Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của công dân, bảo vệ tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân” (Điều 126). So sánh với quy định của các bản Hiến pháp trước đây, có thể thấy Hiến pháp năm 2013 đã có đổi mới cơ bản về vai trò và nhiệm vụ của hai thiết chế tòa án và viện kiểm sát; hoàn toàn phù hợp với tư duy xây dựng nhà nước pháp quyền là đề cao quyền con người, quyền công dân trong hoạt động tư pháp, coi con người là chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và là mục đích của sự phát triển.
Đổi mới mô hình tổ chức chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới, Hiến pháp năm 2013 đã quy định những vấn đề có tính nguyên tắc về phân công, phân cấp giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương, bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của trung ương, đồng thời phát huy tính năng động, sáng tạo quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương.
Hội đồng Bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước lần đầu tiên ra đời trong Hiến pháp nước ta với tư cách là các thiết chế hiến định độc lập được quy định thành một chương riêng trong Hiến pháp. Việc ra đời hai thiết chế mới này ở nước ta là nhằm tiếp tục phát huy dân chủ, thực hiện nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, tạo điều kiện và cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình trong bầu cử và trong kiểm soát quyền lực nhà nước. Theo đó, Hội đồng Bầu cử quốc gia có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, chỉ đạo và hướng dẫn bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân các cấp. Kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.
Cùng với việc phân công quyền lực nhà nước một cách minh bạch cho các cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp như trình bày ở trên; theo Hiến pháp năm 2013, quyền lực nhà nước còn được tổ chức và hoạt động theo cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Theo đó, Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên quy định 3 cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước sau đây:
Một là, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước do nhân dân - chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước trực tiếp vận hành bao gồm: các cá nhân công dân, tổ chức không phải là cơ quan nhà nước, không mang tính quyền lực nhà nước thực hiện. Đây là cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài bộ máy nhà nước kiểm soát tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Cơ chế này được xây dựng dựa trên các căn cứ Hiến định, như “nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp” (Điều 6); “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam... giám sát và phản biện xã hội” (Điều 9); “công dân Việt Nam... tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước về những vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người lao động” (Điều 10); và rất nhiều quyền dân chủ trực tiếp của công dân được Hiến pháp năm 2013 thừa nhận, như “quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin” (Điều 25); quyền bầu cử (Điều 27); quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội; tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước (Điều 28); quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu dân ý (Điều 29).
Hai là, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước do các chủ thể là cơ quan nhà nước trực tiếp vận hành. Đây chính là cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, kiểm soát lẫn nhau và kiểm soát bên trong của mỗi quyền. Cơ chế này được Hiến pháp năm 2013 quy định ở khoản 3, Điều 2 “Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” và khoản 2, Điều 119 “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp”.
Ba là, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước do một thiết chế độc lập vận hành được khoản 2, Điều 119 Hiến pháp năm 2013 quy định “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định”. Ba cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước này đang từng bước được xây dựng và hoàn thiện ở nước ta từ sau khi ban hành Hiến pháp năm 2013.
Như vậy, có thể nói, các học thuyết phân quyền được Đảng và Nhà nước ta nghiên cứu, kế thừa có chọn lọc các giá trị hợp lý, phê phán mặt bất hợp lý để bảo đảm tính phù hợp với thực tiễn của từng thời kỳ trong việc tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta, đặc biệt là trong điều kiện mới - điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN hiện nay.
3- Sau khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực, những năm qua bộ máy nhà nước ta đã được xây dựng và hoàn thiện một bước. Các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, như Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Tòa án, Luật Tổ chức Viện kiểm sát, Luật Tổ chức chính quyền địa phương,... được sửa đổi, bổ sung để thể chế hóa Hiến pháp. Các đạo luật này đã phân công, phân nhiệm nhiệm vụ, quyền hạn cho các nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp một cách rõ ràng, minh bạch hơn, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từng bước được hình thành. Tuy nhiên, để tiếp tục phát huy những giá trị về phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước của Hiến pháp năm 2013, theo chúng tôi cần phải tiếp tục thể chế hóa các quy định sau của Hiến pháp:
Thứ nhất, bảo vệ Hiến pháp là bảo vệ chủ quyền của nhân dân, bảo vệ toàn vẹn quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, bảo vệ sự thống nhất quyền lực nhà nước của nhân dân, phòng, chống sự tha hóa của quyền lực nhà nước. Hiến pháp năm 2013 đã nhận thức sâu sắc điều đó, kiểm soát quyền lực nhà nước chẳng những được quy định thành nguyên tắc ở Điều 2 mà ở khoản 2, Điều 119 còn quy định: “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp là do luật định”. Theo đó, kiểm soát quyền lực nhà nước gồm 3 cơ chế quyền lực nhà nước như đã nêu trên. Cả ba cơ chế này cho đến nay chưa được hoàn thiện, nhất là bên trong mỗi quyền chưa có sự kiểm soát quyền lực nhà nước một cách hiệu quả. Vì thế, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước là đòi hỏi cấp thiết nhằm phòng, chống sự tha hóa quyền lực nhà nước, mà trước hết là đấu tranh phòng, chống tham nhũng một cách hiệu quả.
Thứ hai, các luật về tổ chức bộ máy nhà nước tuy đã có sự phân định nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan nhà nước một cách minh bạch hơn. Tuy nhiên, trong một số lĩnh vực vẫn còn thiếu rành mạch, ví như trong lập pháp, trách nhiệm của Chính phủ và Quốc hội phân định thế nào? Một dự án luật sau khi thông qua phát hiện có sai sót thì cơ quan nào chịu trách nhiệm? Trong nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước vẫn còn trùng lắp về thẩm quyền, một việc còn giao cho nhiều cơ quan nên không rõ trách nhiệm chính thuộc về ai? Phân cấp, phân quyền, ủy quyền được Hiến pháp năm 2013 quy định nhưng đến nay giữa các cấp chính quyền chưa có sự phân định minh bạch. Đây cũng là một đòi hỏi cấp bách trong tổ chức quyền lực nhà nước của nước ta hiện nay cần được đặc biệt quan tâm để bộ máy nhà nước ta phát huy đầy đủ hiệu lực và hiệu quả./.
Nguồn: http://www.tapchicongsan.org.vn

