Thứ Hai, 19 tháng 8, 2024

SỰ XUYÊN TẠC LỊCH SỬ TRẮNG TRỢN CỦA TRẦN GIA PHỤNG

 

Vừa qua trên trang “Baotiengdan” Trần Gia Phụng tán phát bài “Hiệp định Genève (20/7/1954) không đề cập đến tổng tuyển cử”. Với danh xưng “Giáo sư sử học” cùng thủ đoạn tinh vi, gian manh, xảo trá của tên phản động lão làng, Y đã xuyên tạc trắng trợn rằng: “Hiệp định Genève ngày 20-7-1954 chỉ là hiệp định đình chiến sự ở Việt Nam, thuần túy có tính cách quân sự, mà không đề cập đến việc tổng tuyển cử” nên “Quốc Gia Việt Nam, đổi thành Việt Nam Cộng Hòa năm 1955, không cần thi hành và không vi phạm hiệp định Genève; chính “Cộng sản bắc việt nam vi phạm hiệp định Genève” … Đây là luận điệu “cũ rích” song dã tâm rất thâm độc của Trần Gia Phụng, Y đã cố tình suy diễn, xuyên tạc, bóp méo sự thật lịch sử, lại còn trơ trẽn lu loa tố cáo ngược Đảng, Nhà nước ta hòng thực hiện mưu đồ chính trị đen tối của mình, đúng là kẻ “vừa ăn cướp vừa la làng”!

70 năm trước, ngày 26/4/1954, tại Giơnevơ (Thụy Sĩ), Hội nghị giải quyết vấn đề chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương chính thức khai mạc (gọi tắt là Hội nghị Giơnevơ). Thành phần chính thức tham dự hội nghị gồm: Anh; Pháp; Liên Xô; Trung Quốc; Hoa Kỳ; Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; Lào và Campuchia. Suốt 75 ngày ròng rã với 23 phiên họp hẹp và 8 phiên họp toàn thể, ngày 20/7/1954, hội nghị đã chính thức ký kết hiệp định đình chiến chờ tổng tuyển cử gồm 6 chương, 47 điều, theo đó là Tuyên bố chung ngày 21/7/1954 với các nội dung không thể xuyên tạc, trong đó đáng chú ý là các cam kết: (1) Tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của 3 nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Nước ngoài không can thiệp vào công việc nội bộ 3 nước. (2) Cấm đưa quân đội, nhân viên quân sự, vũ khí nước ngoài vào Đông Dương. Nước ngoài không được đặt căn cứ quân sự tại Đông Dương. (3) Sông Bến Hải, vĩ tuyến 17, được sử dụng làm giới tuyến quân sự tạm thời chia Việt Nam làm hai vùng tập kết quân sự. “Đường ranh giới quân sự tạm thời này không thể diễn giải bằng bất cứ cách nào rằng đó là một biên giới phân định về chính trị hay lãnh thổ.” Thời gian tiến hành Tổng tuyển cử vào tháng 7/1956, nghĩa là sẽ phải thực hiện sau 2 năm kể từ ngày hiệp định được ký kết.

VẠCH TRẦN LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ

 

Thành thông lệ, cứ đến dịp kỷ niệm Ngày ký Hiệp định Giơnevơ, trên một số trang mạng lại xuất hiện nhiều bài viết của các thế lực thù địch, với nội dung rằng: “Hiệp định Giơnevơ như vết thương “mưng mủ” bởi vì cộng sản đã “chia đôi đất nước gây ra cảnh đẫm máu và nước mắt”… Đây là những luận điệu xuyên tạc hết sức trắng trợn, bịa đặt, bóp méo lịch sử, phủ nhận kết quả, ý nghĩa lịch sử của Hiệp định Giơnevơ, cần phải được vạch trần, bác bỏ, trong đó cần làm rõ những vấn đề sau:

Trước tiên, phải khẳng định rằng, việc chia cắt hai miền là ý định của các nước lớn, với mục đích riêng của họ, không phải nguyện vọng của Việt Nam dân chủ cộng hòa. Mặc dù Việt Nam đến Hội nghị với tâm thế bên thắng cuộc, song do vị thế và điều kiện chưa cho phép, nên phải chấp nhận các điều khoản Hội nghị để tranh thủ các nước lớn, nhất là Liên Xô, Trung Quốc trong việc thi hành Hiệp định sau này.

