Thứ Năm, 9 tháng 1, 2025

CẢNH GIÁC VỚI LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CỦA HOÀNG TRƯỜNG


Gần đây, trên trang “Voatiengviet, Hoàng Trường” đã rêu rao rằng: Hội nghị Trung ương“đánh đố”: Y cho rằng, “Hội nghị Trung ương lần này là một bước đi chiến lược nhằm củng cố đội ngũ thân tín trước Đại hội XIV”. Đây là luận điệu xuyên tạc, hướng lái dư luận hiểu sai về chủ trương của Đảng ta về sắp xếp tinh gọn bộ máy, cần nhận diện, đấu tranh bác bỏ.

Thứ nhất, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã họp xem xét, cho ý kiến một số nội dung về tổng kết thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”; Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh, trên tinh thần khẩn trương quyết liệt và đổi mới, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt triển khai nhiệm vụ lớn mà Trung ương 10 đã xác định là: Tăng tốc bứt phá, phấn đấu đạt và vượt các mục tiêu năm 2024, năm 2025 và cả nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đã đề ra tạo nền tảng đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới; chuẩn bị thật tốt các điều kiện tổ chức thành công Đại hội lần thứ XIV của Đảng. Đồng thời, xin ý kiến Trung ương, về chủ trương tổng kết sớm toàn diện Nghị quyết số 18 và tiếp tục sắp xếp, hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh, gọn hoạt động hiệu lực, hiệu quả, nhất là cấp Trung ương; việc tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị là đòi hỏi rất cấp thiết của tình hình thực tiễn. Như vậy, khẳng định Hội nghị Trung ương lần này đã xác định đầy đủ nội dung, thời gian, chương trình làm việc rất cụ thể, rõ ràng, không phải là Hội nghị Trung ương“đánh đố” như Hoàng Trường đã cố tình rêu rao.

Chủ Nhật, 5 tháng 1, 2025

Cần chủ động và sáng tạo trong việc lan tỏa những câu chuyện về nhân quyền

 Cần chủ động và sáng tạo trong việc lan tỏa những câu chuyện về nhân quyền -0Bốn cách làm mới 

Phát biểu tại hội thảo, Thứ trưởng Ngoại giao Đỗ Hùng Việt – Phó trưởng ban chỉ đạo về Nhân quyền khẳng định, cùng với những thành tựu to lớn của đất nước, thời gian qua, công tác truyền thông, thông tin đối ngoại về quyền con người được triển khai mạnh mẽ, đặc biệt là từ khi “Đề án truyền thông về quyền con người ở Việt Nam” giai đoạn 2023-2028 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2022, với sự quan tâm chỉ đạo, tham gia đóng góp của cả hệ thống chính trị.

Tuy nhiên, Thứ trưởng Đỗ Hùng Việt cho rằng, do những tác động khách quan đến từ tình hình quốc tế và khu vực, công tác thông tin đối ngoại về quyền con người cần phát huy và làm tốt hơn nữa, đưa ra những cách làm chủ động hơn, sáng tạo hơn.

Việt Nam tích cực tham gia cuộc chiến toàn cầu chống nạn buôn người

 Mới đây, Cơ quan Phòng, chống ma túy và tội phạm của Liên hợp quốc (UNODC) đã đưa ra một báo cáo toàn cầu về nạn buôn người, nhấn mạnh rằng để giải quyết vấn đề này, cần có sự phối hợp chặt chẽ của tất cả các quốc gia, trong đó có Việt Nam - một quốc gia đang đóng góp tích cực trong cuộc chiến này.

Thực trạng đáng báo động

Báo cáo của UNODC năm 2024 chỉ ra rằng, trong năm 2022, hơn 69.600 người đã trở thành nạn nhân của tội phạm buôn người trên toàn cầu, tăng 43% so với năm 2020, thời điểm đại dịch COVID-19 khiến số lượng các vụ án giảm đáng kể. Sự gia tăng này không chỉ phản ánh sự hồi sinh của tội phạm buôn người sau đại dịch, mà còn cho thấy mức độ nghiêm trọng và lan rộng của vấn đề. Dữ liệu sơ bộ năm 2023 tiếp tục cho thấy xu hướng tăng này.

buon nguoi.jpg -0
Công an tỉnh Hà Tĩnh phối hợp với các đơn vị chức năng tiếp nhận các nạn nhân người Việt Nam từ Đặc khu kinh tế Bò Kẹo ở Tam giác vàng về nước an toàn.

Điều này chứng tỏ rằng, nạn buôn người không chỉ tồn tại ở những khu vực nghèo khó hay chiến tranh, mà đang len lỏi đến mọi ngóc ngách của thế giới, từ các quốc gia phát triển đến những nơi bị ảnh hưởng bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị và môi trường. Một phần quan trọng trong báo cáo lần này của UNODC là chương về châu Phi, nơi các cuộc khủng hoảng nghiêm trọng đã khiến hàng triệu người rơi vào tình trạng dễ bị khai thác. Châu Phi từ lâu đã bị bỏ qua trong các nghiên cứu về buôn người do công tác thu thập dữ liệu khó khăn. Tuy nhiên, nhờ sự phối hợp giữa các tổ chức quốc tế, khu vực và chính quyền các quốc gia châu Phi, UNODC đã có thể cung cấp một bức tranh rõ nét hơn về tình trạng buôn người tại đây.

Khu vực phía Nam Sahara của châu Phi chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng số nạn nhân của tội phạm buôn người trên toàn thế giới, lên đến 26%. Phụ nữ và trẻ em gái là nhóm đối tượng bị tội phạm nhắm đến nhiều nhất, tiếp theo là nam giới và trẻ em trai. Tuy nhiên, đáng lo ngại là số lượng trẻ em bị buôn bán đang gia tăng nhanh chóng.

Các nạn nhân của nạn buôn người thường bị cưỡng bức lao động trong các ngành nghề khắc nghiệt như ăn xin, làm việc trong các cơ sở sản xuất trái phép, hoặc tham gia vào các hoạt động lừa đảo trực tuyến. Đặc biệt, phụ nữ và trẻ em gái còn phải đối mặt với nguy cơ bị lạm dụng tình dục và bạo lực giới, làm tăng thêm mức độ nghiêm trọng của tội phạm này.

Theo Giám đốc điều hành UNODC Ghada Waly, điều này không chỉ là vi phạm nhân quyền, mà còn là một thách thức đối với an ninh và trật tự xã hội toàn cầu. Để giảm thiểu và chấm dứt tình trạng buôn người, UNODC đã đưa ra một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác ngăn chặn. Đầu tiên, các quốc gia cần hoàn thiện hệ thống pháp luật để đối phó với những phương thức ngày càng tinh vi và táo tợn của các băng nhóm buôn người.

Các biện pháp bảo vệ và hỗ trợ trẻ em cũng cần được tích hợp trong các chiến lược chống buôn người, nhằm ngăn chặn lao động trẻ em và bảo vệ trẻ em khỏi mọi hình thức bóc lột. Công tác phòng ngừa là yếu tố then chốt, trong đó cải thiện chất lượng báo cáo về nạn buôn người và nâng cao nhận thức của cộng đồng là những biện pháp thiết yếu. Đặc biệt, các chuyên gia nhấn mạnh rằng việc bảo vệ sự an toàn và phẩm giá của các nạn nhân là ưu tiên hàng đầu, thay vì đổ lỗi cho họ vì đã nhẹ dạ cả tin.

Sự vào cuộc và vai trò tích cực của Việt Nam

Trong cuộc chiến chống nạn buôn người, Việt Nam đã thể hiện một cam kết mạnh mẽ và quyết tâm không chỉ bằng những biện pháp nội bộ mà còn thông qua việc thúc đẩy hợp tác quốc tế. Những nỗ lực này đã đem lại những kết quả tích cực, khẳng định vai trò của Việt Nam trong cuộc đấu tranh toàn cầu này. Việt Nam đã ban hành một loạt chính sách quan trọng nhằm phòng ngừa và chống nạn buôn người. Một trong những bước đi quan trọng là việc ký kết và thực thi các hiệp định quốc tế về phòng, chống buôn người.

Việt Nam là một trong những quốc gia tham gia và thực hiện cam kết của Hiệp định LHQ về buôn bán người và Hiệp định hợp tác khu vực ASEAN trong việc ngăn chặn các tội phạm xuyên biên giới, trong đó có tội phạm buôn người. Các cam kết này không chỉ giúp Việt Nam tăng cường hợp tác với các quốc gia khác mà còn tạo cơ sở pháp lý vững chắc để xử lý các vụ án liên quan đến buôn người và bảo vệ quyền lợi của nạn nhân.

Lễ Giáng sinh - minh chứng sinh động bác bỏ những cáo buộc về tự do tín ngưỡng, tôn giáo

 2.jpg -0Những cáo buộc sai trái, vu cáo Việt Nam

Lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá, hạ thấp uy tín của một quốc gia, thậm chí dẫn đến xung đột sắc tộc, nội chiến và chia rẽ đất nước là hoạt động không mới nhưng luôn được coi là lá bài lợi hại. Đối với Việt Nam hiện nay, mặc dù tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã đạt được những thành tựu quan trọng nhưng các thế lực thù địch, phản động thường xuyên sử dụng tôn giáo hòng thực hiện các mưu đồ chính trị để chống phá Đảng, Nhà nước.

