Ngày 22-1-2019, tại trụ sở Liên hợp Quốc
(Geneva, Thụy Sĩ), Đoàn đại biểu Việt Nam do Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Lê Hoài
Trung dẫn đầu đã tham gia phiên đối thoại về Báo cáo quốc gia của Việt Nam theo
Cơ chế rà soát định kỳ Phổ quát (UPR) chu kỳ III của Hội đồng Nhân quyền Liên
hợp Quốc. Cùng đi và tham dự phiên đối thoại có các cơ quan: Đại diện Văn phòng
Chính phủ, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ
Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Công an, Ủy ban Dân tộc,
Ban Tôn giáo Chính phủ, Tòa án Nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát Nhân dân tối
cao. Tại buổi đối thoại này, có 122 đại diện các quốc gia tham gia. Trước đó,
đầu tháng 12 năm 2018, Việt Nam đã chính thức nộp Báo cáo quốc gia về bảo vệ và
thúc đẩy quyền con người theo cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ III
cho Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc.
Báo cáo phổ quát là cơ chế rà soát định kỳ
(còn được gọi là Kiểm điểm định kỳ phổ quát (UPR), do Hội đồng Nhân quyền
Liên hợp quốc quy định từ năm 2008. Đây là cơ chế rà soát định kỳ, 4-5 năm một
lần về tình hình bảo vệ và thúc đẩy quyền con người tại tất cả các nước thành
viên Liên hợp Quốc trên tinh thần bình đẳng, đối thoại xây dựng. Việt Nam đã
tham gia các chu kỳ UPR và thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các khuyến nghị từ các
buổi báo cáo trước đó. Báo cáo phổ quát định kỳ lần này của Việt Nam là
lần thứ Ba (lần thứ Nhất, 2009; lần thứ Hai, 2014) thể hiện rõ quan điểm
về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam.
Trong Báo cáo lần thứ Ba, trước hết, Việt Nam
làm rõ việc thực hiện các khuyến nghị, từ báo cáo lần thứ Hai. Tính đến tháng
10-2018, Việt Nam đã thực hiện được 175 trong số 182 khuyến nghị (chiếm 96,2%);
7 khuyến nghị còn lại đang được xem xét thực hiện vào thời điểm phù hợp.
Báo cáo UPR của Việt Nam lần này đã trình bày
khá đầy đủ về thành tựu của Nhà nước ta trong việc bảo đảm quyền con người.
Khác với Báo cáo lần thứ 2, những nội dung của Báo cáo được đặt trong bối cảnh
cuộc Cách mạng khoa học Công nghệ lần thứ Tư - Cuộc cách mạng dựa trên
internet, mạng điện tử nói chung, mạng xã hội nói riêng; đồng thời, Báo cáo
cũng được xây dựng dựa trên quan điểm Đại hội Đảng XII của Đảng cộng sản Việt
Nam và Hiến pháp 2013 cùng nhiều bộ luật liên quan đến quyền con người.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng ta xác định:
“Coi trọng chăm lo hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người, bảo vệ
và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người, tôn trọng và
thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà nước ta ký kết…; Thực hiện
quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, theo tinh thần của Hiến
pháp năm 2013; hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền
con người, quyền và nghĩa vụ của công dân…”. Kế thừa thành tựu đã đạt được
trong nhiều năm qua, thực hiện quan điểm của Đại hội XII, Nhà nước ta đã đạt
được những thành quả to lớn về quyền con người.
Trên lĩnh vực bảo đảm quyền dân sự, chính trị,
trước hết, đó là những thành tựu về xây dựng pháp luật. Tính đến cuối năm 2018,
Quốc hội ta đã sửa đổi và ban hành mới hơn 90 văn bản luật, trong đó có những
bộ luật như: Luật Báo chí, 2016 (có hiệu lực từ 01-01-2017); Luật Tín ngưỡng,
Tôn giáo, 2016 (có hiệu lực từ 01-01-2018); Luật Tiếp cận thông tin, 2016 (có
hiệu lực từ 01-7-2018); Nghị định 72/2013 về “Quản lý sử dụng dịch vụ internet
và thông tin trên mạng” (có hiệu lực từ 01-9-2013); Luật An ninh mạng, 2018 (có
hiệu lực từ 01-01-2019), v.v. Tất cả những bộ luật và Nghị định nói trên đều
tuân thủ nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, theo đúng Hiến pháp 2013.
Trong đó, có 2 nguyên tắc cơ bản sau: (1) “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền
làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con
người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh, … (Điều 3); (2) “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của
giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của
dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; Đảng Cộng sản
Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của
Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”( Điều
4).