Thứ hai, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chấp hành nghiêm chỉnh và kiên trì đấu tranh yêu cầu các bên liên quan tuân thủ, thi hành Hiệp định. Ngay sau khi Hội nghị Giơnevơ thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Điều chỉnh khu vực là việc tạm thời, là bước quá độ để thực hiện đình chiến, lập lại hòa bình và tiến đến thống nhất nước nhà bằng cách tổng tuyển cử. Điều chỉnh khu vực quyết không phải là chia xẻ đất nước ta, quyết không phải là phân trị”[1]. Bộ Chính trị ra chỉ thị phải: “Thi hành triệt để Hiệp định đình chiến (tập kết quân đội, rút quân ra Bắc…). Đấu tranh đòi Pháp phải thi hành đúng Hiệp định (đòi thả hết tù binh, tù chính trị và thường dân bị bắt; chống tuyển mộ thêm ngụy binh; chống đàn áp, bắt bớ những người kháng chiến; chống phá hoại cơ sở của ta…)[2]. Cùng với đó, Chủ tịch nước và Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gửi công hàm cho Quốc trưởng và Thủ tướng Quốc gia Việt Nam (chính quyền Sài Gòn) đề nghị đại biểu hai miền mở Hội nghị hiệp thương để bàn việc tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Chính quyền Sài Gòn đã bác bỏ đề nghị đó. Ngày 17/8/1955, Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi công hàm cho Ngoại trưởng Anh và Liên Xô, hai đồng Chủ tịch Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương, yêu cầu thi hành mọi biện pháp cần thiết để Hiệp định Giơnevơ được tôn trọng và vấn đề chính trị ở Việt Nam được giải quyết trên cơ sở hiệp thương hai miền Bắc – Nam, tổng tuyển cử tự do, thống nhất nước Việt Nam. Ngày 21/7/1956, thời hạn hai năm theo quy định của Hiệp định Giơnevơ đã qua nhưng không diễn ra tổng tuyển cử để thống nhất nước Việt Nam. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn kiên trì con đường hiệp thương hòa bình đi đến tổng tuyển cử. Tuy nhiên, phía Mỹ và chính quyền Sài Gòn ngày càng lộ rõ âm mưu chia cắt lâu dài Việt Nam thành hai quốc gia. Ý đồ đó được thể hiện rõ khi tại Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc ngày 23/01/1957, Mỹ đề nghị cho Nam Việt Nam và Nam Triều Tiên gia nhập Liên Hợp quốc.

KHÔNG THỂ “ĐỔI TRẮNG THAY ĐEN” THÀNH QUẢ VÀ Ý NGHĨA CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945

 

Cách đây 79 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam đã thực hiện thành công Cách mạng Tháng Tám, đánh đổ thực dân, phong kiến, thành lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Tám là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động bằng mọi âm mưu, thủ đoạn, với nhiều hình thức đã bóp méo sự thật, xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành quả cách mạng của dân tộc Việt Nam. Ngày 14/8/2024, trên “Baoquocdan”, Hoàng Thanh Trúc phát tán bài viết “Nếu không có CM Tháng 8 – thì sao?”. Y cho rằng: “100% sau 1945 Quốc gia Việt Nam chắc chắn vẫn và sẽ Độc Lập hoàn toàn mà không phải đổ máu, không cần đến Hồ Chí Minh, đảng CSVN và nhất là không cần Cách Mạng tháng 8 nào cả”. Thực chất, đó là những luận điệu xuyên tạc, chống phá, đổi trắng thay đen của các thế lực thù địch nhằm hạ thấp tầm vóc, ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thắng lợi vĩ đại này cũng như sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc làm nên chiến thắng. Do đó, chúng ta cần nâng cao tinh thần cảnh giác, tăng cường đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.

1. Cách mạng Tháng Tám thành công – Thành quả vĩ đại từ đấu tranh của toàn dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo

Thực tiễn lịch sử đã minh chứng, Cách mạng Tháng Tám nổ ra và giành thắng lợi, ngoài yếu tố khách quan đóng vai trò quan trọng thì nhân tố quyết định thắng lợi là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Để làm nên thành công của Cách mạng Tháng Tám “long trời, lở đất”, cả dân tộc Việt Nam với quyết tâm và tinh thần “dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải quyết giành cho kỳ được độc lập dân tộc”, đã nhất tề vùng lên, cuộc Tổng khởi nghĩa của nhân dân ta đã thành công, lật đổ ách thống trị phát xít cùng triều đình phong kiến, thiết lập nên chính quyền cách mạng trên cả nước. Cách mạng Tháng Tám diễn ra trong điều kiện thời cơ “nghìn năm có một”, tuy nhiên, thời cơ đó chỉ được tận dụng và đạt thành quả với sự chuẩn bị chủ động, lâu dài, kỹ lưỡng cả thế và lực lượng cách mạng của Đảng.

Thành quả cách mạng vĩ đại này không chỉ là kết quả của 15 ngày tổng khởi nghĩa, không chỉ là kết quả của sự nghiệp cách mạng trong 15 năm (1930-1945) qua cao trào 1930-1931, 1936-1939, 1939-1945 (trong đó, gần như ngay từ đầu, dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chủ động cùng với lực lượng đồng minh chống phát xít), mà còn là kết quả của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc trong gần một thế kỷ của nhân dân ta. Do đó, Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc lâu dài, đầy hy sinh, gian khổ của nhân dân ta dưới sự tổ chức lãnh đạo bài bản, khoa học, sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chứ không phải là sự “ăn may” hay “thảm họa” như các thế lực thù địch, phản động đã cố tình xuyên tạc, bóp méo.

CẢNH GIÁC TRƯỚC LUẬN ĐIỆU XÉT LẠI LỊCH SỬ CỦA ĐẠI NGHĨA

 

Trong lúc nhân dân cả nước ta đang hướng tới kỷ niệm 79 năm Cách mạng tháng Tám (19/8/1945 – 19/8/2024) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 – 2/9/2024) với nhiều hoạt động thi đua sôi nổi, hành động thiết thực, thì trên các diễn đàn mạng xã hội xuất hiện nhiều bài viết có nội dung xuyên tạc, phủ nhận sự kiện lịch sử này. Tựu chung lại, các luận điệu trên đều cổ súy cho mưu đồ xét lại lịch sử, tạo cớ để chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Bài viết Sự thật về “Cách mạng tháng 8” và ngày “Độc lập” 2 tháng 9 của Đại Nghĩa là một ví dụ. Từ việc tổng hợp một cách rời rạc các “nhận định” của những người có tư tưởng thù địch, chống đối về Cách mạng tháng Tám, Đại Nghĩa kết luận một cách hồ đồ rằng: Việt Minh chủ lợi dụng thời cơ ‘khoảng trống quyền lực” để chiếm quyền chứ không có công gì cả. Thực chất, luận điệu này không mới, được lặp đi lặp lại trước mỗi dịp kỷ niệm Cách mạng tháng Tám thành công và Quốc khánh (2/9). Tuy nhiên, hiện nay với sự hỗ trợ tích cực từ internet, mạng xã hội những luận điệu này đang được lan truyền nhanh chóng, tác động tiêu cực đến nhận thức, tâm lý, hành động của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân ta. Trước luận điệu xảo trá này, một lần nữa chúng ta cần nhìn nhận một cách khách quan, toàn diện, khoa học về thắng lợi vẻ vang của nhân dân ta trong Cách mạng tháng Tám, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

1. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám khởi nguồn từ tư duy cách mạng, sáng tạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ Hội nghị Trung ương 6 đến Hội nghị Trung ương 8 (khoá I), Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã nhạy bén, kịp thời chuyển hướng tập trung sức lực của toàn Đảng, toàn dân vào nhiệm vụ đánh đế quốc, giải phóng dân tộc. Trong Lời kêu gọi đồng bào tháng 6/1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảyChúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa bỏng. Tiếp đó, theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Mặt trận Việt Minh (Hội Việt Nam độc lập đồng minh) được thành lập tại Pắc Bó (Cao Bằng) ngày 19/5/1941 để tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân vào các hội cứu quốc. Thanh thế của Mặt trận Việt Minh phát triển rất nhanh, rất mạnh trên khắp nước, từ Bắc chí Nam, từ miền núi, đồng bằng đến ven biển. Hoạt động của Đảng và phong trào Việt Minh không chỉ dừng lại ở rừng núi, nông thôn, mà phát triển sâu rộng cả ở thành thị, ngay cả các thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn, các trung tâm đầu não lớn của thực dân Pháp và phát-xít Nhật. Đâu đâu cũng phát triển mạnh mẽ các đoàn thể quần chúng trong Mặt trận Việt Minh như: Nông dân cứu quốc, Công nhân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nhi đồng cứu quốc, Quân nhân cứu quốc… Trên cơ sở phong trào rộng khắp đó mà trong những ngày Tháng Tám năm 1945, khi thời cơ đến, nhân dân cả nước, nhờ đã trải qua quá trình rèn luyện ý chí và tập dượt tổ chức đấu tranh trong phong trào Việt Minh, đã nhất lượt vùng lên giành chính quyền khắp các thành phố, thị xã, tỉnh lỵ, huyện lỵ trên mọi miền đất nước.