Quan điểm của Đảng về kiểm soát, ngăn chặn “nhóm lợi ích” ở Việt Nam hiện nay

 “Nhóm lợi ích” đã tác động mạnh mẽ đến nhiều ngành, lĩnh vực, gây hậu quả nghiêm trọng cho Nhà nước và xã hội. Kiểm soát, ngăn chặn “nhóm lợi ích” trở thành nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn vong của Đảng và chế độ. Đây là công việc khó khăn, phức tạp vì liên quan đến những người có chức, có quyền, có tiền. Do vậy, cần có quan điểm, phương châm đúng đắn nhằm kiểm soát, ngăn chặn có hiệu quả “nhóm lợi ích” ở Việt Nam hiện nay.

Thực trạng "nhóm lợi ích" ở Việt Nam

“Nhóm lợi ích” là một hiện tượng khách quan, tồn tại tất yếu trong quá trình hình thành và phát triển của xã hội. Đó là tập hợp các cá nhân có chung một hay nhiều lợi ích hoạt động theo một cơ chế nhất định nhằm đạt được hoặc gia tăng lợi ích chung của họ. Thực tế, vừa có “nhóm lợi ích” tích cực, vừa có “nhóm lợi ích” tiêu cực. “Nhóm lợi ích” tích cực là những “nhóm lợi ích” chính đáng, hợp lý, hợp pháp, tiến bộ, có tác dụng tích cực, thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Ngược lại, “nhóm lợi ích” tiêu cực là “nhóm lợi ích” không chính đáng, phi pháp, có tác dụng phá hoại, kìm hãm sự phát triển của xã hội (1).