Họ lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để xuyên tạc, bóp méo cho rằng Việt Nam "đàn áp tôn giáo"; lợi dụng các vấn đề chính trị-xã hội phức tạp trong nước để kích động ly khai, biểu tình; lợi dụng sự thiếu hiểu biết, cả tin của một bộ phận dân chúng để thành lập các "đạo lạ", các tổ chức núp dưới danh nghĩa tôn giáo nhưng mang màu sắc chính trị, truyền đạo trái phép. Tìm cách lồng ghép những tư tưởng phản động, xuyên tạc bản chất chế độ chính trị, chống đối chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm tạo ra mâu thuẫn giữa tôn giáo với chính quyền, gieo nên định kiến, ác cảm của đồng bào tôn giáo đối với chính quyền. Từ đó kích động gây rối, làm mất ổn định chính trị-xã hội, gây mất đoàn kết lương-giáo, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc...

Để thực hiện âm mưu này, một số tổ chức quốc tế không có thiện chí với Việt Nam đã triệt để lợi dụng vấn đề tôn giáo, can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Có thể kể đến Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF), ngày 12/12/2024 vừa qua đã “bày tỏ quan ngại trước sự gia tăng đàn áp của chính quyền Việt Nam đối với các nhóm tôn giáo độc lập - bao gồm nhóm Phật giáo Khmer Krom, Tin lành người Thượng, Cao Đài Chơn truyền và nhiều tín đồ khác”. Đồng thời, ủy ban này đề nghị Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa Việt Nam vào danh sách cần quan tâm đặc biệt (CPC).

Trước đó, ngày 1/5/2024, USCIRF cũng đã công bố cái gọi là “Báo cáo tự do tôn giáo năm 2024” với những thông tin phiến diện, sai lệch về tình hình tôn giáo ở Việt Nam. Mới đây, trong bài viết có tiêu đề “Nhiều tổ chức nhân quyền phản đối Việt Nam tái ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc” đăng tải trên trang tin RFA Tiếng Việt, dù đưa ra một tiêu đề vô cùng kêu nhưng nội dung bài viết lại không hề có số liệu hay minh chứng cụ thể nào, đối với tổ chức quốc tế cũng chỉ là phỏng vấn một người được cho là thành viên của tổ chức Liên minh Thế giới vì Sự tham gia của Công dân (CIVICUS) nhưng cũng chỉ nêu ra những quan ngại chung chung…

Hay Tổ chức phi chính phủ International Christian Concern (ICC - trụ sở tại Hoa Kỳ) ngày 7/8/2024 đã đưa ra những cáo buộc vô căn cứ về tình trạng đàn áp tôn giáo và vi phạm nhân quyền tại Việt Nam, đặc biệt là cáo buộc về việc giam giữ “tù nhân Công giáo”. Hay Hội nghị Thượng đỉnh Tự do tôn giáo quốc tế (IRF-hội nghị thường niên của các tổ chức xã hội dân sự) tổ chức ngày 30-31/1/2024 tại thủ đô Washington, Hoa Kỳ, hàng chục cá nhân tự xưng là “nhà hoạt động vì tự do tôn giáo cho Việt Nam” đã tranh thủ tiếp cận, vận động hành lang đối với các nhà lập pháp, hành pháp và các tổ chức quốc tế hòng gây sức ép đến chính quyền Việt Nam.

Được biết, người khởi xướng Hội nghị Thượng đỉnh Tự do tôn giáo quốc tế IRF không phải là một nhà lãnh đạo tôn giáo mà là Chris Seiple - thành viên cấp cao của Viện Nghiên cứu Chính sách đối ngoại. Dù có khẩu hiệu về bảo đảm quyền tự do tôn giáo nhưng Hội nghị trên đã làm dấy lên những hoài nghi về mưu đồ chính trị phía sau mục đích làm công cụ chính trị nhắm vào các quốc gia bị Mỹ và các nước phương Tây đang bao vây, cấm vận, phong tỏa hoặc gây áp lực chính trị, tức là mục tiêu “quốc tế hóa”, “chính trị hóa” vấn đề tôn giáo.

Như vậy, các thế lực thù địch, phản động trong mọi hoàn cảnh, điều kiện vẫn luôn tìm cách lợi dụng “ngòi nổ” tín ngưỡng, tôn giáo để kích động mâu thuẫn giữa các tôn giáo với nhau, giữa người theo đạo và người không theo đạo, giữa các tôn giáo với chính quyền các cấp, từ đó gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tiến tới can thiệp vào công việc nội bộ, chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam, gây tổn hại đến công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay.

Luận điệu xuyên tạc, hạ uy tín khi Việt Nam tiếp tục ứng cử Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2026 – 2028

 Luận điệu xuyên tạc, hạ uy tín khi Việt Nam tiếp tục ứng cử Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2026 – 2028 -0Sự kiện được tổ chức vào dịp kỷ niệm Ngày Nhân quyền quốc tế đã thu hút sự quan tâm, tham dự của đông đảo đại sứ, đại diện các phái đoàn thường trực và quan sát viên tại LHQ. Việc tiếp tục ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2026 – 2028 khẳng định vị thế và uy tín của Việt Nam đối với quốc tế, cũng như sự ghi nhận đối với thành tựu và đóng góp của Việt Nam trong đảm bảo quyền con người.

Những luận điệu xuyên tạc, vu cáo

Tuy nhiên, ngay sau tuyên bố của đại diện Việt Nam, các phương tiện truyền thông, mạng xã hội của các tổ chức thù địch, phản động lưu vong đã tung ra nhiều bài viết công kích, xuyên tạc, vu cáo tình hình nhân quyền Việt Nam. Đồng thời, họ kêu gọi sự can thiệp của các tổ chức quốc tế nhằm gây sức ép, cản trở Việt Nam ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2026-2028.

Nếu như đọc qua bài viết trên trang RFA Tiếng Việt với tiêu đề  “Nhiều tổ chức nhân quyền phản đối Việt Nam tái ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ”, nhiều người sẽ lầm tưởng về việc có nhiều tổ chức quốc tế lên tiếng đối với vấn đề này. Tuy nhiên, trong nội dung bài viết chỉ nêu ý kiến của duy nhất một thành viên thuộc tổ chức Liên minh xã hội dân sự toàn cầu (Civicus) với vài thông tin sơ sài cũng như thêm thắt một số thông tin xuyên tạc có chủ đích nhằm hạ thấp uy tín của Việt Nam. Tổ chức Civicus cũng là cái tên quen thuộc thường xuyên có hoạt động xuyên tạc, vu cáo Việt Nam về tình hình nhân quyền. Như vậy, không hề có chuyện “nhiều tổ chức nhân quyền phản đối” mà chỉ là một số tổ chức, nhóm cá nhân có hoạt động chống phá Việt Nam đã lợi dụng việc này để “té nước theo mưa”.

Ngoài ra, VOA Tiếng Việt dẫn nguồn tin từ tổ chức Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF) về việc tổ chức này “bày tỏ quan ngại trước sự gia tăng đàn áp của chính quyền Việt Nam đối với các nhóm tôn giáo độc lập”. Tuy nhiên, nội dung bài viết đều là những thông tin, căn cứ mơ hồ, nội dung phản ánh sai trái như cho rằng Việt Nam có phân biệt đối xử của xã hội đối với người dân tộc thiểu số, vu cáo chính quyền hành hung người dân tộc thiểu số theo tôn giáo ở Tây Nguyên và Tây Bắc, bày tỏ quan ngại về việc người dân tộc thiểu số theo đạo Tin lành ở Tây Nguyên bị hạn chế hoạt động, áp dụng luật pháp không nhất quán dẫn tới nhiều khó khăn trong việc đăng ký với chính quyền cấp tỉnh của các giáo xứ vùng sâu, vùng xa. Điều đáng nói là những thông tin trên lại xuất phát từ một số phần tử chống đối trong nước tích cực tham gia hội luận trực tuyến do bên ngoài tổ chức, số này xuyên tạc rằng “chính quyền Việt Nam cướp đất của người Khmer, đàn áp người dân tộc”… Những thông tin bịa đặt như vậy nhưng lại được đưa vào báo cáo nhân quyền, tạo cớ chống Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Tổ chức khủng bố Việt Tân thì rêu rao về các cuộc biểu tình của người Việt tại một số quốc gia như Na Uy, Đức, Úc, Canada… để vu cáo Việt Nam “đàn áp nhân quyền”. Các đối tượng lồng ghép những biểu ngữ sai sự thật về tình hình nhân quyền tại Việt Nam, vu cáo “dưới chế độ độc tài, người dân Việt Nam không có dân chủ, tự do” và cho rằng chính quyền Việt Nam đang thực hiện những hành vi đàn áp đối với những người bất đồng chính kiến; miệt thị, xuyên tạc Việt Nam “bịt miệng” quyền tự do báo chí và quyền tự do ngôn luận. Tuy nhiên, nhìn những hình ảnh được chính tổ chức này lan truyền trên mạng xã hội, không khó để thấy những cuộc biểu tình trên thực chất chỉ là sự tập trung của một nhóm nhỏ với những gương mặt chống đối quen thuộc, hoàn toàn không có chuyện “biểu tình rầm rộ” như thông tin họ đưa ra.