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH KHÔNG TÁCH RỜI VÀ ĐỐI LẬP VỚI CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN

 

Mới đây, trên trang “Vietnam. org” đăng tải bài viết của Kiều Phong xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh, âm mưu tách rời và đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác-Lênin. Nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh có thể thấy rõ những quan điểm nói trên là hoàn toàn sai trái, bởi lẽ:

Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh có nguồn gốc lý luận chủ yếu từ chủ nghĩa Mác – Lênin.

Chủ nghĩa Mác  Lênin đã cung cấp cho Hồ Chí Minh thế giới quan, phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để hình thành hệ thống quan điểm phong phú, toàn diện của Người về cách mạng Việt Nam. Trong tìm đường cứu nước, Người đến với chủ nghĩa Mác  Lênin và tìm thấy ở đây cái “cẩm nang thần kỳ” soi sáng con đường cách mạng Việt Nam. Từ đó, Người đứng hẳn về Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản) và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp vào cuối năm 1920, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, đánh dấu bước ngoặt quyết định trong hình thành tư tưởng chính trị của mình.

Để chuẩn bị cho quá trình vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, năm 1927, Người viết tác phẩm “Đường kách mệnh”, trong đó khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”[1]. Trong bài: “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin”, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến nguồn gốc lý luận tư tưởng của mình là chủ nghĩa Mác – Lênin. Người khẳng định: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác – Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”[2]. Vì vậy, không thể nói tư tưởng Hồ Chí Minh tách rời với chủ nghĩa Mác – Lênin.

Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Chính trên cơ sở nắm vững và quán triệt sâu sắc bản chất cốt lõi những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã vận dụng phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để tự tìm ra những chủ trương, giải pháp, đối sách phù hợp với hoàn cảnh cụ thể, từng thời kỳ cụ thể của cách mạng Việt Nam; để hình thành nên hệ thống quan điểm phong phú, toàn diện về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Người không đi tìm những kết luận có sẵn trong sách vở kinh điển của chủ nghĩa Mác -Lênin, mà tiếp thu lý luận Mác – Lênin theo phương pháp nhận thức mác xít; đồng thời, theo lối “đắc ý, vong ngôn”, tức là cốt nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất của chủ nghĩa Mác – Lênin, chứ không tự trói buộc trong cái vỏ ngôn từ; trên cơ sở đó vận dụng vào hoàn cảnh thực tế của Việt Nam, hình thành nên những quan điểm cơ bản về mục tiêu, lực lượng, động lực, phương pháp cách mạng,… của cách mạng Việt Nam.

CẢNH GIÁC VỚI NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CÔNG TÁC CÁN BỘ TRONG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG CỦA ĐẢNG

 

Mới đây, trên một số trang mạng phản động, Đào Tăng Dực tiếp tục tung tin vu cáo, xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, chia rẽ tình đoàn kết, phối hợp chiến đấu giữa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Y cho rằng tình trạng công tác cán bộ ở Công an nhân dân làm “lu mờ” và “kiểm soát” Quân đội nhân dân. Y đã lợi dụng, khoét sâu những bức xúc của nhân dân trước tình trạng một bộ phận cán bộ tham nhũng, tiêu cực; suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống… để tung ra những bài viết mang tính suy diễn, phiến diện một chiều, quy chụp mọi sai lầm, khuyết điểm, yếu kém trong các lĩnh vực của đời sống xã hội cho đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ của Đảng, cần phải được nghiêm trị.