Trước đổi mới, các “nhóm lợi ích” ở nước ta vẫn tồn tại nhưng hình thái biểu hiện, ảnh hưởng, tác động lên đời sống xã hội không rõ ràng, mạnh mẽ (2). Sau đổi mới, “nhóm lợi ích” ở Việt Nam có điều kiện, môi trường thuận lợi để hình thành, phát triển cả về số lượng, quy mô, tính chất, gây ảnh hưởng, tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, đến việc hoạch định và thực thi chính sách nói riêng. Kinh tế càng phát triển, xã hội càng phân hóa, đa dạng, quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội được mở rộng thì “nhóm lợi ích” xuất hiện ngày càng nhiều, ảnh hưởng, tác động của chúng đến xã hội càng lớn. Chúng xuất hiện ở mọi ngành, lĩnh vực, địa phương, ở mọi quy mô, cấp độ, đặc biệt là ở những ngành, lĩnh vực quan trọng, liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân như đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản, tài chính - ngân hàng, khai thác tài nguyên với những vụ án tham nhũng hay kinh tế nghiêm trọng liên quan đến nhiều tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, trong đó có nhiều cán bộ cao cấp, tướng lĩnh đã nhúng chàm.

Qua điều tra, truy tố, xét xử các vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực cho thấy, “nhóm lợi ích” đã tác động đến tất cả các khâu, công đoạn, quy trình của quá trình thực thi chính sách. Nhìn tổng thể, nước ta chưa có sự lũng đoạn của “nhóm lợi ích” nhưng đã có biểu hiện, tác động của “nhóm lợi ích” lên quá trình hoạch định và thực thi chính sách. Trong phạm vi nhỏ hơn, ở một số tỉnh, bộ, ngành đã có sự lũng đoạn của “nhóm lợi ích”. Và sự chi phối, lũng đoạn về kinh tế sớm hay muộn cũng dẫn đến sự chi phối công tác tổ chức - cán bộ và lũng đoạn về chính trị trên các phạm vi khác nhau (3).

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI và XII của Đảng, cùng nhiều hội nghị Trung ương gần đây đã đề cập đến sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, trong đó có “nhóm lợi ích” với các biểu hiện cụ thể như cục bộ, bè phái, kèn cựa địa vị, tranh chức, tranh quyền; lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung dưỡng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực; lợi dụng quyền lực được giao để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc người thân, phe nhóm mình. Đặc biệt, đã xuất hiện kiểu quan hệ giữa các doanh nghiệp của tư nhân và cơ quan quản lý nhà nước, can thiệp vào quá trình xây dựng, thực thi chính sách để có đặc quyền, đặc lợi, hình thành “lợi ích nhóm”; tình trạng cán bộ lãnh đạo, quản lý của doanh nghiệp nhà nước móc ngoặc với cán bộ, công chức nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân để hình thành “nhóm lợi ích”, “sân sau”, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, thao túng hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, trục lợi cá nhân, tham nhũng, lãng phí, gây tổn hại cho Nhà nước và doanh nghiệp…

Tại Hội nghị Trung ương 3 (khóa XI), ngày 10-10-2011, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói: “Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách đầu tư phải có tầm nhìn xa, không bị “tư duy nhiệm kỳ”, tư tưởng cục bộ, bệnh thành tích, chủ quan duy ý chí hay “lợi ích nhóm” chi phối”. Tiếp đó, tại phiên bế mạc Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, ngày 29-2-2012, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng, “lợi ích nhóm” đơn giản là lợi ích cục bộ, móc ngoặc với nhau theo kiểu “ông mất chân giò, bà thò chai rượu”, đôi bên cùng có lợi, chung nhau làm ăn vì lợi ích cục bộ. Nhưng bây giờ nhiều khi không chỉ là quan hệ giữa hai bên, hai người mà đã thành “đường dây”, “sự ăn cánh” của một nhóm người mưu lợi ích riêng, làm hại lợi ích chung” (4).

Ngày 8-1-2018, tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc tổng kết hoạt động năm 2017, triển khai nhiệm vụ tài chính - ngân sách năm 2018, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc chỉ rõ: Công tác quản lý tài sản công vẫn đang còn nhiều quan ngại, còn thất thoát, lãng phí lớn, thậm chí còn để các “nhóm lợi ích” “làm phép” để hưởng lợi khổng lồ trên tài sản công. Do vậy, phải “chặt đứt nhóm lợi ích thao túng hưởng lợi trên tài sản công quốc gia” (5).