Có thể thấy, dựa vào các thông tin sai lệch về tình hình tự do tôn giáo, dân tộc và tình hình nhân quyền do một số phần tử phản động ở trong nước, một số tổ chức phi chính phủ không thiện chí với Việt Nam, tổ chức phản động lưu vong chống phá Việt Nam như Liên minh xã hội dân sự toàn cầu (Civicus); Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF), Mạng lưới nhân quyền Việt Nam (VHRN)…, trong đó có nhiều thông tin phiến diện, xuyên tạc tình hình nhân quyền ở Việt Nam. Dựa vào đó, các thế lực thù địch kêu gọi sự can thiệp của các quốc gia phương Tây nhằm đòi Chính phủ Việt Nam phải trả tự do cho tất cả những phạm nhân mà họ tự gọi là “tù nhân lương tâm”…

Đây không phải chiêu trò gì mới khi các tổ chức trên đưa những thông tin xuyên tạc, vu cáo về tình hình nhân quyền cũng như kêu gọi sự can thiệp của quốc tế nhằm chống phá Việt Nam ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ. Khi Việt Nam tuyên bố ứng cử nhiệm kỳ 2023 - 2025, các thành phần chống phá Việt Nam cũng đã dùng mọi thủ đoạn tuyên truyền xuyên tạc, hạ uy tín, cản trở Việt Nam. Dưới chiêu bài bảo vệ dân chủ, nhân quyền, các tổ chức này ra sức vận động nhằm gây sức ép lên Chính phủ Hoa Kỳ đưa Việt Nam vào danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo (CPC), sau đó Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã đưa Việt Nam vào danh sách theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo (SWL). Với chiêu trò này, họ tìm cách hạ uy tín, vị thế của Việt Nam đối với quốc tế cũng như khuếch trương thanh thế và kích động số chống đối ở trong nước tiến hành các hoạt động tụ tập, gây rối, bạo loạn lật đổ.

Chiêu trò vu cáo không thể phủ mờ thành tựu, vị thế của Việt Nam

Nhân quyền là vấn đề mang tính phổ quát của toàn cầu. Tuy nhiên, với mỗi quốc gia, dân tộc, tuỳ theo đặc điểm văn hoá, lịch sử đều có những tiêu chuẩn, quy định riêng. Việc áp đặt tiêu chí của nước này vào nước khác là không phù hợp và đó cũng là hành vi can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác, không đúng với quy định của LHQ. Trên thực tế, Việt Nam đã thể hiện bằng những hành động cụ thể thực thi quyền con người theo những Công ước mà Việt Nam đã ký kết. Cụ thể như: Bộ luật Hình sự năm 2015 tiếp tục bỏ án tử hình ở 8 tội danh; không áp dụng hình phạt tử hình với người dưới 18 tuổi, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội. Tính đến nay, Việt Nam đã phê chuẩn, gia nhập 7/9 công ước cơ bản của LHQ về quyền con người; phê chuẩn, gia nhập 25 công ước của Tổ chức Lao động quốc tế. So với nhiều nước, Việt Nam không thua kém về số lượng các công ước đã ký kết.

Từ khi Hội đồng Nhân quyền LHQ được thành lập (năm 2006), Việt Nam hai lần trúng cử vào Hội đồng này: Năm 2013, lần đầu tiên trúng cử nhiệm kỳ 2014-2016; năm 2022 trúng cử nhiệm kỳ 2023 - 2025 và đang tái ứng cử nhiệm kỳ 2026-2028 để tiếp nối những đóng góp và cam kết. Đồng thời, Việt Nam là thành viên tích cực của các thể chế nhân quyền LHQ và thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các cam kết quốc tế về quyền con người. Với tư cách là quốc gia thành viên, Việt Nam đã nội luật hóa các quy định của pháp luật quốc tế vào hệ thống pháp luật quốc gia; rà soát kết quả thực hiện và báo cáo định kỳ nghiêm túc với Hội đồng Nhân quyền LHQ.

Trong nhiệm kỳ 2023-2025, Việt Nam cùng 13 quốc gia khác đảm nhiệm vị trí thành viên của Hội đồng Nhân quyền. Trong vai trò thành viên Hội đồng Nhân quyền, Việt Nam đã thể hiện cam kết mạnh mẽ thông qua các hoạt động thực chất. Tại các diễn đàn quốc tế, Việt Nam tích cực tham gia đối thoại, thúc đẩy hợp tác giữa các quốc gia trong việc bảo đảm quyền con người. Chẳng hạn, Việt Nam đã nhiều lần phát biểu và góp ý về các vấn đề toàn cầu như bảo vệ quyền trẻ em, thúc đẩy bình đẳng giới và ứng phó với biến đổi khí hậu – những lĩnh vực có tác động trực tiếp đến quyền sống và phát triển của con người. Không chỉ dừng lại ở các diễn đàn quốc tế, trong nước, Việt Nam cũng triển khai nhiều chương trình, chính sách nhằm hiện thực hóa các cam kết về quyền con người. Đồng thời, Việt Nam đã được quốc tế ghi nhận khi có cách tiếp cận xây dựng trong thúc đẩy đối thoại trong khuôn khổ Hội đồng Nhân quyền giữa các nước liên quan, các tổ chức khu vực và các cơ chế của LHQ về quyền con người nhằm giải quyết những quan tâm cụ thể về các vấn đề liên quan đến nhân quyền, nhân đạo; gắn với việc phối hợp với các nước đang phát triển đấu tranh để bảo đảm Hội đồng Nhân quyền hoạt động đúng nguyên tắc, thủ tục, không chính trị hóa, không can thiệp vào công việc nội bộ các nước.

Tại khu vực, uy tín của Việt Nam được thể hiện qua vai trò Chủ tịch Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) 2020, đồng thời là Chủ tịch Ủy ban liên chính phủ ASEAN về nhân quyền (AICHR).

Năm 2024, một trong những thành tựu nổi bật là các chính sách an sinh xã hội được thực hiện một cách hiệu quả, đặc biệt hướng đến các nhóm yếu thế. Các chương trình hỗ trợ sinh kế cho đồng bào dân tộc thiểu số tại vùng sâu, vùng xa đã góp phần giảm nghèo bền vững, trong khi các sáng kiến thúc đẩy giáo dục hòa nhập dành cho trẻ em khuyết tật được triển khai rộng rãi. Ngoài ra, việc cải cách Luật Lao động nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động trong các ngành công nghiệp đã giúp Việt Nam cải thiện điều kiện làm việc và nâng cao mức sống cho hàng triệu người lao động. Theo Báo cáo Phát triển con người của UNDP, Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam năm 2024 tăng 8 bậc so với kỳ trước, từ 115 lên vị trí 107/193 quốc gia. Theo xếp hạng của LHQ, chỉ số hạnh phúc năm 2024 của Việt Nam tăng 11 bậc, xếp thứ 54/143; chỉ số phát triển bền vững (SDGs) của Việt Nam năm 2024 tăng 1 bậc so với năm 2023, xếp thứ 54/166. Việt Nam hiện là thành viên và tích cực tham gia các hoạt động của Hội đồng Nhân quyền LHQ, nhiệm kỳ 2023-2025. Bởi vậy, không có gì ngạc nhiên khi Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia tiến nhanh nhất trên thế giới về tăng Chỉ số phát triển con người (HDI). Chỉ trong vòng 1 thập kỷ, chỉ số phát triển con người của Việt Nam đã tăng 46%, thuộc nhóm quốc gia có tỷ lệ tăng cao nhất thế giới. Theo các tổ chức và chuyên gia quốc tế, đây là minh chứng cho thấy Việt Nam luôn đặt con người là mục tiêu, động lực cho sự phát triển.

Nhận diện âm mưu, thủ đoạn đòi phi chính trị hóa lực lượng vũ trang trong tình hình hiện nay

 Đây chính là chiêu bài quen thuộc mà các thế lực thù địch, phản động thường áp đặt, tạo tiền đề cơ bản thực hiện ý đồ gây bạo loạn, lật đổ. Đối với Việt Nam, mục tiêu xuyên suốt của các thế lực thù địch là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, thay đổi chế độ chính trị tại Việt Nam. Chúng xác định, muốn Đảng suy yếu vai trò lãnh đạo thì cần phải tước bỏ sức mạnh của Đảng, tước bỏ công cụ chuyên chính của Đảng, đó chính là lực lượng Công an và Quân đội.

Do đó, trong giai đoạn hiện nay, chúng đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền chống phá, trong đó tìm cách lợi dụng xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, các vấn đề nhạy cảm về chính trị, kinh tế, xã hội, công cuộc phòng, chống tham nhũng của Đảng… để tuyên truyền xuyên tạc, thực hiện âm mưu phi chính trị hóa lực lượng vũ trang.

Thực chất hoạt động này là nhằm vô hiệu hóa sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với Công an và Quân đội, làm cho hai lực lượng trọng yếu này không còn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay khi đất nước ta tăng cường hội nhập quốc tế sâu rộng, Đảng ta đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, xây dựng Công an, Quân đội ngày càng chính quy, tinh nhuệ, hiện đại thì các thế lực thù địch, số chống đối chính trị càng ráo riết tìm mọi cách thúc đẩy ý đồ đòi phi chính trị hóa lực lượng vũ trang với những phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt.

Cụ thể:

Các đối tượng thù địch, phản động thông qua các phương tiện truyền thông, mạng xã hội tuyên truyền phá hoại nền tảng tư tưởng, làm suy giảm lòng tin, phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của lực lượng vũ trang bằng cách triệt để khai thác những biểu hiện tiêu cực trong nội bộ, ngụy tạo chứng cứ, bồi bút xuyên tạc, “tát bùn sang ao” nhằm bôi nhọ truyền thống, bản chất cách mạng lực lượng vũ trang. Kích thích, cổ xúy những xu hướng tư tưởng sai trái, những hành vi phi đạo đức, lối sống lệch chuẩn, xa hoa, lãng phí trong chiến sĩ trẻ lực lượng vũ trang nhân dân. Đây là thủ đoạn phổ biến nhằm tập trung phá hoại bản chất, truyền thống, những giá trị đạo đức, lối sống tốt đẹp của Quân đội, Công an, làm cơ sở cho việc thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hướng tới làm biến chất lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam ngay từ bên trong.

Các thế lực thù địch lợi dụng xu thế toàn cầu hóa để tăng cường tuyên truyền, tác động tư tưởng, đạo đức, tư duy, lối sống lệch chuẩn vào đời sống tinh thần của lực lượng vũ trang nhân dân, đẩy mạnh “cuộc xâm lăng về văn hóa” vào nhận thức của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang. Thông qua các mối quan hệ hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị, quân sự, khoa học kỹ thuật, phòng, chống khủng bố, buôn người… để truyền bá, thâm nhập quan điểm dân chủ tư sản kết hợp mua chuộc bằng lợi ích vật chất, đẩy mạnh tuyên truyền lối sống thực dụng, làm cho một bộ phận cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang tự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng, biến chất về chính trị. Thủ đoạn này được các thế lực thù địch triệt để khai thác dưới nhiều hình thức, vỏ bọc khác nhau.

Thời gian gần đây, để đánh lạc hướng, các thế lực thù địch thông qua “tâm thư”, “thư ngỏ”, “kiến nghị” đòi “duy trì tính trung lập về chính trị” nhưng thực chất là đòi phi chính trị hóa lực lượng Quân đội và Công an. Chúng cho rằng hai lực lượng này cần phải thực hiện “tính trung lập về chính trị”, tức là “đứng ngoài chính trị”, “không can dự” vào các cuộc đấu tranh của các lực lượng chính trị”; “là con em của nhân dân, các lực lượng vũ trang được nhân dân nuôi dưỡng thì chỉ vì nhân dân là đủ”. Chúng ngụy biện rằng, Quân đội có nhiệm vụ hiến định là quốc phòng, tức là bảo vệ Tổ quốc trước ngoại xâm, cần chấm dứt ngay việc huy động Quân đội vào thực hiện nhiệm vụ phục vụ, bảo vệ Đảng; vu cáo việc Công an thực hiện một số nhiệm vụ như cưỡng chế giải phóng mặt bằng là “đàn áp dân”, “đối đầu với dân”…

Việc nêu ra quan điểm “tính trung lập về chính trị” của Quân đội và Công an đã cho thấy mục đích, bản chất phi khoa học, phi thực tiễn khi cố tình lèo lái việc “trung lập về chính trị” là đứng ngoài các lực lượng, đảng phái, các hoạt động chính trị, không tham gia đấu tranh chính trị... Qua đó hướng lái bản chất chính trị của các lực lượng vũ trang nhân dân sang lập trường, bản chất chính trị khác. Như vậy, thuật ngữ có sự thay đổi nhưng âm mưu, ý đồ không thay đổi, “trung lập hóa về chính trị” chỉ là một cách diễn đạt khác của phi chính trị hóa lực lượng vũ trang nhằm tước bỏ công cụ chuyên chính trọng yếu, tin cậy, tuyệt đối trung thành của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Công ước Hà Nội khẳng định vị thế, uy tín của Việt Nam trong bảo đảm quyền con người trên không gian mạng

 Công ước Hà Nội khẳng định vị thế, uy tín của Việt Nam trong bảo đảm quyền con người trên không gian mạng -0Đặc biệt, theo Điều 64 của Công ước, văn kiện này sẽ được mở ký tại Thủ đô Hà Nội trong năm 2025 và mang tên gọi "Công ước Hà Nội". Đây là sự kiện không chỉ thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế mà còn khẳng định vai trò ngày càng nổi bật, quan trọng cũng như uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Đồng thời là bằng chứng sinh động tiếp tục bác bỏ luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động vu cáo Việt Nam không có dân chủ, nhân quyền.

Những đóng góp của Việt Nam vào các hoạt động thúc đẩy hoà bình, an ninh và phát triển của toàn cầu

Ngày 20/9/1977, Việt Nam chính thức gia nhập LHQ, đây là một mốc son lịch sử đánh dấu sự ghi nhận của tổ chức toàn cầu lớn nhất hành tinh và cộng đồng quốc tế đối với một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, tự do và dân chủ. Trong suốt chặng đường 48 năm là thành viên của LHQ, Việt Nam từ một nước nhỏ vừa thoát khỏi chiến tranh, đói nghèo, lạc hậu đã vươn lên trở thành một trong những quốc gia đi đầu trong việc thực hiện các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ mà LHQ đề ra; mối quan hệ giữa Việt Nam với LHQ không ngừng được củng cố, phát triển và Việt Nam luôn nỗ lực là một thành viên tin cậy, chủ động, có trách nhiệm của LHQ, nổi bật là những đóng góp to lớn vì mục tiêu duy trì hòa bình và an ninh quốc tế

Ngay sau khi gia nhập LHQ, Việt Nam đã tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ của các nước thành viên, các tổ chức quốc tế, viện trợ, giúp đỡ Việt Nam tái thiết sau chiến tranh, phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và Việt Nam đã sớm trở thành một trong những quốc gia hoàn thành các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) của LHQ.

Bên cạnh  đó, Việt Nam đã tích cực, chủ động tham gia một cách có trách nhiệm nhằm hiện thực hóa các mục tiêu của LHQ, trong đó nổi bật là việc đóng góp, xây dựng mục tiêu duy trì hòa bình và an ninh quốc tế của LHQ: Việt Nam tích cực tham gia đàm phán và là một trong những nước đầu tiên ký Hiệp ước cấm thử hạt nhân toàn diện (CTBT), tham gia và trở thành thành viên của Hội nghị Giải trừ quân bị (CD), Việt Nam tích cực thương lượng và trở thành thành viên chính thức của Công ước cấm vũ khí hóa học (CWC).

Ngoài ra, Việt Nam đã phê chuẩn và thực thi nhiều công ước quốc tế về nhân quyền như Công ước chống tra tấn (CAT) và Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị (ICCPR); đồng thời chủ động đưa ra các kiến nghị về việc cải thiện cơ chế giám sát và xử lý tội ác chống lại loài người. Những cải tiến này không chỉ dừng lại ở cấp quốc tế mà còn được Việt Nam áp dụng vào hệ thống pháp luật trong nước, như việc sửa đổi Bộ luật Hình sự để phù hợp với các chuẩn mực quốc tế…

Là một quốc gia từng chịu nhiều tổn thất nặng nề từ chiến tranh, Việt Nam hiểu rõ hơn ai hết giá trị của hòa bình và nhân quyền. Từ kinh nghiệm lịch sử, Việt Nam đã biến đau thương thành động lực để đóng góp tích cực vào các nỗ lực quốc tế nhằm đấu tranh chống lại các tội ác chống lại loài người.

Vai trò của Việt Nam không chỉ giới hạn ở việc tham gia, mà còn chủ động thúc đẩy hợp tác, sáng kiến và cải tiến các cơ chế pháp lý toàn cầu. Đặc biệt, Việt Nam đã hai lần được bầu làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ, nhiệm kỳ 2008-2009 và 2020-2021. Trong suốt nhiệm kỳ của mình, Việt Nam đã tích cực thúc đẩy các nỗ lực ngoại giao, đối thoại, tìm kiếm giải pháp hòa bình cho các xung đột quốc tế. Với vai trò này, Việt Nam đã đưa ra nhiều sáng kiến quan trọng như việc thúc đẩy các nghị quyết về bảo vệ dân thường trong xung đột, ứng phó với hậu quả của chiến tranh và biến đổi khí hậu.

Bên cạnh đó, Việt Nam còn được bầu vào Hội đồng Nhân quyền, Hội đồng Kinh tế - Xã hội (ECOSOC) và nhiều cơ chế quan trọng khác của LHQ. Những đóng góp tích cực của Việt Nam vào các cơ chế này đã giúp nâng cao vị thế của quốc gia trên trường quốc tế, đồng thời khẳng định cam kết của Việt Nam trong việc bảo vệ và thúc đẩy các giá trị nhân quyền, bình đẳng giới, và phát triển bền vững.

Từ khi Hội đồng Nhân quyền LHQ được thành lập (năm 2006), Việt Nam hai lần trúng cử vào Hội đồng này: Năm 2013, lần đầu tiên trúng cử nhiệm kỳ 2014-2016; năm 2022 trúng cử nhiệm kỳ 2023 - 2025 và đang tái ứng cử nhiệm kỳ 2026-2028 để tiếp nối những đóng góp và cam kết. Đồng thời, Việt Nam đã được quốc tế ghi nhận khi có cách tiếp cận xây dựng trong thúc đẩy đối thoại trong khuôn khổ Hội đồng Nhân quyền giữa các nước liên quan, các tổ chức khu vực và các cơ chế của LHQ về quyền con người nhằm giải quyết những quan tâm cụ thể về các vấn đề liên quan đến nhân quyền, nhân đạo; gắn với việc phối hợp với các nước đang phát triển đấu tranh để bảo đảm Hội đồng Nhân quyền hoạt động đúng nguyên tắc, thủ tục, không chính trị hóa, không can thiệp vào công việc nội bộ các nước.