Đáng chú ý, trong nội dung sửa đổi và trong
những bộ luật mới đã thể hiện những nhận thức, quan điểm mới của Nhà nước ta
trên lĩnh vực quyền con người. Chẳng hạn, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (năm 2016)
không chỉ đơn giản hóa các thủ tục cấp phép cho các hoạt động thực hành giáo
lý, giáo luật, lễ nghi tôn giáo, mà còn bảo đảm quyền cho tất cả người có đạo -
cho dù họ là công dân Việt Nam hay người nước ngoài, cho dù họ là người tự do
hay đang thi hành án. Mục 5 (Điều 5) quy định: “Người bị tạm giữ, người bị tạm
giam theo quy định của pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; người đang chấp
hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, …
bắt buộc có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo”.
Điều 8, quy định: “ Người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được Nhà nước
Việt Nam tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”, v. v. Hiện nay,
đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta diễn ra bình thường, nếu không nói là
sôi động.
Nghị định của Chính phủ về “Quản lý, sử dụng
dịch vụ internet và thông tin trên mạng”, xác định chính sách của Đảng và Nhà
nước ta là tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế, tạo điều kiện cho
nhân dân ở các vùng khó khăn có thể sử dụng dịch vụ này. Điều 4 quy định: “Thúc
đẩy việc sử dụng Internet trong mọi hoạt động kinh tế, xã hội đặc biệt trong
lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế,…; Phát triển hạ tầng Internet băng rộng đến
trường học, bệnh viện, viện nghiên cứu, thư viện, cơ quan nhà nước, doanh
nghiệp, các điểm truy nhập internet công cộng và hộ gia đình. Chú trọng việc
phổ cập dịch vụ internet ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải
đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn”
Trong bối cảnh internet, mạng điện tử phát
triển mạnh mẽ, bảo vệ chủ quyền Quốc gia trên không gian mạng là một nhiệm vụ
quan trọng, tất yếu. Tuy nhiên, Luật An ninh mạng vẫn xác định nguyên tắc pháp
quyền của Nhà nước ta, đồng thời tôn trọng và bảo đảm quyền con người. Đó là
những nguyên tắc sau: “Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; Đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý thống nhất của Nhà nước; …; Kết hợp
chặt chẽ giữa nhiệm vụ bảo vệ an ninh mạng, bảo vệ hệ thống thông tin quan
trọng về an ninh quốc gia với … bảo đảm quyền con người, quyền công dân, tạo
điều kiện cho cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trên không gian mạng” (Điều
4).
Đối với các trang mạng đang hoạt động tại Việt
Nam, Luật An ninh mạng quy định: “Doanh nghiệp trong nước và ngoài nước cung
cấp dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng Internet, các dịch vụ gia tăng trên
không gian mạng tại Việt Nam có hoạt động thu thập, khai thác, phân tích, xử lý
dữ liệu về thông tin cá nhân, dữ liệu về mối quan hệ của người sử dụng dịch vụ,
dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra phải lưu trữ dữ liệu này
tại Việt Nam trong thời gian theo quy định của Chính phủ; Doanh nghiệp ngoài
nước quy định tại khoản này phải đặt chi nhánh hoặc văn phòng đại diện tại Việt
Nam” (Điều 26). Bảo đảm an ninh thông tin trên không gian mạng theo Luật An
ninh mạng này dựa trên thông lệ quốc tế và không cản trở hoạt động của các
doanh nghiệp mạng đang triển khai dịch vụ ở Việt Nam, trong đó có tập đoàn
Google, Facebook.
Cho đến nay, Nhà nước ta đã ký kết, gia nhập
hầu hết các Công ước quốc tế về quyền con người. Đó là “Công ước quốc tế về xóa
bỏ các hình thức phân biệt chủng tộc” (1981); “Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi
hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ” (1981); “Công ước quốc tế về các quyền kinh
tế, văn hóa và xã hội”, (1982); “Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính
trị” (1982); “Công ước về quyền trẻ em” (1990); “Công ước chống tra tấn (CAT)
và “Công ước về quyền của người khuyết tật” (2014), v.v. Những công ước nói
trên đều đã được nội luật hóa trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Việt Nam cũng
đã tích cực tham gia đối thoại về quyền con người với nhiều quốc gia, như: Mỹ,
Australia, Thụy Sỹ và EU. Những cuộc đối thoại này nhằm trao đổi quan điểm và
học hỏi lẫn nhau để nâng cao hơn sự hưởng thụ quyền của người dân ở mỗi quốc
gia.