Tiếp đó, tại Hội nghị đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, ngày 21-11-2018, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc chỉ ra nguyên nhân kìm hãm quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp, thoái vốn là do lợi ích nhóm, tham nhũng, tư lợi cá nhân; đặc biệt là tình trạng “sân trước”, “sân sau”. Thủ tướng cho biết: “Không những 1 sân trước mà 4, 5 sâu sau. Có ông (doanh nghiệp nhà nước) 14 - 15 cái sân sau” (6) .

Dưới tác động của “nhóm lợi ích”, chính sách bị biến dạng, méo mó. Tài sản, ngân sách nhà nước bị thất thoát, lãng phí. Cán bộ, đảng viên bị suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; làm nảy sinh những mâu thuẫn trong Đảng và xã hội. Đặc biệt, niềm tin của Nhân dân vào Đảng và Nhà nước bị giảm sút, tạo cơ hội cho những phần tử chống đối, phản động nổi dậy chống phá, xuyên tạc tình hình đất nước. Đây là những nguy cơ to lớn đe dọa đến sự tồn vong của Đảng và chế độ.

Và những định hướng đúng đắn của Đảng

Dự báo trong thời gian tới, “nhóm lợi ích” tiêu cực sẽ tiếp tục tác động mạnh đến quá trình hoạch định và thực thi chính sách ở tất cả các ngành, lĩnh vực, mọi quy mô, cấp độ. Hoạt động của nhóm sẽ ngày càng tinh vi, khó phát hiện với những âm mưu, thủ đoạn mới, được che chắn, ngụy trang một cách kín đáo. Đặc biệt, đã xuất hiện sự câu kết giữa “nhóm lợi ích” ở trong nước với “nhóm lợi ích” ở nước ngoài. Đây là xu hướng mới và sẽ mạnh lên trong thời gian tới. Do vậy, kiểm soát, ngăn chặn “nhóm lợi ích” đang là nhiệm vụ cấp bách của Đảng và Nhà nước ta.

Đảng chưa có nghị quyết chuyên đề về kiểm soát, ngăn chặn “nhóm lợi ích”. Tuy nhiên, qua một số nghị quyết chuyên đề về công tác xây dựng Đảng, về hoàn thiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế, về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước…, có thể khái quát một số quan điểm, định hướng, tinh thần chung của Đảng trong việc kiểm soát, ngăn chặn “nhóm lợi ích”:

Một là,
 kiểm soát, ngăn chặn “nhóm lợi ích” là yêu cầu, nhiệm vụ cấp bách trong tình hình hiện nay, quyết định đến sự phát triển bền vững của đất nước, sự thành bại của công cuộc đổi mới; góp phần ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực trong Đảng. Hiện nay, “nhóm lợi ích” đã hình thành, ăn sâu, tác động mạnh đến mọi ngành, lĩnh vực của đời sống xã hội ở mọi quy mô, cấp độ, đặc biệt trong việc hoạch định, thực thi chính sách. “Nhóm lợi ích” cấu kết chặt chẽ với nhau, hoạt động ngầm, tinh vi nhằm tham nhũng, trục lợi, đục khoét tài sản của Nhà nước. Mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, nhưng thực tế xã hội cho thấy có nguy cơ đáng lo ngại là tham nhũng, tiêu cực có hiện tượng chuyển dần sang “chủ nghĩa tư bản thân hữu” do hoạt động của “lợi ích nhóm” gây nên(7). Do vậy, đấu tranh kiểm soát, ngăn chặn “nhóm lợi ích” đang là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay.

Hai là, kiểm soát, ngăn chặn “nhóm lợi ích” là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp vì liên quan đến những người có chức, có quyền, có tiền, lại không có chiến tuyến rõ ràng. Nhóm hoạt động rất tinh vi, ngấm ngầm, được tổ chức chặt chẽ, thường nhân danh lợi ích của tập thể, cộng đồng, nhân dân, ngụy trang, ẩn giấu dưới những lời nói, việc làm có tính chất nhân văn, nhân đạo, nên rất khó nhận biết, phát hiện. Tại Hội nghị cán bộ toàn quốc phổ biến, quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII), ngày 9-12-2016, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Đây là cuộc chiến đầy cam go, nhưng không thể không làm, vì nó liên quan đến vận mệnh của Đảng ta và chế độ ta”.