Thực tế cho thấy: Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam, được thành lập. Kế thừa, phát huy và vận dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự của dân tộc, kết hợp với nghệ thuật quân sự hiện đại, Quân đội nhân dân Việt Nam đã lập nên nhiều chiến công vang dội trở thành đội quân “quyết chiến, quyết thắng” chống kẻ thù xâm lược và gần một năm sau đó Ngày 19/8/1945, Cách mạng Tháng Tám thành công ở Hà Nội cũng là ngày truyền thống của Công an nhân dân Việt Nam. Công an nhân dân được lập ra để thực hiện nhiệm vụ trấn áp phản cách mạng, giữ gìn an ninh, trật tự, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ tính mạng và tài sản của Nhân dân. Ngay từ khi thành lập, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đã phối hợp thực hiện nhiệm vụ chống thù trong, giặc ngoài. Lực lượng Công an nhân dân và Quân đội nhân dân cùng với các đoàn thể quần chúng, các tầng lớp Nhân dân đã bảo vệ tuyệt đối an toàn cuộc mít tinh lớn vào ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Thủ đô Hà Nội, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hai lực lượng phối hợp chặt chẽ trong đấu tranh chống phản cách mạng bên trong và sự can thiệp của các thế lực thù địch bên ngoài, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền non trẻ và Nhân dân. Hưởng ứng “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, Quân đội nhân dân cùng Công an nhân dân và Nhân dân cả nước nhất tề đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, gây “chấn động địa cầu”, là một nét son tô thắm truyền thống phối hợp, hiệp đồng giữa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là hai lực lượng vũ trang trọng yếu của Đảng, Nhà nước, làm nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Gần 80 năm qua, kể từ khi ra đời đến nay, trải qua các giai đoạn cách mạng, được Đảng và Bác Hồ giáo dục, rèn luyện, được nhân dân đùm bọc, giúp đỡ, trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù khó khăn, gian khổ đến đâu, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân luôn kề vai, sát cánh, đoàn kết, hiệp đồng chiến đấu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước và Nhân dân.

Vừa qua, Ngày 05/02/2024, tại Hà Nội, Bộ Quốc phòng phối hợp với Bộ Công an tổ chức Hội nghị giao ban thực hiện Nghị định số 03/2019/NĐ-CP của Chính phủ về “Phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và nhiệm vụ quốc phòng” năm 2023 do Thượng tướng Nguyễn Tân Cương, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và Thượng tướng Trần Quốc Tỏ, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Công an đồng chủ trì hội nghị đã thành công và khẳng định: Năm 2023, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, trực tiếp là của Quân ủy Trung ương, Đảng ủy Công an Trung ương, lãnh đạo Bộ Quốc phòng và Bộ Công an, sự giúp đỡ tích cực, hiệu quả của cấp ủy, chính quyền và Nhân dân, lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đã phối hợp triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Nghị định của Chính phủ; phối hợp tham mưu với Đảng, Nhà nước kịp thời xử lý các tình huống phức tạp về quốc phòng, an ninh; đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động. Hai lực lượng đã chủ động phối hợp nắm tình hình, phát hiện từ sớm, từ xa, đấu tranh, vô hiệu hóa âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và số cực đoan chống đối trong nội địa, đặc biệt là âm mưu, hoạt động tình báo, gián điệp nhằm tác động chuyển hóa nội bộ; hoạt động tuyên truyền phá hoại tư tưởng, kích động biểu tình, gây rối an ninh trật tự, bạo loạn, khủng bố; bảo vệ tuyệt đối an toàn 2.595 cuộc, lượt hoạt động của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, 154 sự kiện chính trị quan trọng, 80 đoàn khách quốc tế, bảo đảm an ninh, an toàn các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài… Trong thời gian tới, hai Bộ tiếp tục phối hợp cụ thể hóa và tổ chức triển khai toàn diện, về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong tình hình mới. Hai lực lượng tăng cường phối hợp đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, đặc biệt là đối với âm mưu, hoạt động tình báo, gián điệp, tác động chuyển hóa nội bộ, tuyên truyền phá hoại tư tưởng; triển khai các giải pháp bảo đảm an ninh mạng, an ninh thông tin, kịp thời phát hiện, vô hiệu hóa hoạt động sử dụng không gian mạng để xâm phạm an ninh quốc gia. Các cơ quan, đơn vị Quân đội, Công an phối hợp triển khai quyết liệt các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh trấn áp các loại tội phạm, nhất là đấu tranh với tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia, tội phạm ma túy, buôn lậu, gian lận thương mại.

ĐẬP TAN LUẬN ĐIỆU TRƠ TRẼN “LIÊN MINH QUÂN SỰ MỸ – NHẬT – PHI VÀ SỰ CÔ ĐƠN NGUY HIỂM CỦA VIỆT NAM”

 

Một trong các sự kiện thu hút sự quan tâm của dư luận toàn thế giới trong tháng 4 năm 2024 vừa qua chính là sự kiện ngày 11/4/2024 diễn ra Hội nghị thượng đỉnh lần đầu tiên giữa lãnh đạo ba nước Mỹ – Nhật Bản – Philippines. Hội nghị đã thảo luận nhiều nội dung quan trọng về hợp tác giữa các bên liên quan, trong đó có vấn đề về liên minh quân sự giữa Mỹ, Nhật Bản và Philippines.

