QĐND - Ban Bí thư vừa ban hành Thông báo kết luận
tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 20-7-2010 của Ban Bí thư khóa X về
công tác nhân quyền trong tình hình mới. Kết luận đã khẳng định quan điểm nhất
quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam tôn trọng, bảo đảm và thúc đẩy quyền con
người, trong đó có quyền tự do báo chí và sẽ tiếp tục phát triển, phát huy
những thành tựu đó. Hiện thực đó đã bác bỏ những quan điểm lệch lạc, xuyên tạc
công tác nhân quyền của Việt Nam nói chung, quyền tự do báo chí nói riêng.
Quyền tự do báo chí nhìn từ
luật pháp quốc tế
Trên bình diện quốc tế,
quyền tự do báo chí được quy định cụ thể trong luật pháp quốc tế. Điều 19,
Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR) đã khẳng định: Mọi
người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp. Mọi người
có quyền tự do ngôn luận; quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền
đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền,
thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào. Tuy nhiên, quyền này có
thể phải chịu những hạn chế nhất định.
Điều 19, ICCPR khẳng định: “Việc
thực hiện những quyền quy định tại khoản 2 điều này kèm theo những nghĩa vụ và
trách nhiệm đặc biệt. Do đó, việc này có thể phải chịu một số hạn chế nhất
định, tuy nhiên, những hạn chế này phải được quy định trong pháp luật và là cần
thiết để: a) Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; b) Bảo vệ an ninh
quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội”.
Điều 29, Tuyên ngôn Nhân quyền thế
giới cũng nhấn mạnh: “Trong khi thụ hưởng các quyền và tự do cá nhân, phải chịu
những hạn chế do luật định nhằm mục đích duy nhất là bảo đảm việc thừa nhận và
tôn trọng đối với các quyền và tự do của những người khác và phù hợp với những
đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung”.
Pháp luật nhiều quốc gia
cũng đã quy định cụ thể về quyền tự do báo chí, theo đó, việc thực hiện
quyền này phải trong khuôn khổ pháp luật. Ðiều 5, Hiến pháp Ðức quy định,
mọi người có quyền thể hiện quan điểm qua hình ảnh, lời nói, bài viết trên sách
báo hay phát tán qua phát thanh, truyền hình. Tuy nhiên, Điều 18, Hiến pháp Ðức
cũng nhấn mạnh: “Ai lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, đặc biệt là tự do báo
chí, tự do tuyên truyền… làm công cụ chống lại trật tự của xã hội tự do dân chủ
sẽ bị tước bỏ quyền công dân”.
Ngay ở nước Mỹ, một quốc gia vốn
được coi là “đất nước của tự do báo chí”, Điều 2358, Bộ luật Hình sự Mỹ đã
nghiêm cấm: “In ấn, xuất bản, biên tập, phát thanh, truyền bá, buôn bán, phân
phối hoặc trưng bày công khai bất kỳ tài liệu viết hoặc in nào có nội dung vận
động, xúi giục hoặc giảng giải về trách nhiệm, sự cần thiết tham vọng hoặc tính
đúng đắn của hành vi lật đổ hoặc tiêu diệt bất kỳ chính quyền cấp nào tại Mỹ
bằng vũ lực hoặc bạo lực”. Như vậy, luật pháp quốc tế cũng như pháp luật
các quốc gia đều khẳng định quyền tự do báo chí không phải là một quyền tuyệt
đối. Khi thực hiện quyền này, con người phải chịu những hạn chế nhất định
nhằm bảo vệ lợi ích chung của xã hội, nhà nước, của người dân.
Tôn trọng và bảo đảm quyền tự
do báo chí-quan điểm nhất quán
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán quan điểm tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do
cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do báo chí. Trên cơ sở nội luật
hóa pháp luật quốc tế về quyền tự do báo chí, Hiến pháp năm 1946, hiến pháp
đầu tiên của nước ta, đã khẳng định người dân có quyền tự do báo chí và được
pháp luật bảo đảm thực hiện. Các bản hiến pháp sau này đều kế thừa và
phát triển nội dung của Hiến pháp năm 1946 về quyền tự do báo chí. Điều
25, Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo
chí, tiếp cận thông tin, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do
pháp luật quy định” và khẳng định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể
bị hạn chế theo quy định của pháp luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của
cộng đồng”. Quy định này cũng được thể chế trong nhiều văn bản pháp luật Việt
Nam, như: Bộ luật Hình sự 2015, Luật Báo chí năm 2016...