Ba là, phải có quyết tâm chính trị cao, kiên quyết, kiên trì. “Nhóm lợi ích” đã ăn sâu trong suy nghĩ, tư tưởng của nhiều cán bộ, đảng viên, doanh nghiệp. Thực tế, nó hiện hữu ở mọi cấp, mọi ngành, liên quan đến những người có chức, có quyền. Do vậy, muốn kiểm soát, ngăn chặn có hiệu quả “nhóm lợi ích” cần có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, làm một cách kiên quyết, kiên trì, bài bản, khoa học, không thể nóng vội, chủ quan. Cần có giải pháp tình thế, kiên quyết, kịp thời, tạo chuyển biến rõ rệt, đồng thời có biện pháp dài hạn về phòng, chống tận gốc. Tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác xây dựng Đảng năm 2015, triển khai nhiệm vụ trọng tâm năm 2016, ngày 26-3-2016, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: Chúng ta phải có dũng khí, dám ngăn những việc làm không đúng, chống cho được tệ bè phái, cục bộ, lợi ích nhóm và cũng không bị lợi ích nào cám dỗ, không để bị chi phối bởi quan hệ cá nhân, thân quen không trong sáng.

Bốn là, kiểm soát, ngăn chặn “nhóm lợi ích” phải sử dụng đồng bộ nhiều nhóm giải pháp, phải dựa vào dân, huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị. Đó là các giải pháp về chính trị - tư tưởng, tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là đảng viên giữ cương vị lãnh đạo chủ chốt trong cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị; giải pháp về cơ chế, chính sách; giải pháp về kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; về công tác tổ chức - cán bộ; về phát huy vai trò của mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, của báo chí - truyền thông… Các nhóm giải pháp cần tiến hành đồng bộ, kiên quyết, kiên trì, làm từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài; đồng thời lựa chọn những giải pháp mang tính đột phá, phù hợp với từng thời điểm để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt.

Năm là, rà soát, bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện các quy định, văn bản quy phạm pháp luật về kiểm soát, ngăn chặn “nhóm lợi ích” nói chung, kiểm soát, ngăn chặn “nhóm lợi ích” trong hoạch định và thực thi chính sách công nói riêng; khẩn trương nghiên cứu, ban hành bổ sung, điều chỉnh các cơ chế kiểm soát quyền lực; xây dựng cơ chế quản lý, điều hành, tổ chức thực hiện chính sách công khai, minh bạch, khắc phục tình trạng “xin - cho”, “duyệt - cấp”, độc quyền; ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, “sân sau”, trục lợi trong quản lý, điều hành ở các lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát sinh tham nhũng như đất đai, khai thác tài nguyên, tài chính - ngân hàng, đầu tư xây dựng cơ bản, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.


 (1), (2) Lương Đình Hải: Tác động của nhóm lợi ích ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Khoa học xã hội, số 4-2015.
(3) Thực trạng, xu hướng và giải pháp phòng, chống “lợi ích nhóm” ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2015, tr. 42.
(4) Nguyễn Phú Trọng: Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt để phát triển đất nước, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017, tr. 90 - 91.
(5) Thủ tướng dự Hội nghị tổng kết công tác tài chính - ngân sách năm 2017, triển khai nhiệm vụ năm 2018, http://baochinhphu.vn/, ngày 8-1-2018.
(6) Nguyễn Minh: Nói không với “sân sau”, “lợi ích nhóm”, http://dangcongsan.vn, ngày 30-11-2018.
(7) Vũ Ngọc Hoàng: Lợi ích nhóm và chủ nghĩa tư bản thân hữu - cảnh báo nguy cơ, Tạp chí Cộng sản, số 5-2015.
http://www.xaydungdang.org.vn