Bình luận về sự kiện này, trên trang mạng “quyenduocbiet”, Nguyên Anh đã đăng bài viết tựa đề “Liên minh quân sự Mỹ – Nhật – Phi và sự cô đơn nguy hiểm của Việt Nam”Bài viết, viện cớ sự liên minh quân sự giữa ba nước Mỹ, Nhật, Philippines để phê phán chủ trương không tham gia liên minh quân sự của Việt Nam là “sự cô đơn nguy hiểm”. Từ đó, “khuyên” Việt Nam cần thực hiện liên minh quân sự với Mỹ. Nguyên Anh còn cho rằng, điều kiện tiên quyết để trở thành “đồng minh của Mỹ” là: “Việt Nam bắt buộc phải là một quốc gia không cộng sản”Thực chất đây là những luận điệu trơ trẽn, nhằm xuyên tạc, công kích chính sách quốc phòng “4 không” của Việt Nam, nhất là chủ trương “không tham gia liên minh quân sự”Đồng thời phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công tác đối ngoại quốc phòng. Cần khẳng định rằng, Việt Nam chủ trương “không tham gia liên minh quân sự” là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp và sáng suốt; là điều kiện quan trọng để giữ vững môi trường hòa bình để phát triển đất nước, bởi lẽ:

CẢNH GIÁC TRƯỚC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CỦA ĐÀO TĂNG DỰC

 

Thời gian gầy đây, trên nhiều diễn đàn phản động đã đồng loạt phát tán bài viết Sách lược cải tổ hệ thống quân đội (The Armed Forces) của Đào Tăng Dực. Bài viết có nội dung xuyên tạc mối quan hệ gắn bó giữa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, kêu gọi “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là những luận điệu nguy hiểm, trực tiếp chống phá việc thực hiện chủ trương xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại của Đảng, Nhà nước ta.

Thứ nhất, Đào Tăng Dực lớn tiếng cho rằng: công an giữ một vai trò vượt trội quân đội trong hệ thống quyền lực đảng CSVN. Luận điệu này xuất phát từ góc nhìn thiển cận, phân tích một cách vô căn cứ của Đào Tăng Dực về lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Nó là sự tiếp nối, cố súy cho những âm mưu, thủ đoạn chia rẽ Quân đội nhân dân với Công an nhân dân của các thế lực thù địch. Mục đích là hướng tới tạo sự nghi kị, hiềm khích, gây bất ổn trong nội bộ Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, từng bước làm suy giảm động lực, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân. Trước luận điệu nham hiểm này, chúng ta cần nhận thức rõ, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là thành phần trọng yếu, lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mối quan hệ giữa Quân đội nhân dân với Công an nhân dân là quan hệ đồng chí, đồng đội, cùng chung mục tiêu, lý tưởng chiến đấu. Mối quan hệ này được tạo dựng, hun đúc từ truyền thống đoàn kết, yêu nước của dân tộc Việt Nam, từ quá trình giáo dục, rèn luyện của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh; được thử thách, kiểm nghiệm trong quá trình đấu tranh cách mạng của nhân dân ta. Thực tiễn đã chứng minh, “Công an và Quân đội là hai cánh tay của nhân dân, của Đảng, của Chính phủ”, luôn chung sức, chung lòng, đồng tâm hiệp lực, đoàn kết, phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ, kề vai sát cánh, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Tuy nhiên, do tính chất nhiệm vụ của mỗi lực lượng, nên tổ chức, biên chế của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân có những nét khác biệt. Nhưng đó không phải là căn cứ để đánh giá lực nào là quan trọng hơn trong bộ máy quyền lực của Nhà nước. Nói công an giữ một vai trò vượt trội quân đội như Đào Tăng Dực là lộng ngôn, nói càn, phản khoa học. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã phân tích: Nhiệm vụ của Quân đội và Công an không thể rời nhau được vì nó đều có mục đích chung là bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ trị an cho nhân dân… Quân đội chuyên chống kẻ địch bên ngoài, Công an chủ yếu chống kẻ địch bên trong. Hai nhiệm vụ đó không tách rời nhau được và cũng không thể phân chia máy móc. Ghi nhớ lời dạy của Đại tướng, mỗi chúng ta cần chủ động nâng cao nhận thức, luôn cảnh giác đấu tranh vạch rõ bản chất của những luận điệu xuyên tạc, muốn chia rẽ mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa Quân đội nhân dân với Công an nhân dân.