Quyền làm chủ của người dân Việt Nam được thể
hiện rõ ở quyền bầu cử và ứng cử. Kết quả cuộc bầu cử Quốc hội khóa XIV (nhiệm
kỳ 2016-2021) đã cho thấy điều này. Theo số liệu thống kê được công bố
chính thức, cả nước có 67.485.482 cử tri, trong đó số cử tri đã tham gia bỏ
phiếu là 67.049.091 người, đạt tỷ lệ 99,35%. Cơ cấu Đại biểu trúng cử thể hiện
quyền lựa chọn đại biểu của nhân dân, kết quả cụ thể như sau: Đại biểu là người
dân tộc thiểu số: 86 người (đạt 17,30%); Đại biểu nữ: 133 người (đạt 26,80%);
Đại biểu là người ngoài Đảng: 21 người (đạt 4,20%); Đại biểu trẻ tuổi (dưới 40
tuổi): 71 người (đạt 14,30%). Mặc dù cơ cấu này chưa đạt yêu cầu của Hội đồng
bầu cử đề ra, nhưng so với các cuộc bầu cử trước đây đã có những tiến bộ nhất
định.
Quyền tham gia quản lý Nhà nước của người dân
được thể hiện ở tiếng nói của những đại biểu đại diện của mình tại Quốc hội.
Những ai theo dõi thông tin trên mạng đều thấy rõ, các kỳ họp Quốc hội trong
những nhiệm kỳ gần đây đều được truyền hình trực tiếp để người dân theo dõi;
những phiên họp chất vấn được nhân dân đặc biệt quan tâm; những vấn đề nóng như
về sách giáo khoa, về các chốt thu phí BOT,... đã được nêu ra và trao đổi thẳng
tại hội trường giữa đại biểu với các lãnh đạo bộ liên quan.
Về quyền tự do ngôn luận, báo chí và tự do sử
dụng internet, mạng xã hội của người dân đã được bảo đảm không chỉ về tư tưởng,
chính trị, mà cả về cơ sở kỹ thuật (do Nhà nước đầu tư). Ở Việt Nam, Đảng
và Nhà nước ta đã sớm nhận thấy tầm quan trọng của khoa học, công nghệ, đặc
biệt là internet, mạng điện tử nói chung, mạng xã hội nói riêng, nên việc kết
nối dịch vụ này được tiến hành khá sớm. Năm 1997, Việt Nam kết nối với xa lộ
thông tin của thế giới, đặt nền móng cho internet Việt Nam. Từ đây, người Việt
Nam đã có thể tiếp cận với các nguồn thông tin dựa trên internet, mạng xã hội.
Theo báo cáo của tổ chức nghiên cứu về
internet - WAS (We Are Social - một công ty có trụ sở ở Anh), Việt Nam
hiện nay với dân số xấp xỉ 93.6 triệu người, tính đến tháng 01-2017
có tới 50.050 triệu người dùng internet, chiếm 53% dân số, và có đến 46 triệu
người dùng mạng xã hội, chiếm 48% dân số. Với tỷ lệ này, Việt Nam là một trong
những nước đứng hàng đầu khu vực Đông Nam Á về sử dụng internet, mạng xã hội.
Nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân
và thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội trong điều kiện cuộc Cách mạng Công
nghiệp 4.0, Nhà nước ta đã thành lập Ủy ban quốc gia, đẩy nhanh tiến độ xây
dựng “Chính phủ điện tử”; Cổng thông tin điện tử của các cơ quan Nhà nước, nhằm
cung cấp dịch vụ công trực tuyến để cán bộ, cơ quan, tổ chức đối thoại trực
tiếp với nhân dân, nâng cao hiệu quả tiếp nhận phản ánh, kiến nghị của người
dân, doanh nghiệp.
Trên lĩnh vực bảo đảm quyền kinh tế, xã hội và
văn hóa, kết quả nổi bật trong năm 2018 là, tăng trưởng GDP đạt 6,98%, vượt chỉ
tiêu Quốc hội đề ra (6,7%); bình quân tăng trưởng 3 năm 2016 - 2018 tăng 6,57%
(chỉ tiêu kế hoạch 5 năm là 6,5 - 7%); dự trữ ngoại hối nhà nước đạt trên
60 tỷ USD. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu 9 tháng (đầu năm 2018) đạt trên 352
tỷ USD, cả năm ước đạt 475 tỷ USD, tăng 11,7%; trong đó, xuất khẩu 238 tỷ USD,
tăng 11,2% (mục tiêu 7 - 8%). Môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cải
thiện. Thực hiện chủ trương giảm phiền hà cho người dân, các cơ quan chức năng
đã cắt giảm (ước tính) 50% thủ tục hành chính; trong đó, cắt giảm, đơn giản hóa
61% thủ tục, điều kiện kinh doanh và 60% thủ tục kiểm tra chuyên ngành hàng hóa
xuất nhập khẩu. Cả năm có khoảng 130 nghìn doanh nghiệp đăng ký mới.
Thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, theo
Nghị quyết của Quốc hội, Nhà nước đã huy động nguồn lực xã hội vào các hoạt
động giảm nghèo, nhất là đối với vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số gặp điều kiện khó khăn. Theo đó, tốc độ giảm nghèo năm 2018 khá nhanh so với
thời kỳ trước; tỷ lệ hộ nghèo tính đến cuối năm 2018 còn 5,2 - 5,7%, giảm
1 - 1,5% (riêng các huyện nghèo giảm trên 4%); tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế cả nước
ước đạt 86,9%, vượt chỉ tiêu đề ra (85,2%). Thu nhập bình quân đầu người liên
tục tăng, trong đó thu nhập của hộ nghèo tăng từ 15 đến 20%; tỷ lệ nghèo đa
chiều giảm từ 9,88% năm 2015 xuống 7,69% năm 2017. 38% số người dân tộc ít
người dịch chuyển lên nhóm có điều kiện kinh tế cao hơn (mức chung cả nước là
28%). Có thể nói hiếm có một quốc gia nào lại có nhiều chính sách xã hội như
Nhà nước ta. Chẳng hạn như sự hỗ trợ về tài chính cho người nghèo, hộ nghèo
thông qua “Ngân hàng chính sách xã hội”; hoặc chính sách hỗ trợ nhà ở đối với
hộ nghèo ở nông thôn (theo Quyết định 33/2015/QĐ-TTg)…
Trên lĩnh vực giáo dục, cho đến nay đã có 63
tỉnh, thành phố đạt phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi và phổ cập
giáo dục tiểu học. Bình đẳng giới là một trong những chỉ số về quyền con người
quan trọng. Cho đến nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV (2016 – 2021), tỷ lệ phụ nữ tham
gia vào Quốc hội đạt 26,71%, cao hơn mức trung bình thế giới là 22,3%; phụ nữ
làm chủ doanh nghiệp, chủ cơ sở kinh doanh đạt hơn 27,8%. Trên lĩnh vực văn
hóa, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được đẩy mạnh,
Chính phủ đã ban hành Nghị định mới về công nhận các danh hiệu văn hóa. Cho đến
năm 2018, Việt Nam có thêm 11 di tích và 29 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia
được xếp hạng.
Trên lĩnh vực quan hệ quốc tế về quyền con
người, Nhà nước ta đã thể hiện nhất quán là một thành viên có trách nhiệm đối
với cộng đồng Quốc tế, trong đó có Hội đồng nhân quyền. Việt Nam từng được bầu
là thành viên Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc (Nhiệm kỳ 2014-2016).
Đáng tiếc trong thời gian qua, trên internet,
mạng xã hội đã có những tiếng nói không công bằng và nhận thức sai lầm về quyền
con người ở Việt Nam. Chẳng hạn, họ cho rằng những blogger lợi dụng internet,
mạng xã hội, tán phát thông tin xuyên tạc, chính sách, pháp luật Việt Nam, hoặc
họ cho rằng bị các cơ quan chức năng xử lý, bắt, đưa ra xét xử tại tòa là “vi
phạm quyền con người”. Theo nhận thức chung của cộng đồng quốc tế, quyền con
người là một lĩnh vực pháp luật, trong đó quyền bao giờ cũng đi đôi với nghĩa
vụ và phải chịu những hạn chế nhất định. Trong tính hiện thực của nó, quyền con
người là một quy định trong hệ thống pháp luật quốc gia; việc bảo đảm quyền con
người phải gắn liền với bảo đảm quyền của cộng đồng, của xã hội và của Nhà
nước.
Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính
trị năm 1966 (Việt Nam gia nhập năm 1982) quy định: "Tất cả các dân tộc
đều có quyền tự quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể
chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hoá…” (Điều
1). Quy định này có nghĩa, các Nhà nước có quyền đưa ra các quy định pháp
luật dựa trên truyền thống lịch sử, bản sắc văn hóa hoặc chế độ chính trị,
trong đó có các quy định về quyền và nghĩa vụ của cá nhân.
Quyền tự do ngôn luận, báo chí, Công ước trên
quy định: “Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai
can thiệp; Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm
kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, …; Việc thực hiện những quyền này
… kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt, để: “Tôn trọng các quyền
hoặc uy tín của người khác; Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức
khoẻ hoặc đạo đức của xã hội” ( Điều 19).
Như vậy có thể nói, thành tựu nhân quyền Việt
Nam là to lớn, vững chắc, dựa trên chế độ xã hội ưu việt, thể chế nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa cùng với một hệ thống pháp luật quốc gia hoàn thiện,
không có ai, không lực lượng chính trị, trong và ngoài nước có thể phủ nhận
được.
Nguồn: www.tapchiqptd.vn