Với những đóng góp của mình, Việt Nam đã được tín nhiệm bầu vào nhiều vị trí, cơ quan quan trọng của LHQ và ghi được nhiều "dấu ấn" Việt Nam tại các cơ quan như: thành viên Hội đồng Thống đốc cơ quan Năng lượng Nguyên tử quốc tế (IAEA) 2021-2023, Hội đồng khai thác Liên minh Bưu chính Thế giới (UPU) nhiệm kỳ 2022-2025, Phó Chủ tịch Đại hội đồng LHQ Khóa 77 (9/2022-9/2023); các cơ quan điều hành và chuyên môn của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa (UNESCO) như: Hội đồng Chấp hành UNESCO 2021-2025, Ủy ban liên chính phủ về bảo vệ và phát huy sự đa dạng của biểu đạt văn hóa 2021-2025, Ủy ban liên chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể 2022-2026; Ủy ban Luật pháp quốc tế (ILC) 2023-2027; Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025; Ủy ban pháp lý và kỹ thuật của Cơ quan quyền lực đáy đại dương (LTC) nhiệm kỳ 2023-2027.

Với những thành tựu nổi bật và đóng góp tích cực trong suốt 48 năm qua, Việt Nam đã khẳng định vai trò của mình là một thành viên trách nhiệm và tích cực của LHQ. Hiện tại và tương lai, Việt Nam sẽ tiếp tục đóng góp vào việc giải quyết các thách thức mới nổi lên như tội phạm mạng và bảo đảm quyền con người trên không gian mạng. Qua đó, thúc đẩy hoà bình, an ninh và phát triển của toàn cầu.

Công ước Hà Nội khẳng định vị thế và vai trò của Việt Nam trong đảm bảo quyền con người trên không gian mạng

Với sự bùng nổ của khoa học công nghệ, không gian mạng đang trở thành môi trường thuận lợi cho các băng nhóm tội phạm móc nối với nhau, tạo thành những mạng lưới tội phạm lớn, hoạt động xuyên quốc gia. Chúng triệt để lợi dụng tính ẩn danh, tạo lập, sử dụng các trang mạng có máy chủ ở nước ngoài, nhất là các mạng xã hội có sự phát triển nhanh, bảo mật hơn như Telegram, Viber, TikTok, Instagram, Twitter...; sử dụng các tài khoản cá nhân nặc danh, ẩn danh, chiếm đoạt được của người khác, tài khoản giả mạo, lập các trang, nhóm mạng xã hội ẩn thông tin quản trị để lừa đảo, chiếm đoạt tài sản.

Tội phạm xuyên quốc gia, nhất là tội phạm mạng hiện nay đang là vấn đề chung của quốc tế và không một quốc gia đơn lẻ nào có thể tự mình giải quyết được vấn đề này. Do đó, hợp tác giữa các nước trong phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia đóng vai trò hết sức quan trọng. Với nguyên tắc "không đi sau tội phạm, không để tội phạm lộng hành", Việt Nam đã và đang nỗ lực, kiên quyết, kiên trì, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm, nhất là tội phạm mạng trong thời đại số hiện nay.

Sự ra đời của Công ước Hà Nội đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong hơn hai thập niên, khi lần đầu tiên một văn kiện quốc tế về tội phạm xuyên quốc gia được thông qua. Văn kiện này không chỉ thể hiện quyết tâm của cộng đồng quốc tế trong việc đối phó với những thách thức ngày càng phức tạp từ không gian mạng mà còn khẳng định, sự đoàn kết và hợp tác là chìa khóa để đảm bảo an ninh mạng toàn cầu. Công ước gồm 9 chương, 71 điều là kết quả của gần 4 năm thương lượng liên tục và kéo dài (2021-2024) giữa các quốc gia thành viên nhằm xây dựng một khuôn khổ pháp lý đa phương toàn diện để đấu tranh với loại tội phạm nguy hiểm này. Đánh giá về vai trò của Công ước Hà Nội, nhất là trong đảm bảo quyền con người trên không gian mạng, Chủ tịch Đại hội đồng LHQ Philémon Yang coi đây là một công cụ mới để bảo vệ con người trong một thế giới nơi công nghệ thông tin và không gian số cho thấy tiềm năng to lớn nhưng cũng tiềm ẩn nhiều mối đe dọa.

Bà Ghada Waly, Giám đốc điều hành Văn phòng LHQ về chống ma túy và tội phạm (UNODC) đánh giá, việc thông qua Công ước Hà Nội là một chiến thắng hết sức ý nghĩa của chủ nghĩa đa phương, đồng thời là bước tiến quan trọng trong nỗ lực của cộng đồng quốc tế hướng tới việc xử lý các hành vi phạm tội trên không gian mạng như lạm dụng tình dục trẻ em, lừa đảo trực tuyến hay rửa tiền… Cùng ngày, Tổ chức Cảnh sát quốc tế (Interpol) cũng đánh giá cao việc Đại hội đồng LHQ thông qua Công ước Hà Nội là một dấu mốc quan trọng trong cuộc chiến chống lại các mối đe dọa từ tội phạm mạng.

Lật tẩy âm mưu cổ xúy thuyết “vũ khí luận” nhằm chống phá Quân đội - Bài 2: Tỉnh táo trước âm mưu lợi dụng thuyết “vũ khí luận” để chống phá Quân đội (Tiếp theo và hết)

 

Lật tẩy âm mưu cổ xúy thuyết “vũ khí luận” nhằm chống phá Quân đội - Bài 2: Tỉnh táo trước âm mưu lợi dụng thuyết “vũ khí luận” để chống phá Quân đội (Tiếp theo và hết)

Sự phản khoa học của những luận điệu xuyên tạc

Thứ nhất, các đối tượng chống phá ráo riết tuyên truyền, khuếch trương sức mạnh quyết định thắng lợi của mọi cuộc chiến là vũ khí bằng cách đưa những thông tin, hình ảnh về vũ khí tối tân, hiện đại tán phát trên các website, Facebook, YouTube... Từ đó, họ “khuyến nghị” rằng Quân đội nhân dân Việt Nam cần chi tiền mua thật nhiều vũ khí, khí tài hiện đại nhất mới có đủ sức bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới và đối phó hiệu quả với chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao của đối phương.

Luận điệu trên hoàn toàn sai lầm, bởi vì nếu không giải quyết tốt yếu tố chính trị tinh thần của Quân đội thì chắc chắn sẽ tác động đến hiệu quả sử dụng vũ khí. Mặt khác, nếu rơi vào vòng xoáy mua sắm vũ khí hàng loạt với chi phí khổng lồ sẽ gây hao tổn nền kinh tế, ảnh hưởng đến đời sống nhân dân. Trong Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân ngày 22-12-1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh nêu rõ tính chất, nhiệm vụ của Đội là “chính trị trọng hơn quân sự”. Tư tưởng đó của Người thống nhất với quan điểm của Đảng ta, trở thành đường lối, nguyên tắc chỉ đạo, phương châm hành động xây dựng QĐND Việt Nam vững mạnh về mọi mặt, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và chiến thắng.

Thứ hai, một số đối tượng lại xuyên tạc rằng, thực hiện mục tiêu xây dựng QĐND Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng tiến thẳng lên hiện đại của Đảng cũng là biểu hiện chạy theo quan điểm “vũ khí luận” bởi vì muốn hiện đại thì phải chi tiêu quá nhiều tiền cho mua sắm, đầu tư vũ khí, khí tài tối tân.

Luận điệu này rất phản khoa học bởi lẽ để xây dựng LLVT nhân dân vững mạnh, cần phải phát huy sức mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố, trong đó Đảng, Nhà nước quan tâm đầu tư cho Quân đội mua sắm những vũ khí, trang bị hiện đại để nâng cao sức mạnh chiến đấu, nhưng yếu tố quyết định vẫn là chăm lo giáo dục, đào tạo, rèn luyện con người có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân, làm chủ vũ khí trước mọi khó khăn để đủ sức đương đầu với kẻ thù khi có chiến tranh xảy ra nhằm bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân. 

Mặt khác, Đảng, Nhà nước ta lãnh đạo, chỉ đạo công tác đầu tư, mua sắm vũ khí, trang bị phù hợp với mỗi thời kỳ phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Đây không phải là quan điểm “vũ khí luận”, càng không phải là nước ta tham gia chạy đua vũ trang như một số ý kiến rêu rao, bịa đặt.

Thứ ba, một số ý kiến cũng xuyên tạc rằng, trong tương lai, nếu có chiến tranh xảy ra, với sức mạnh quân sự vượt trội của đối phương, QĐND Việt Nam sẽ không đủ sức đánh trả kẻ thù.

Luận điệu này hết sức nguy hiểm, là biểu hiện của âm mưu chiến lược “diễn biến hòa bình”, hòng làm nhụt ý chí chiến đấu, quyết tâm bảo vệ Tổ quốc của cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta. Mục đích sâu xa hơn là làm suy giảm lòng tin của quân và dân ta vào vai trò lãnh đạo của Đảng, mơ hồ về truyền thống lịch sử dân tộc.