Những thủ đoạn xuyên tạc, chống
phá
Trong những năm qua, các thế lực thù
địch vẫn lợi dụng những sơ hở, thiếu sót của Việt Nam trong thực hiện chính
sách, pháp luật và vu cáo Nhà nước Việt Nam: “Không có tự do ngôn luận, tự
do báo chí”; “Việt Nam kiểm soát và bóp nghẹt quyền tự do báo
chí, tự do internet”; “bắt bớ nhiều blogger”… Họ cố tình đưa ra những
nhận định, đánh giá sai lệch, thiếu khách quan về tình hình tự do báo chí ở
Việt Nam để vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền hòng hạ thấp uy tín
Việt Nam trên trường quốc tế. Họ còn viện dẫn các quy định của luật pháp
quốc tế và luật pháp Việt Nam về quyền tự do báo chí, nhưng cố tình tảng lờ
những điều khoản nghĩa vụ kèm theo để thực hiện các quy định đó
rồi tán phát qua internet, mạng xã hội nhằm làm cho con người hiểu
lầm rằng “tự do báo chí” là một quyền tuyệt đối; từ đó cổ xúy các phần tử bất
mãn, các đối tượng chống đối lợi dụng quyền tự do báo chí hoạt động tích cực,
quyết liệt hơn.
Các đối tượng còn tác động Quốc
hội Mỹ và các nước phương Tây, các tổ chức quốc tế thông qua các dự luật, nghị
quyết, báo cáo thường niên... với nội dung xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân
quyền, tự do báo chí ở Việt Nam, vu cáo Việt Nam “vi phạm tự do ngôn luận, tự
do báo chí”, điển hình như: Báo cáo nhân quyền thế giới hàng năm của Anh, Úc,
Nghị quyết của Nghị viện EU; Báo cáo thường niên, thông cáo báo chí của các tổ
chức quốc tế: Phóng viên không biên giới (RSF), Ủy ban bảo vệ nhà
báo (CPJ)... mặc dù phải thừa nhận Việt Nam có “tiến bộ về dân chủ, nhân
quyền” nhưng vẫn xuyên tạc tình hình, vu cáo Nhà nước vi phạm “tự do báo chí”,
“đàn áp, bắt giữ trái phép các blogger”… Một số phần tử còn tác động các chính
khách cực đoan trong Quốc hội Mỹ, Anh, Canada… tổ chức điều trần, hội thảo,
xuyên tạc tình hình tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam nhằm tác động
Liên hợp quốc ra nghị quyết bất lợi đối với Việt Nam.
Có không ít hoạt động tác động, lôi
kéo, mua chuộc các phần tử chống đối, cơ hội chính trị, số phóng viên tha hóa,
biến chất tăng cường viết bài xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền, vu cáo
Việt Nam vi phạm “quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí” rồi tán phát trên mạng
xã hội, internet... Đặc biệt, các đối tượng còn thành lập các câu lạc bộ, các
diễn đàn trên mạng xã hội dưới chiêu bài “tự do ngôn luận, tự do báo chí” để
tập hợp lực lượng, hình thành các tổ chức chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam.
Thành tựu bác bỏ những sự xuyên
tạc
Trên thực tế, Việt Nam đã đạt
được thành tựu to lớn trong việc bảo đảm quyền tự do báo chí của người dân.
Theo thống kê, tính đến năm 2016, cả nước có 857 cơ quan báo chí, gồm: 199 cơ
quan báo chí in, 658 tạp chí (trong đó có 105 báo, tạp chí điện tử); 01 hãng
thông tấn quốc gia; 67 cơ quan phát thanh truyền hình. Hầu hết các bộ, ban,
ngành, đoàn thể chính trị, tổ chức xã hội đều có báo, tạp chí hoặc trang thông
tin, báo điện tử.