Thứ hai, mượn cớ “thảo luận về vai trò của người quân nhân”, Đào Tăng Dực lớn tiếng kêu gọi “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân Việt Nam. Tiếp nối mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch, Đào Tăng Dực kêu gọi mỗi quân nhân Quân đội nhân dân Việt Nam phải trung thành với tổ quốc, đứng về phía dân tộc, đối lập với mọi hình thức độc tài, quyết tâm đập tan mọi định chế độc tài. Những lời lẽ “hoa mĩ” đó của Đào Tăng Dực không che dấu được ý đồ kêu gọi tách Quân đội nhân dân Việt Nam ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; làm cho quân đội “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, mất phương hướng, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, suy yếu về chính trị, tiến tới bị vô hiệu hóa. Luận điệu của y – một lần nữa “nối giáo” cho âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, muốn làm “biến chất” Quân đội nhân dân Việt Nam – một đội quân vốn từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng, trở thành một đội quân đi ngược lại lợi ích của Đảng, của nhân dân; từ đó dễ bề chuyển hóa chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

ĐOÀN KẾT TÔN GIÁO THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

 

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán thực hiện đoàn kết lương – giáo, đoàn kết giữa những người theo các tôn giáo khác nhau. Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết tôn giáo góp phần tập hợp, đoàn kết toàn dân tộc, tạo sức mạnh tổng hợp, thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước có vai trò đặc biệt quan trọng. Chính vì vậy, sau khi nước nhà độc lập, trong Phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (03-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: Thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào Giáo và đồng bào Lương, để dễ thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: Tín ngưỡng tự do và Lương Giáo đoàn kết. Theo Người, đoàn kết tôn giáo trước hết, phải lấy mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội làm điểm tương đồng, dùng cái tương đồng để khắc phục sự dị biệt. Giải phóng dân tộc ở nước ta là mục tiêu trước nhất, là nền tảng cho sự giải phóng giai cấp, là điều kiện để có độc lập, tự do cho các tôn giáo.

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH – BẬC ĐẠI TRÍ, ĐẠI NHÂN, ĐẠI DŨNG

 

Trên trang “Baoquocdan” Nguyễn Thị Cỏ May tiếp tục chiêu trò cũ, đả kích, đánh tráo khái niệm, xuyên tạc tác phẩm “Ngục Trung Nhật ký” – “Nhật ký trong tù” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Dẫn lời học giả Lê Hữu Mục, May cho rằng tập thơ này ra đời dưới sự dàn dựng công phu của  ban biên soạn thuộc hệ thống Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm đánh bóng tài năng cho Hồ Chí Minh.

Lý lẽ mà bài viết đưa ra là: Lúc đó Bác chưa đủ trình độ tiếng Hán để làm thơ tiếng Hán theo thể thơ Đường và quan điểm trong bài thơ mang tính chung chung, không thể hiện rõ quan điểm giai cấp vô sản. Từ đó Lê Hữu Mục khẳng định tác giả cuốn Ngục trung nhật kí chắc chắn là một người Hán (tức “già Lý”) vốn trung thành với quốc gia, đất nước Trung Hoa, chứ không phải Hồ Chí Minh. Song, Nguyễn Thị Cỏ May thiếu hiểu biết hay cố tình bỏ qua, bởi trong Ngục Trung Nhật ký còn một bài thơ: Bệnh trọng (Ốm nặng), hai câu đầu viết: Ngoại cảm Hoa thiên tân lãnh nhiệt/Nội thương Việt địa cựu sơn hà. Với hai câu trên trong bài thơ, đã chứng minh: Chẳng lẽ ông già Lý người Hán đang ở tù tại Hồng Kông lại ngồi thương cho nước Việt; chẳng lẽ một người Hán (“già Lý”, vốn là một tướng cướp) lại làm đại biểu cho nhân dân Việt Nam. Và không biết rằng động cơ thúc đẩy Lê Hữu Mục xuyên tạc “Hồ Chí Minh không phải là tác giả Ngục trung nhật kí” đã đi ngược lại phiên họp thứ 24 tại Paris năm 1987, Đại hội đồng UNESCO thông qua Quyết định về kỉ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1990. Quyết định này đã tôn vinh “Chủ tịch Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”. Do đó, xuyên tạc, bịa đặt nhưng thiếu tri thức, thiếu hiểu biết, chỉ biết dùng lời lẽ của kẻ thù hận để đánh lừa thiên hạ, không những không đạt được mục đích lấy đen đổi trắng, mà càng chứng tỏ Nguyễn Thị Cỏ May và đồng bọn chỉ là những tay bồi bút, phản động không hơn không kém.

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH KHÔNG TÁCH RỜI VÀ ĐỐI LẬP VỚI CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN

 

Mới đây, trên trang “Vietnam. org” đăng tải bài viết của Kiều Phong xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh, âm mưu tách rời và đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác-Lênin. Nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh có thể thấy rõ những quan điểm nói trên là hoàn toàn sai trái, bởi lẽ:

Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh có nguồn gốc lý luận chủ yếu từ chủ nghĩa Mác – Lênin.

Chủ nghĩa Mác  Lênin đã cung cấp cho Hồ Chí Minh thế giới quan, phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để hình thành hệ thống quan điểm phong phú, toàn diện của Người về cách mạng Việt Nam. Trong tìm đường cứu nước, Người đến với chủ nghĩa Mác  Lênin và tìm thấy ở đây cái “cẩm nang thần kỳ” soi sáng con đường cách mạng Việt Nam. Từ đó, Người đứng hẳn về Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản) và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp vào cuối năm 1920, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, đánh dấu bước ngoặt quyết định trong hình thành tư tưởng chính trị của mình.

KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC HÌNH ẢNH VÀ PHỦ NHẬN CÔNG LAO CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI ĐẤT NƯỚC, NHÂN DÂN VIỆT NAM

 

Vừa qua, trên trang Facebook: Hội những người cầm bút can đảm, bút danh Trường Chinh đã đăng tải bài viết: “Hồ Chí Minh: người yêu nước hay một tên cơ hội?” với nội dung xuyên tạc, bôi nhọ hình ảnh, hạ thấp công lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bởi vậy, cần khẳng định một số vấn đề như sau:

Thứ nhất, Hồ Chí Minh là một người yêu nước! Yêu nước là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, cũng là động lực tinh thần lớn nhất giúp Chủ tịch Hồ Chí Minh chịu đựng và vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để chỉ rõ hướng đi, con đường đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương về lòng yêu nước, ý chí cách mạng kiên cường, đặt lên hàng đầu khí phách độc lập tự cường, hy sinh lợi ích cá nhân của mình vì lợi ích cho dân tộc. Lịch sử đã chứng minh: Chủ tịch Hồ Chí Minh từ một nhà yêu nước chân chính vĩ đại trở thành một chiến sĩ cách mạng vô sản, thực hiện thành công sứ mệnh đánh đổ xã hội cũ đầy áp bức, bóc lột, bất công và xây dựng xã hội mới của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đây là sự thật không thể phủ nhận!

Thật vậy, từ năm 1911 đến năm 1920, trên chặng đường hiện thực khát vọng giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã đi đến các nước: Pháp, Mỹ, Anh… hoà mình vào cuộc sống của công nhân và nhân dân các dân tộc thuộc địa, vừa lao động kiếm sống, vừa ra sức học tập, hoạt động cách mạng. Qua cuộc khảo sát thế giới, thấu hiểu bản chất xấu xa của chủ nghĩa thực dân, Người đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa cộng sản, tìm được con đường cách mạng Việt Nam. Những năm 1921-1930 là thời kỳ Nguyễn Ái Quốc ra sức tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin và những quan điểm cách mạng của mình về trong nước và cũng là thời kỳ Nguyễn Ái Quốc bổ sung, phát triển lý luận của mình về vấn đề dân tộc thuộc địa, về cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Năm 1930, tại Cửu Long, Hồng Kông, Trung Quốc, Người chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở trong nước, thống nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự ra đời của Đảng đã chấm dứt thời kỳ bế tắc, khủng hoảng về đường lối, về lực lượng lãnh đạo trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Điều này, đã trả lời câu hỏi “Hồ Chí Minh: người yêu nước hay một tên cơ hội?” mà Trường Chinh và những kẻ tráo trở, lật lọng như Y còn mơ hồ không thể trả lời được!