Vạch trần luận điệu xuyên tạc, phủ nhận truyền thống và những cống hiến, hy sinh của Quân đội nhân dân Việt Nam

 

Vạch trần luận điệu xuyên tạc, phủ nhận truyền thống và những cống hiến, hy sinh của Quân đội nhân dân Việt Nam

Trắng trợn xuyên tạc với mưu đồ chính trị đen tối

Thời gian qua, thực hiện chống phá cách mạng Việt Nam bằng “diễn biến hòa bình” và âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội, các thế lực thù địch tập trung xuyên tạc những giá trị lịch sử, truyền thống tốt đẹp của QĐND Việt Nam, nhất là phủ nhận những chiến thắng của Quân đội dưới sự lãnh đạo của Đảng, xuyên tạc về lòng trung thành của Quân đội với Đảng, Nhà nước và nhân dân; xuyên tạc mối quan hệ đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân, đoàn kết quốc tế của Quân đội với những lời lẽ hết sức phản động, phản khoa học hòng làm phai mờ hình ảnh tốt đẹp của Bộ đội Cụ Hồ trong lòng nhân dân và bạn bè quốc tế, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Quân đội, chia rẽ mối quan hệ máu thịt giữa Quân đội với nhân dân, giữa Quân đội với Đảng và Nhà nước. 

Bằng những lời lẽ vô căn cứ, các thế lực thù địch bịa đặt với cái gọi là "luận bàn" nhiều vấn đề liên quan đến mục tiêu, lý tưởng, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội ta. Cùng với đó, các thế lực thù địch lợi dụng những thiếu sót, khuyết điểm của một số cán bộ, chiến sĩ trong quan hệ với nhân dân, ra sức kích động nhằm chia rẽ mối quan hệ giữa Quân đội với nhân dân; xuyên tạc về nghĩa vụ quốc tế vô sản cao cả của QĐND Việt Nam đối với cách mạng Lào và Campuchia trong thời kỳ chiến tranh giải phóng dân tộc, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trước đây...

Luôn xứng đáng là chỗ dựa vững chắc, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân

Có thể nói, những luận điệu nêu trên là sự xuyên tạc, bịa đặt một cách trắng trợn, vô căn cứ, vừa phi lý, vừa phản khoa học, bởi lẽ:

Thứ nhất, QĐND Việt Nam ra đời là thành quả tất yếu từ đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh. Được xây dựng trên cơ sở những nguyên lý xây dựng quân đội kiểu mới của Đảng, QĐND Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Đó là một quân đội từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Lịch sử cách mạng Việt Nam trong nhiều thập kỷ qua đã chứng minh, Quân đội ta không chỉ là công cụ, lực lượng chính trị tin cậy, trung thành của Đảng, Nhà nước mà còn là chỗ dựa vững chắc của nhân dân, của dân tộc.

Nhận thức đúng về cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy

 

Nhận thức đúng về cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy

Thời gian gần đây, thông tin về việc triển khai thực hiện chủ trương của Đảng, sắp xếp, cải cách tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hiệu quả trở thành chủ đề chính, nổi bật trên tất cả các loại hình, ấn phẩm báo chí-truyền thông. Chủ đề này cũng thu hút sự quan tâm chú ý đặc biệt của truyền thông quốc tế. Dư luận tiến bộ trên thế giới, đặc biệt là những quốc gia có mối quan hệ hợp tác, hữu nghị với Việt Nam đều đánh giá cao và kỳ vọng vào sự đột phá mạnh mẽ của Việt Nam trong lĩnh vực này. Nhiều chuyên gia, học giả quốc tế đã có những bài viết phân tích, đánh giá, bày tỏ tin tưởng vào quyết tâm mạnh mẽ của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong cải cách bộ máy. Trong hoạt động đối ngoại, khi tiếp xúc với nguyên thủ quốc gia và lãnh đạo cấp cao các nước, các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước ta cũng thông tin về chủ trương lớn này của Việt Nam, đồng thời nhận được sự quan tâm, tin tưởng của bạn bè quốc tế.

Thông qua hội nghị các cấp, các cuộc tiếp xúc cử tri, lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta cũng thông tin kịp thời, giải đáp thắc mắc, tiếp thu kiến nghị của cử tri về công tác sắp xếp, tinh gọn bộ máy và nhận được sự đồng tình, ủng hộ, thống nhất rất cao của đại bộ phận các tầng lớp nhân dân. Các hoạt động hội thảo, tọa đàm về chủ đề này cũng được tổ chức từ Trung ương đến địa phương. Giới chuyên gia, nhà lãnh đạo, nhà quản lý, cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân bày tỏ kỳ vọng lớn vào cuộc cách mạng mới của đất nước, đồng thời có nhiều hiến kế, đề xuất, kiến nghị có giá trị, sát thực tiễn, nhằm góp phần thực hiện thành công chủ trương lớn của Đảng.

Có thể nói, cuộc cách mạng về cải cách tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị của đất nước đã và đang nhận được sự quan tâm to lớn của nhân dân và dư luận quốc tế. Sự đồng thuận, kỳ vọng của nhân dân chính là cơ sở, nền tảng tinh thần vững chắc để Đảng, Nhà nước ta quyết tâm, quyết liệt thực hiện bằng được mục tiêu, yêu cầu đã đề ra. Trong bài viết với tựa đề “Tinh-gọn-mạnh-hiệu năng-hiệu lực-hiệu quả”, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: “... Để đạt được các mục tiêu chiến lược, không chỉ đòi hỏi những nỗ lực phi thường, những cố gắng vượt bậc, mà còn không cho phép chúng ta chậm trễ, lơi lỏng, thiếu chính xác, thiếu đồng bộ, thiếu nhịp nhàng trên từng bước đi; muốn vậy cần khẩn trương thực hiện cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị...”.

Sự khẳng định tính tất yếu và quyết tâm phải làm nhanh, làm đồng bộ, chính xác, hiệu quả các bước đi, lộ trình tinh gọn bộ máy của người lãnh đạo cao nhất Đảng ta cũng chính là quyết tâm chính trị to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Điều này khẳng định, Đảng, Nhà nước ta đã xác định đúng và trúng vấn đề. Tinh gọn bộ máy không chỉ là đòi hỏi tất yếu từ thực tiễn của đất nước mà còn là yêu cầu khách quan của xu thế thời đại. Việt Nam sẽ gặp nhiều rào cản, khó khăn, chậm trễ... trong hội nhập quốc tế nếu không quyết liệt tinh gọn bộ máy vốn đã và đang quá cồng kềnh hiện nay.

Thấy gì từ những luận điệu xuyên tạc, chống phá?

Cả trên phương diện lý luận và thực tiễn, việc cải cách để tinh gọn, bảo đảm cho bộ máy công quyền hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả là một đòi hỏi tất yếu. Đây là thời điểm chín muồi, hội tụ các yếu tố cần và đủ để chúng ta thực hiện cuộc cách mạng của thời đại mới, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, từ dấu mốc Đại hội XIV của Đảng.

Trong lúc hệ thống chính trị các cấp đang chủ động, nỗ lực triển khai các hình thức, giải pháp sắp xếp, tinh gọn bộ máy với tinh thần Trung ương nêu gương thì không gian mạng cũng liên tục xuất hiện các sản phẩm truyền thông mang tư tưởng thù địch, đi ngược lại chủ trương của Đảng, Nhà nước ta. Trên các nền tảng mạng xã hội như Facebook, YouTube... thời gian gần đây liên tục xuất hiện các bài viết, video clip của một số đối tượng phản động là người Việt Nam ở nước ngoài. Đây là những thành phần bất mãn với Tổ quốc, sống lưu vong, lợi dụng không gian mạng để tuyên truyền tư tưởng phản động, xuyên tạc chống phá Đảng, chống phá đất nước.

Bám vào những thông tin về cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy được đăng tải trên hệ thống báo chí, truyền thông trong nước, những đối tượng này vận dụng chiêu bài cắt ghép, xuyên tạc thông tin, “lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia” để lèo lái, lừa bịp dư luận. Thủ đoạn của chúng là “hóng hớt” thông tin từ mạng xã hội, lắp ghép vào thông tin, hình ảnh trên báo chí chính thống trong nước để nói phải thành trái, đổi trắng thay đen. Chúng móc nối với một số đối tượng cực đoan trong nước để thực hiện những cái gọi là “trao đổi”, “phỏng vấn” với những đối tượng tự xưng, tự phong là “học giả”, “chuyên gia” để phân tích, bình luận tình hình chính trị trong nước. Chúng bám vào thông tin về việc một số đồng chí nguyên là lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước bị xử lý kỷ luật, gán ghép thông tin này với lộ trình tinh gọn bộ máy để chụp mũ, quy kết chúng ta “thanh trừng nội bộ”...

Shaze Zalo Phòng, chống diễn biến hòa bình Thứ hai, 23/12/2024 - 16:48 Theo dõi Báo Quân đội nhân dân trênFollow on Google News Phản bác luận điệu xuyên tạc chủ trương, tinh gọn tổ chức bộ máy theo Nghị quyết 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII

 

Phản bác luận điệu xuyên tạc chủ trương, tinh gọn tổ chức bộ máy theo Nghị quyết 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII

Trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của đất nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thể hiện tư tưởng nhất quán, đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác cán bộ và cán bộ. Người luôn khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”, do vậy, “Công tác cán bộ phải có vai trò quyết định trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ vừa hồng vừa chuyên” [1].

Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ và cán bộ, Đảng ta đã luôn quan tâm đến công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ. Văn kiện Hội nghị lần thứ ba, Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Đảng ta đã xác định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”. Điều đó có nghĩa là, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt thì công tác cán bộ là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng, then chốt của then chốt.

Nhận thức rõ tầm quan trọng đặc biệt của công tác cán bộ, trong bất cứ giai đoạn cách mạng nào, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm đến đổi mới công tác cán bộ và kiểm soát thực thi quyền lực trong công tác cán bộ, đặc biệt coi trọng nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, tăng cường hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị; trong đó, công tác tổ chức bộ máy là then chốt của then chốt, quyết định to lớn đến sự phát triển của đất nước. Đây chính là một trong những yếu tố quan trọng nhất, quyết định nhất đưa Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành người cầm lái vĩ đại, người thuyền trưởng tài ba chèo lái đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua mọi ghềnh thác, gặt hái được những thắng lợi kỳ tích vẻ vang trên con đường vinh quang đi lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, từ khi đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), Đảng ta đã xác định nhiệm vụ quan trọng song hành cần làm ngay là kết hợp đổi mới cơ chế kinh tế đồng thời với đổi mới bộ máy quản lý Nhà nước. Trong suốt 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã nhiều lần ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết luận để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực hiệu quả, xây dựng cơ cấu đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực ngang tầm nhiệm vụ, biên chế tổ chức hợp lý, chuẩn hóa các vị trí chức danh cán bộ.

Những năm qua, chủ trương tinh giản biên chế và sắp xếp lại tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị ở nước ta đã được Đảng và Nhà nước triển khai đồng bộ, mạnh mẽ, được đa số cán bộ đảng viên đồng tình hưởng ứng và đạt được một số kết quả quan trọng, bước đầu tạo chuyển biến tích cực trong đổi mới. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tiến bộ đó, với quan điểm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá khách quan và toàn diện, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Nhận thấy rõ vấn đề này, đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã có nhiều bài phát biểu, bài viết phân tích rõ thực trạng công tác cán bộ, tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị nước ta hiện nay.

Đặc biệt, ngày 5-11-2024, Tổng Bí thư Tô Lâm đã có bài viết quan trọng: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”, trong đó, người đứng đầu Đảng ta đã thẳng thắn chỉ rõ: Việc đổi mới công tác cán bộ vẫn chưa có đột phá lớn; nhận thức và hành động của một số cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu chưa đầy đủ và sâu sắc, quyết tâm chưa cao; tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn nhiều cơ quan, bộ phận còn trùng lắp, chồng chéo, tinh giản biên chế mới tập trung giảm số lượng, chưa gắn với nâng cao chất lượng, nhất là chi phí vận hành hệ thống tổ chức quá lớn, chiếm tới 70% tổng ngân sách chi tiêu thường xuyên của Nhà nước… Đây là nguyên nhân dẫn đến tệ tham ô, tham nhũng, gây thất thoát, lãng phí rất lớn nguồn lực xã hội, làm giảm nguồn lực cho đầu tư phát triển và nhiều hệ lụy tiêu cực khác, những hạn chế bất cập này nếu không giải quyết triệt để sẽ là lực cản to lớn kìm hãm quá trình đổi mới, phát triển đất nước.

Từ việc phân tích rõ thực trạng hạn chế, bất cập còn tồn tại, Tổng Bí thư Tô Lâm đã một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng, tính tất yếu phải đẩy mạnh sắp xếp, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo quan điểm bảo đảm “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”, xác định đây là nhiệm vụ chính trị hệ trọng, yêu cầu cả hệ thống chính trị phải tập trung giải quyết. Tại Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: “Hiện nay đã là thời điểm, thời cơ; là sự cấp thiết, là đòi hỏi tất yếu khách quan cho cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị để bộ máy hoạt động hiệu lực, hiệu quả hay chưa? Câu trả lời là: Không thể chậm trễ hơn được nữa”.

Như vậy, tinh gọn bộ máy giờ đây đã trở thành mệnh lệnh tất yếu của cuộc sống. Nói một cách dung dị và dễ hiểu như đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm là “Nhẹ để cất cánh”, hay như các bậc tiền nhân thì “Thà ít mà tốt”. Rõ ràng, quan điểm “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” và sự chỉ đạo quyết liệt của Tổng Bí thư Tô Lâm, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị đã cho thấy quyết tâm chính trị rất lớn của Đảng, Nhà nước ta. Cần khẳng định rằng, chủ trương sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy đã đạt được sự thống nhất tuyệt đối cả về nhận thức và hành động, nhận được sự đồng tình ủng hộ cao của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, thực tiễn đó đã khẳng định chân lý: Đây là chủ trương hoàn toàn đúng đắn, kịp thời, tiến bộ, nhân văn, khách quan và khoa học, bởi nó đáp ứng được đòi hỏi bức thiết của thực tiễn cuộc sống và hội tụ đầy đủ “Ý chí của Đảng - Nguyện vọng của nhân dân”, dựa trên cơ sở vận dụng thế giới quan, phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Do vậy, tại thời điểm này, việc đẩy mạnh cải cách tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo quan điểm bảo đảm “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” hoàn toàn không phải là một chủ trương mới của Đảng, mà là phương thức tiến hành mới trên cơ sở tổng kết, tiếp nối, kế thừa, bổ sung và phát triển các quan điểm của các kỳ Đại hội trước đây của Đảng ta cho phù hợp với thực tiễn sinh động của đất nước và bối cảnh thế giới, vận dụng sáng tạo và giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, nhằm hướng tới mục tiêu tối thượng, vô cùng nhân văn và cao đẹp là nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giảm chi phí nuôi bộ máy, ưu tiên nguồn lực cho phát triển đất nước, phục vụ nhân dân, xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu, vững bước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Ấy vậy mà, lợi dụng việc Bộ Chính trị, Ban Bí thư quyết liệt triển khai thực hiện chủ trương tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25-10-2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” nhằm chuẩn bị tốt về mọi mặt để đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội XIV của Đảng vào đầu năm 2026, tạo điều kiện thuận lợi để đất nước vững tin bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, một số đối tượng có tư tưởng thù địch, chống đối vẫn cố tình xuyên tạc, bóp méo sự thật, tung tin bịa đặt, đánh tráo khái niệm, đưa ra những quan điểm không đồng thuận, phản biện vô nguyên tắc, phản đối gay gắt chủ trương, quan điểm của Đảng, gây hoang mang, hoài nghi trong dư luận, với âm mưu phá hoại thành quả cách mạng, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá Đảng và Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Các thế lực thù địch, chống đối lợi dụng việc Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo kết thúc hoạt động của một số bộ, ban, ngành cấp Trung ương do không còn phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong kỷ nguyên mới, nhằm khắc phục sự chồng lấn, trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ giữa một số bộ, ban, ngành ở Trung ương, đáp ứng yêu cầu triển khai thực hiện hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả các chỉ tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội để bóp méo, xuyên tạc bản chất chủ trương, quan điểm đúng đắn của Đảng ta. Chúng xảo biện cho rằng, “chủ trương tinh gọn chỉ là hình thức bề ngoài, thực chất vẫn chỉ là bình mới rượu cũ, tạo cơ hội chạy ghế, chạy chức, gây tốn kém tiền của của nhân dân”. Ấu trĩ đến nực cười, chúng thậm chí còn dựng lên thuyết âm mưu “tranh giành quyền lực, đấu đá nội bộ, hạ bệ đối thủ”, rêu rao rằng “tinh giản chẳng qua chỉ là cách hợp thức hóa để hạ bệ hoặc gia cố quyền lực trong hệ thống chính trị”. Một số cá nhân có quan điểm đối lập với Đảng, Nhà nước ta lại cho rằng, “đây là cơ hội để quân đội giảm quân”, “kết thúc nhiệm vụ của nhiều quân, binh chủng, lực lượng không còn phù hợp”, “giảm tiền đóng thuế của dân để ưu tiên cho phát triển đất nước”.

Họ cho rằng, hiện nay ở Việt Nam, diễn biến hòa bình đã kết thúc, “không còn đối tượng tác chiến” vì “Việt Nam đã nhích lại gần phương Tây”, “đã thân thiện với các nhà tư sản khi một số nước phương Tây đã là đối tác chiến lược toàn diện của Việt Nam” và “Việt Nam muốn làm bạn với họ”… Từ đó họ tung tin: “Lãnh đạo Việt Nam đã mở rộng cửa để tiếp nhận công nghệ, đồng đô-la và các chuyên gia phương Tây vào Việt Nam”, “Tổng Bí thư và Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đang khẩn thiết mời chào các nhà tư bản phương Tây vào Việt Nam để đầu tư, phát triển”… do đó, “giảm quân, kết thúc hoạt động của một số cơ quan, đơn vị quân đội là yêu cầu cấp bách hiện nay”.

Phản bác sự xuyên tạc thành tựu công nghiệp quốc phòng Việt Nam

Phản bác sự xuyên tạc thành tựu công nghiệp quốc phòng Việt Nam

 Luận điệu lạc lõng, âm thanh "lạc nhịp"

Vừa qua, Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2024 đã thành công rực rỡ, được nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Chỉ ít ngày ngắn ngủi nhưng triển lãm đã đón hơn 260.000 lượt người tham quan. Thông qua triển lãm, nhân dân nói chung và các chuyên gia trong và ngoài nước đều đánh giá cao, bày tỏ sự cảm phục, niềm tự hào trước sự phát triển của CNQP Việt Nam và sức mạnh của Quân đội ta. Đặc biệt, qua triển lãm, các đơn vị của Tổng cục CNQP, Tập đoàn Công nghiệp-Viễn thông Quân đội (Viettel) đã ký kết 16 hợp đồng với tổng giá trị hơn 286 triệu USD và 17 thỏa thuận hợp tác chiến lược giữa CNQP Việt Nam và doanh nghiệp của các nước có nền công nghiệp phát triển như Mỹ, Ấn Độ, Pháp, Bỉ... Triển lãm được truyền thông trong nước và quốc tế đưa tin nổi bật trên tất cả loại hình, qua đó khẳng định giá trị, góp phần lan tỏa mạnh mẽ hình ảnh tốt đẹp về đất nước, con người Việt Nam, về Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng với bạn bè quốc tế.

Thế nhưng, một số hãng truyền thông được "giật dây" của thế lực thù địch và cá nhân thiếu thiện chí, các tổ chức phản động ở nước ngoài với mưu đồ đen tối, tâm địa xấu xa cố tình xuyên tạc, phủ nhận thành tựu, hạ thấp uy tín của CNQP Việt Nam.

Giọng điệu lạc lõng, nực cười, khi họ cho rằng: Triển lãm quân sự "không giúp người dân tin tưởng vào Quân đội", CNQP Việt Nam “đầu tư chắp vá” nên không có khả năng tự chủ, vẫn trong “vòng luẩn quẩn của câu chuyện ốc vít” mà thôi. Những phần tử cơ hội chính trị còn quy chụp rằng, cuộc triển lãm lần này chỉ mang tính tuyên truyền để “ru ngủ” nhân dân; “khỏa lấp đi những yếu kém” của mình nhiều hơn là khẳng định năng lực tự chủ về công nghệ quân sự...  

Đó là những giọng điệu "lạc lõng", âm thanh "lạc nhịp” trong bài ca hùng tráng của CNQP Việt Nam. Nó mang tính phiến diện, thiếu khách quan, thể hiện thái độ định kiến đối với những nỗ lực và thành tựu của nền CNQP Việt Nam nói chung, Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2024 nói riêng. Mục tiêu của những kẻ hô hào yếu đuối này nhằm hạ thấp uy tín, năng lực, trình độ, khả năng tự chủ và thành tựu đáng tự hào của CNQP Việt Nam; phá hoại quan hệ hợp tác của các doanh nghiệp quốc phòng nước ta với các đối tác nước ngoài trong lĩnh vực quan trọng, giàu tiềm năng này.

Những thành tựu công nghiệp quốc phòng không thể phủ nhận 

Thứ nhất, thành tựu nền CNQP Việt Nam là hệ quả tất yếu của đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta về phát triển CNQP trong thời kỳ mới.

Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng luôn đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tạo điều kiện phát triển nền CNQP nước nhà gắn với xây dựng Quân đội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác định rõ định hướng chiến lược: Phát triển nền CNQP theo hướng chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng và hiện đại, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia. Mục tiêu là làm chủ công nghệ tiên tiến để xây dựng Quân đội hiện đại, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm đổi mới, hội nhập và nâng cao hiệu quả quản lý CNQP, tích cực cải cách hành chính, bảo đảm tính khả thi trong triển khai thực hiện. Các cơ chế, chính sách đặc thù và chương trình hợp tác khoa học-công nghệ; hệ thống quản lý và cơ sở CNQP được kiện toàn đồng bộ; các doanh nghiệp quốc phòng được tái cơ cấu theo hướng tinh gọn, hiệu quả... Đây là hành lang, thể chế quan trọng, thể hiện sự quan tâm và tư duy, tầm nhìn chiến lược của Đảng, Nhà nước ta trong phát triển CNQP thời kỳ mới, tạo điều kiện để CNQP Việt Nam bứt phá và phát triển.

Thứ hai, thành tựu của CNQP Việt Nam toàn diện, vững chắc và có bước đột phá.

Từ công tác nghiên cứu sản xuất, sửa chữa, cải tiến, hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật; thực hiện chủ trương phát triển lưỡng dụng đến công tác phát triển nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao và hoạt động hợp tác quốc tế về CNQP đều đạt những thành tựu nổi bật. Hơn một thập kỷ qua, ngành CNQP Việt Nam đã đạt được những bước tiến vượt bậc khi làm chủ công nghệ, thiết kế và sản xuất nhiều loại vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại, đáp ứng yêu cầu tác chiến của Quân đội, tiêu biểu như: Các tổ hợp tên lửa tiên tiến, radar thế hệ 3; hệ thống tự động hóa chỉ huy phòng không-không quân, máy bay trinh sát không người lái; tàu ngầm quân sự cỡ nhỏ; xe thiết giáp; các loại súng đạn chống tăng, đạn pháo; khí tài quan sát ngày đêm; trang bị thông tin thế hệ mới... đã minh chứng cho sự phát triển mạnh mẽ của nền CNQP Việt Nam.

Đội ngũ nhân lực trong ngành CNQP Việt Nam có bước tiến vượt bậc cả về số lượng lẫn chất lượng. Tính đến đầu năm 2022, số cán bộ có trình độ tiến sĩ trở lên tăng gần 2,4 lần so với năm 2011. Các nhóm nghiên cứu mạnh và tiềm năng được hình thành, tập trung vào những lĩnh vực then chốt như vũ khí bộ binh, đóng tàu, chế tạo tên lửa và phát triển trang thiết bị công nghệ cao, khẳng định sự phát triển toàn diện của ngành. Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “CNQP, an ninh được tập trung đầu tư phát triển, sản xuất được nhiều loại phương tiện, thiết bị, vũ khí, công cụ hỗ trợ phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và nhiều thiết bị máy móc, sản phẩm dân dụng chiếm được chỗ đứng vững chắc trên thị trường”(1), góp phần khẳng định tầm quan trọng và giá trị của ngành CNQP trong sự nghiệp xây dựng Quân đội, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Thứ ba, CNQP Việt Nam từng bước khẳng định năng lực tự chủ trong nghiên cứu, chế tạo, sản xuất và bước đầu định vị giá trị của mình trong hệ sinh thái công nghệ quốc phòng thế giới.

Những năm gần đây, ngành CNQP Việt Nam có những bước đột phá trong nghiên cứu, thiết kế, chế tạo và sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật, đáp ứng một phần nhu cầu trong nước, giảm đáng kể sự phụ thuộc vào nhập khẩu, góp phần tiết kiệm ngân sách nhà nước. Theo lãnh đạo Tổng cục CNQP, trong 10 năm qua, 80% vũ khí và trang bị được đưa vào sử dụng xuất phát từ các đề tài nghiên cứu trong nước.

Sự xuất hiện của các loại vũ khí, khí tài hiện đại, đa dạng do Việt Nam tự chủ nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, sản xuất tại Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2024, như: Radar cảnh giới tầm gần, radar 3D phòng không cấp chiến thuật, radar phòng không tầm trung; tổ hợp trinh sát, gây nhiễu chống phương tiện bay không người lái cấp chiến thuật; tổ hợp tên lửa đất đối hải Trường Sơn gồm bệ phóng, tên lửa hành trình Sông Hồng, radar phát hiện và chỉ thị mục tiêu được đặt trên khung gầm xe việt dã; xe chiến đấu bộ binh XCB-01; các UAV trinh sát, cảm tử, đa năng. Đặc biệt, máy bay huấn luyện TP-150 lần đầu ra mắt công chúng-chiếc máy bay đầu tiên được sản xuất tại Việt Nam bởi một công ty Việt Nam là minh chứng sống động cho năng lực tự chủ và sự phát triển vượt bậc của CNQP Việt Nam.

Không chỉ tự chủ đáp ứng nhu cầu hiện đại hóa Quân đội, CNQP Việt Nam còn chứng minh khả năng vươn ra thị trường quốc tế. Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và cựu chiến binh Nam Phi Richard Hlophe khi tham dự Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2024, đã nhận định: “Tôi đánh giá rất cao nền CNQP của Việt Nam. Các loại vũ khí, khí tài mới của các bạn rất tiên tiến. Đó là lý do tại sao chúng tôi sẽ hợp tác với Việt Nam để cả hai bên có thể cùng nhau phát triển”. Qua triển lãm và trao đổi giữa các đoàn, Việt Nam đã ký kết hàng chục hợp đồng trị giá hàng trăm triệu USD; thiết lập hàng loạt thỏa thuận hợp tác chiến lược với các doanh nghiệp quốc phòng đến từ những quốc gia có nền công nghiệp phát triển, đồng thời mở ra hướng phát triển mới là minh chứng sinh động đối với nền CNQP Việt Nam và Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam.

Thứ tư, ngành CNQP không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quốc phòng, an ninh mà còn góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam.

Với việc làm chủ công nghệ hiện đại và phát triển sản xuất trong nước, ngành CNQP góp phần quan trọng giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu, tiết kiệm nguồn lực và tối ưu hóa ngân sách nhà nước. Nhiều sản phẩm quốc phòng không chỉ phục vụ nhu cầu trong nước mà còn được xuất khẩu, tạo nguồn thu cho quốc gia, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Bên cạnh đó, ngành CNQP đã tạo việc làm cho hàng chục nghìn lao động. Các dự án và cơ sở sản xuất quốc phòng góp phần phát triển hạ tầng, cải thiện đời sống nhân dân ở các địa phương, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, đóng góp vào sự phát triển bền vững của đất nước. Trung bình mỗi năm, các doanh nghiệp Quân đội đã tạo ra khoảng 5% GDP và đóng góp cho ngân sách nhà nước từ 40.000-50.000 tỷ đồng, bằng khoảng 25% đóng góp của các doanh nghiệp nhà nước.