Ở Việt Nam, báo chí thực sự trở
thành cầu nối giữa "ý Đảng, lòng dân", tạo đồng thuận xã hội, thúc
đẩy công cuộc xây dựng, phát triển đất nước; là phương tiện để người dân kiểm
tra, giám sát thực thi pháp luật và đóng góp ý kiến phản biện đối với các chính
sách, pháp luật của Nhà nước; là công cụ bảo vệ lợi ích xã hội, bảo vệ quyền
của người dân. Đó là minh chứng sinh động cho việc bảo đảm quyền tự do báo chí
ở Việt Nam, phản bác luận điệu vu cáo Nhà nước Việt Nam.
Thời gian qua, Nhà nước Việt Nam đã
xử lý các đối tượng lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí vi phạm quyền và
lợi ích của Nhà nước và công dân theo pháp luật, điều này hoàn toàn phù hợp với
luật pháp quốc tế và pháp luật các quốc gia khác quy định trên lĩnh vực này.
Nhằm góp phần phòng ngừa, đấu tranh
hiệu quả với hoạt động lợi dụng tự do báo chí để chống phá Đảng, Nhà nước Việt
Nam, trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm
sau:
Một là, tiếp tục tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đối với công tác quản lý Nhà nước
với báo chí, truyền thông và công tác phòng ngừa, đấu tranh với
hoạt động lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí chống phá Việt Nam. Giữ vững
nguyên tắc Đảng lãnh đạo trực tiếp, toàn diện đối với cả hệ thống chính trị, trong
đó có các cơ quan báo chí, truyền thông trong cả bốn khâu: Định hướng phát
triển; định hướng nội dung; công tác cán bộ; công tác kiểm tra, kiểm soát. Đặc
biệt, coi trọng công tác rà soát, đánh giá đội ngũ cán bộ quản lý báo chí; thực
hiện nghiêm các quy định về bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật đối với
cán bộ, lãnh đạo các cơ quan báo chí, truyền thông.
Hai là, phải làm tốt lời dạy
của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Ðể làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của mình, cán bộ báo
chí cần phải tu dưỡng đạo đức cách mạng”. Do đó, mỗi nhà báo cần không ngừng
học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, tự giác học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống; không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, lập trường tư
tưởng, đạo đức cách mạng, thực hiện tốt Luật Báo chí và các quy định của pháp
luật trên lĩnh vực báo chí; hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích vì lợi ích của đất
nước, của nhân dân; góp phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam trên trường quốc
tế.
Ba là, tiếp tục hoàn thiện hệ
thống pháp luật về báo chí, truyền thông, quản lý internet. Tiếp tục tăng
cường cơ chế phối hợp giữa Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền
thông và các cơ quan chức năng trong công tác chỉ đạo, quản lý trên lĩnh vực
này. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các quy định đạo đức nghề nghiệp và giáo dục
các chủ thể trong hoạt động báo chí, truyền thông tự giác thực hiện; các chế
tài xử lý vi phạm cần đủ mạnh để bảo đảm ngăn ngừa, răn đe.
Bốn là, tăng cường công tác
thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trên lĩnh vực báo chí, truyền thông. Qua đó,
chủ động phát hiện những hành vi sai phạm, xu hướng lệch lạc ở các cơ quan
báo chí và đội ngũ phóng viên, nhà báo để có các biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp
thời, nghiêm minh. Đặc biệt, qua công tác thanh, kiểm tra, cần kịp thời phát
hiện và kiên quyết đưa ra khỏi vị trí lãnh đạo, quản lý đối với những người
không đủ bản lĩnh chính trị, năng lực chuyên môn, những người có biểu hiện suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.
Năm là, tiếp tục đẩy mạnh công
tác thông tin, tuyên truyền chính sách, thành tựu bảo đảm quyền con
người ở Việt Nam. Kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền đối nội và tuyên truyền
đối ngoại; qua nhiều kênh và nhiều hình thức tuyên truyền đa dạng, phong phú
làm cho cộng đồng quốc tế, người Việt Nam ở nước ngoài hiểu đúng quan điểm của
Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước và thành tựu bảo đảm quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí ở Việt Nam, quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt
Nam, góp phần đấu tranh hiệu quả các luận điệu vu cáo, xuyên tạc tình hình tự
do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam.
Nguồn: WWW.qdnd.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét