Thứ Bảy, 29 tháng 12, 2018

Trớ trêu kẻ không tưởng gọi Chủ nghĩa Mác là không tưởng

Kẻ không tưởng là ai?
Lẽ thường người được ăn, được học, được giáo dục trưởng thành trong môi trường hòa bình mà biết bao thế hệ cha anh đổ xương máu để có được sẽ cống hiến công sức, trí tuệ cho sự nghiệp chấn hưng đất nước, xây dựng xã hội tốt đẹp trên chính quê hương mình. Đáng buồn thay một kẻ nhân danh công lý – luật sư lại đi ngược lại đạo lý này. Nói theo kiểu dân gian đây chính là “kẻ ăn cháo, đá bát”. Kẻ lật lọng đem kiến thức, hiểu biết mình có để phản Đảng, phản dân, hại nước, tán dương “tự do”, “nhân quyền” viễn vông chính là Trương Công Định – kẻ bị Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh khai trừ năm 2009 và bị tuyên xử 5 năm tù giam, 3 năm quản chế về tội tuyên truyền chống Đảng, Nhà nước CHXHCN Việt Nam.
Sự võ đoán vô căn cứ của kẻ không tưởng
Mới đây khi rêu rao, tán dương chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, ngài “Lật sư” Trương Công Định lớn tiếng cho rằng “Chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa không tưởng, không bao giờ thành hiện thực”. Không hiểu vị “Lật sư” này căn cứ vào đâu để khẳng định điều này? Cái quy chụp xuyên tạc đó không hề dựa vào căn cứ nào hay nói cách khác chỉ dựa trên sự võ đoán, lấy hình thức quy chụp nội dung, lấy hiện tượng để quy chụp bản chất. Thật trớ trêu, một kẻ cổ súy cho giá trị tự do, dân chủ viễn vông như Định lại lấy cái không tưởng ngay từ trong đầu mình ra mà phán xét Chủ nghĩa Mác. Có lẽ cái đầu trống rỗng, không tưởng của vị “Lật sư” này cần phải được “hiệu chỉnh” lại để hiểu hơn những giá trị khoa học hiện thực của Chủ nghĩa Mác.
Nhắc lại Trương Công Định mấy điều
Chủ nghĩa Mác là sự phát triển đỉnh cao của tinh hoa trí tuệ nhân loại trong hành trình nhận thức bản chất tự nhiên, xã hội và tư duy. Chủ nghĩa Mác khác với CNXH không tưởng của Xanhximong, Phurie, Owen trước đó đã thất bại do không nhìn thấy con đường, lực lượng, biện pháp xây dựng CNXH. Bằng 2 phát kiến vĩ đại: Chủ nghĩa Duy vật lịch sử và lý luận giá trị thặng dư C.Mác đã chỉ rõ quy luật vận động phát triển từ thấp đến cao của xã hội loài người đồng thời vạch rõ bản chất bóc lột tinh vi, tàn bạo và sự diệt vong tất yếu của CNTB. Phát kiến vĩ đại của C.Mác đã đưa phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản từ tự phát thành tự giác, biến CNXH từ không tưởng thành hiện thực. Phát kiến vĩ đại của Mác khẳng định sự diệt vong tất yếu của CNTB và sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản trong xóa bỏ phương thức sản xuất TBCN xây dựng một phương thức sản xuất mới, tiến bộ hơn, ở đó không còn chế độ người bóc lột người.
C.Mác cũng chỉ ra CNCS trải qua nhiều giai đoạn phát triển, đặc biệt là trải qua thời kỳ quá độ với những mặt, mảnh ghép của một xã hội mới con non yếu và xã hội đã lạc hậu nhưng chưa bị diệt vong. Đó là quá trình đấu tranh lâu dài, quanh co, phức tạp giữa cái cũ và cái mới, có thể có những bước thụt lùi tạm thời nhưng cái mới, cái tiến bộ tất yếu chiến thắng. Chủ nghĩa Mác ra đời không chỉ dựa trên mảnh đất hiện thực là sự vận động nội tại của nền sản xuất TBCN mà còn được khẳng định trên thực tế nhiều quốc gia áp dụng mô hình CNXH. Muốn hay không những kẻ cực đoạn chính trị nhất vẫn không thể phủ nhận những thành tựu mà CNXH hiện thực ở Liên Xô, Đông Âu, Việt Nam, CuBa…đã mang lại cho nhân loại tiến bộ. Nhưng những người cộng sản chân chính cũng không thể không khẳng định sự sụp đổ của CNXH hiện thực ở Liên Xô, Đông Âu chỉ là sự sụp đổ của một mô hình chứ không phải là sự sụp đổ về bản chất gốc rễ của CNXH từ lý luận Chủ nghĩa Mác. Điều đó cho thấy việc thành công hay thất bại tùy thuộc vào khả năng, trình độ của những người Cộng sản ở từng điều kiện hoàn cảnh khác nhau. Có chăng sự thất bại, bước thụt lùi  sẽ đến nếu trên con đường xây dựng CNXH xuất hiện những kẻ cơ hội chính trị, những kẻ xét lại ảo tưởng như Trương Công Định mà thôi.
Đôi lời nhắn nhủ
Dân tộc Việt Nam có truyền thống hiếu nghĩa ngàn đời, luôn dang rộng cánh tay với những người lầm đường, lạc lối. Tất cả vẫn chưa phải đã muộn với những ai biết sám hối, đạo lý “đánh kẻ chạy đi không ai đánh người chạy lại” của người Việt sẽ giúp những người như ông làm lại cuộc đời. Để hãy là người có ích, biết phát huy năng lực, trí tuệ, kiến thức hiểu biết của mình cho xã hội, cho dân tộc. Vì vậy, khi còn cơ hội hãy bỏ tối trở về với sáng; từ bỏ những giá trị tự do, dân chủ viễn vông, không tưởng của những kẻ ở trời Tây xa xôi để về với cuộc sống hiện thực tốt đẹp đang từng ngày, từng giờ nảy nở trên ngay chính quê hương, dân tộc mình./.


PHƯƠNG THỨC, THỦ ĐOẠN MỚI CỦA “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH”

Mục tiêu xuyên suốt trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch là không thay đổi, song chúng luôn có phương thức và thủ đoạn mới hết sức tinh vi, nham hiểm để chống phá cách mạng nước ta. Bởi vậy, thường xuyên nêu cao cảnh giác, nhận diện, vạch trần những chiêu trò mới của chúng để có giải pháp đấu tranh, phòng, chống hiệu quả là một nội dung hết sức quan trọng.
Sự biến thái mới về phương thức, thủ đoạn trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch hiện nay
Một là, chủ thể của “diễn biến hòa bình” không chỉ là các thế lực thù địch, các nước đế quốc tư bản mà còn có cả các nước theo chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, bành trướng và bá quyền, kể cả các phần tử cơ hội, bất mãn trong nước. Theo đó, động cơ chính trị của “diễn biến hòa bình” đã chuyển từ đấu tranh ý thức hệ trước đây sang đấu tranh vì lợi ích dân tộc cục bộ, trên nhiều phương diện. Dưới sự tác động của các thế lực bằng các chiêu bài khác nhau đã dẫn đến xung đột (nội chiến tương tàn) ngay trong lòng một đất nước, thậm chí lan rộng, ảnh hưởng đến cả một khu vực. Điển hình là cuộc chiến đậm màu ý thức hệ hiện đang diễn ra tại khu vực Trung Đông, Bắc Phi, v.v.
Hai là, phương thức hoạt động đã chuyển trọng tâm từ bên ngoài tác động vào bên trong các nước sang thúc đẩy các hoạt động chống đối ngay bên trong nội địa, trong nội bộ và tại chỗ là chính. Với chiêu thức thông qua các hoạt động tài trợ (cả công khai và ngấm ngầm), các thế lực thù địch đã nuôi dưỡng và thúc đẩy các “hội, nhóm” ngay trong nội địa hoạt động chống phá, thậm chí tạo cớ để can thiệp. Vụ đảo chính bất thành tại Thổ Nhĩ Kỳ, Xi-ry, hay lật đổ chế độ của Tổng thống Gaddafi ở Libya là một minh chứng.
Ba là, “diễn biến hòa bình” đã phát triển đến đỉnh cao, coi đó như là một “công nghệ lật đổ”, với kịch bản gồm: hình thành lực lượng đối lập sẵn sàng cho một cuộc bầu cử; đẩy mạnh chiến dịch truyền thông kích động trong các cuộc bầu cử; tẩy chay hoặc không công nhận kết quả bầu cử nếu phe đối lập không chiến thắng; tổ chức cho các đám đông với tên gọi là “người dân” xuống đường đấu tranh, cộng hưởng bởi các phương tiện truyền thông gây ra bạo lực đường phố. Đồng thời, có sự can thiệp từ bên ngoài vào với danh nghĩa ủng hộ “những chiến sĩ đấu tranh vì dân chủ” với cái cớ là “có gian lận trong bầu cử”; sử dụng công cụ thông tin và ngoại giao gây sức ép với chính quyền mới được bầu và ép họ từ chức, giải tán, hoặc bãi bỏ kết quả bầu cử; tuyên bố thắng lợi và công khai ủng hộ công nhận chính phủ mới thân họ. Ở ngay trong lòng châu Âu, “công nghệ lật đổ” được tiến hành tại U-crai-na thành công là một minh chứng sống động điển hình nhất. Hậu quả của nó chính là sự chia tách, ly khai giữa các vùng lãnh thổ và nguy cơ nội chiến có thể bùng phát bất cứ lúc nào.
Bốn là, gây sức ép về kinh tế - tài chính và tấn công mạng thông tin là hai phương thức nổi lên trong hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động và cường quyền đối với các nước nhỏ. Họ công khai ra các điều kiện mặc cả chính trị nếu không thì sẽ gia tăng các hình thức cấm vận, bao vây, cô lập về kinh tế, chính trị.
Năm là, triệt để sử dụng các trang mạng xã hội trên internet và vai trò của các tổ chức phi chính phủ để gieo mầm, thúc đẩy “xã hội dân sự”, kích động sự phản kháng của các phần tử chống đối ở trong nước biểu tình phản đối để lật đổ chế độ do các nhân vật và các đảng tiến bộ lãnh đạo.
Sáu là, làm thay đổi tính chất quốc gia, dân tộc, chế độ chính trị của các nước theo hướng có lợi cho chủ nghĩa đế quốc và cường quyền vì lợi ích địa chính trị - kinh tế thay vì mục tiêu chính trị cực đoan.
Đối với Việt Nam
Mục tiêu chống phá của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam là không thay đổi. Nhằm tạo sự chuyển hóa từ bên trong nội bộ Đảng, Nhà nước ta, chúng tập trung chống phá cả về lý luận, quan điểm, đường lối, xóa bỏ nền tảng tư tưởng và đòi tước bỏ cơ sở pháp lý đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; khuyến khích những quan điểm lệch lạc và những khuynh hướng xã hội “dân chủ”. Thực hiện ý đồ trên, chúng dùng các thủ đoạn, như: móc nối kích động để nhiều người, nhiều đối tượng cùng tham gia viết bài, tuyên truyền đi trái với đường lối, quan điểm của Đảng theo phương châm “mỗi người chỉ là một giọt nước” nhưng nhiều giọt nước sẽ ngấm dần, nhằm phân hóa nội bộ, chuyển hóa dần từ trong Đảng ra ngoài xã hội. Đồng thời, chúng đẩy mạnh tuyên truyền gieo rắc chủ nghĩa thực dụng, văn hóa phương Tây, tạo tâm lý hưởng thụ, lối sống tư sản,… qua đó từng bước chuyển hóa tư duy, nếp nghĩ, quan điểm của cán bộ, đảng viên, quần chúng, nhất là thế hệ trẻ.
Cùng với các thủ đoạn trên, các thế lực thù địch còn lợi dụng lòng yêu nước cực đoan, hay một số sơ hở, hạn chế của chính quyền cơ sở để tạo “sự kiện”, kích động những người nhẹ dạ, cả tin tuần hành, biểu tình trái luật tạo “điểm nóng” để kêu gọi sự can thiệp từ bên ngoài. Nhìn lại các cuộc biểu tình, đập phá, phá hoại có biểu hiện bạo loạn gần đây như ở tỉnh Bình Dương năm 2014, tỉnh Hà Tĩnh năm 2016 và ở tỉnh Bình Thuận tháng 6-2018, có thể thấy rất rõ các thế lực thù địch đã và đang âm mưu áp dụng những phương thức “bạo loạn chính trị” tại Việt Nam. Đặc biệt, sau khi Chủ tịch nước ký Lệnh công bố ban hành Luật An ninh mạng, chúng tiếp tục thổi phồng đạo luật này nhằm “lừa bịp nhân dân”, đe dọa nghiêm trọng cuộc sống người dân và vi phạm chính bản Hiến pháp 2013. Từ đó, chúng kêu gọi người dân không chỉ dùng Facebook mà chuyển sang dùng nhiều mạng xã hội khác để “đấu tranh”. Chúng phát động cái gọi là phong trào “bất tuân dân sự” đối với Luật An ninh mạng và sự quản lý của Nhà nước, v.v. Những sự việc đó nếu không được kiểm soát và ngăn chặn thì các đợt biểu tình, gây rối này sẽ tiếp tục tái phát, thậm chí lây lan, tạo ra hiệu ứng đô-mi-nô trong xã hội. Động cơ, mục đích của các đối tượng gây ra các vụ việc trên là nhằm rối loạn an ninh chính trị để tiến tới lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Từ những vụ việc trên cho thấy rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng Việt Nam bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn chính trị của các thế lực thù địch; bộc lộ rõ lực lượng, phương tiện, phương thức, âm mưu thủ đoạn tinh vi, nguy hiểm; có lúc công khai, trực diện, có sự hỗ trợ, tham gia của các đối tượng từ nước ngoài, v.v. Từ kích động tuần hành, biểu tình, tạo cớ đẩy lên thành bạo loạn; từ thăm dò phản ứng, hiệu quả ứng phó của cơ quan chức năng, chúng có thể tập dượt để đi tới tổng biểu tình đi kèm bạo loạn lật đổ chính quyền, hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội, chúng rêu rao: quân đội nên “trung lập hóa về chính trị”, “quân đội đứng ngoài chính trị”, quân đội phi giai cấp, do đó quân đội chỉ phục tùng Nhà nước chứ không chịu phục tùng bất cứ chính đảng nào. Thực chất chính là làm cho Quân đội ta đứng ngoài chính trị, mất phương hướng và mục tiêu chiến đấu; mưu đồ xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội. Thủ đoạn của chúng là lợi dụng tình hình chính trị, quân sự phức tạp trên thế giới và khu vực; những tiêu cực từ mặt trái của kinh tế thị trường, vấn đề tôn giáo, dân chủ, nhân quyền,… để tác động vào nhận thức, tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, chiến sĩ. Chúng lợi dụng triệt để mặt trái của công nghệ truyền thông và mạng xã hội để viết bài, thông tin tiêu cực, tán phát tài liệu sai trái về Quân đội, từ đó tác động, thẩm thấu vào nhận thức, tình cảm, niềm tin của cán bộ, chiến sĩ, gây hoài nghi về chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng và sự quản lý, điều hành của Nhà nước, làm cho bộ đội dao động tư tưởng, giảm sút ý chí, trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Cùng với đó, chúng ra sức tìm mọi cách bôi nhọ, làm xấu hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân, chia rẽ mối quan hệ quân - dân, kêu gọi thanh niên không nên nhập ngũ. Thủ đoạn của chúng là thường trá hình, mặc quân phục giả danh bộ đội để làm việc xấu; lợi dụng các cuộc tuần hành, biểu tình gây rối, đánh nhân dân để chụp ảnh, ghi hình tung lên mạng xã hội. Gần đây, lợi dụng sự bất cập trong quản lý đất quốc phòng ở một số đơn vị, chúng thổi phồng sự việc và quy chụp rằng: nguyên nhân sâu xa của vấn đề này là “do một đảng toàn trị, độc tài lãnh đạo quân đội nên quân đội được đặc quyền, đặc lợi mà không ai kiểm soát” (!). Việc làm của chúng không chỉ nhằm bôi nhọ hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, mà còn làm cho người dân có cái nhìn thiếu thiện cảm về bộ đội, làm suy giảm uy tín, hình ảnh của Quân đội ta, từ đó tác động tiêu cực đến niềm tin của nhân dân đối với Quân đội.
Nhận diện những chiêu trò mới về phương thức, thủ đoạn của chiến lược “Diễn biến hòa bình” nói chung, “phi chính trị hóa” Quân đội nói riêng, nhất là trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng của các thế lực thù địch là một nhiệm vụ hết sức quan trọng; từ đó, kịp thời có biện pháp đấu tranh phòng, chống hiệu quả. Đây vừa là yêu cầu cấp bách, vừa là nhiệm vụ, nội dung trọng tâm, thường xuyên của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân hiện nay.
TXV


TỔ CHỨC LẤY PHIẾU TÍN NHIỆM LÀ VIỆC LÀM ĐÚNG ĐẮN CỦA ĐẢNG TA

Trong thời gian gần đây, lợi dụng sự kiện Đảng ta tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn, trên trang Danlambao , Phạm Trần có bài viết nhằm công kích, bôi nhọ, hạ thấp uy tín của Đảng ta khi cho rằng, việc lấy phiếu tín nhiệm là “vờ vĩnh, mị dân”. Đồng thời, Phạm Trần còn cố tình đặt vấn đề việc Đảng ta lấy phiếu tín nhiệm ở 3 mức: “Tín nhiệm cao, tín nhiệm và tín nhiệm thấp để giữ người cùng phe là chính” mà “không dám làm theo hai bước tín nhiệm cao và tín nhiệm thấp”.
Như vậy, Phạm Trần đã cố tình xuyên tạc mục đích lấy phiếu tín nhiệm ở ba mức là “tín nhiệm cao”, “tín nhiệm” và “tín nhiệm thấp” của Đảng ta. Y đã sử dụng những lập luận mang tính chất xảo ngôn, lừa lọc; lấy những câu nói của lãnh đạo Đảng, Nhà nước “cắt, dán”, nhằm ngụy biện cho những nhận định lừa bịp, phản động của mình, để mọi người lầm tưởng việc Đảng ta tiến hành lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn là việc làm mang tính “hình thức”, “mị dân”. .
Thực chất hoạt động lấy phiếu tín nhiệm là nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân; giúp những người được lấy phiếu thấy được mức độ tín nhiệm của mình để có phương hướng khắc phục hạn chế, khuyết điểm, tiếp tục phấn đấu, rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, phát huy tối đa năng lực và nhiệt huyết để cống hiến, nâng cao hiệu quả công việc. Kết quả lấy phiếu tín nhiệm được là cơ sở, căn cứ để cơ quan có thẩm quyền đánh giá cán bộ, thực hiện quy hoạch, bố trí, sử dụng cán bộ một cách hiệu quả, đúng người, đúng việc… chứ không phải là việc làm mang tính chất “vờ vĩnh, mị dân… để giữ người cùng phe là chính” như Phạm Trần rêu rao, xuyên tạc
Thực tiễn việc lấy phiếu tín nhiệm tại Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp thời gian qua đã khẳng định rằng, việc lấy phiếu tín nhiệm đã phát huy tác dụng tốt, thu hút sự quan tâm, đồng tình, ủng hộ của dư luận, sự tin tưởng của cử tri và nhân dân cả nước. Đây thực sự là một kênh thông tin quan trọng để các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét mức độ tín nhiệm và đánh giá cán bộ chính xác hơn. Nhiều cán bộ tại lần lấy phiếu tín nhiệm đầu tiên có số phiếu “tín nhiệm thấp” chiếm tỷ lệ % cao. Thông qua việc làm này đã giúp họ sửa chữa kịp thời những hạn chế, yếu kém và biết cầu thị, cầu tiến trong rèn luyện đạo đức, tác phong công tác… hiệu quả trong công việc ngày càng nâng lên. Theo đó, trong lần lấy phiếu tín nhiệm tiếp theo, số phiếu tỷ lệ % số “tín nhiệm thấp” đã giảm rõ rệt và tỷ lệ % số phiếu “tín nhiệm cao”, “tín nhiệm” ngày càng nâng lên.
Thiết nghĩ, Phạm Trần là người dân đất Việt thì phải có những đóng góp tích cực cho đất nước chứ đừng đưa ra những luận điệu mang tính chất công kích, lừa bịp, xảo trá và phản động như vậy.
TXV


TÁC ĐỘNG MẠNG XÃ HỘI VÀ CÂU CHUYỆN PHẢI "NGHE BẰNG HAI TAI"


Sự ra đời và phát triển của mạng thông tin toàn cầu Internet và các công nghệ truyền dẫn không dây đã và đang làm nên một cuộc cách mạng lớn trong lĩnh vực thông tin - truyền thông. Cùng với sự đi lên của đời sống kinh tế - xã hội và sự phát triển của khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ, sự tác động mạnh của Internet là tất yếu và nhanh chóng tạo ra những biến đổi về văn hóa - xã hội sâu sắc ở mọi nơi, mọi ngõ ngách của cuộc sống loài người.
Mạng xã hội xuất hiện ở Việt Nam vào khoảng năm 2005 - 2006 với sự thâm nhập và phát triển của các mạng xã hội nước ngoài và sự hình thành, phát triển của mạng xã hội do người Việt tạo ra. Cùng với sự xuất hiện của hàng loạt các mạng xã hội lớn trên thế giới như Linkedin (ra đời năm 2002), Facebook (2004), Youtube (2005), Twitter (năm 2006), Google+ (2011), có sự xuất hiện và phát triển của hàng loạt mạng xã hội thuần Việt như ZoomBan, Yobanbe, FaceViet.com, VietSpace, Clip.vn. Yume, Tamtay.vn, Truongxua.vn, ZingMe, Go.vn,...
Chưa bao giờ, sức mạnh của mạng xã hội lại được phát huy như thời điểm này, khi mà bất cứ một thông tin “lạ” nào được đưa ra cũng đủ khiến cả cộng đồng sục sôi. Cư dân mạng dường như đang trở thành những “người mù” bị dắt mũi theo những luồng thông tin không chính thống, chưa được kiểm chứng, để rồi từ đó, bao hệ lụy xảy ra.
* Khi cư dân mạng “cuồng” chửi bới:
Biểu hiện rõ ràng nhất của văn hóa mạng chính là “ngôn ngữ mạng xã hội” Ngôn ngữ mạng có khởi đầu giống như “tiếng lóng” hay “từ chuyên môn”, chỉ phục vụ một nhóm nhỏ người dùng, nhưng sau đó, do sự kết nối không giới hạn của các mạng xã hội mà nó nhanh chóng trở thành một “tài sản chung” của một cộng đồng rộng lớn người dùng thông qua sự tương tác vượt trội của mạng xã hội. Cao hơn nữa, ngôn ngữ mạng xã hội là của những người cùng giaotiếp thong qua mạng xã hội. Tức là toàn bộ quá trình giao tiếp được bộc lộ bằng ngôn ngữ trên mạng xã hội. Chính vì thế ngôn ngữ trên mạng xã hội vừa phản ánh những đặc thù giao tiếp trên mạng xã hội, vừa phản ánh một hiện tượng của đời sống. Hay nói cách khác, ngôn ngữ mạng xã hội phản ánh văn hóa của người dùng trên mạng xã hội.
Một vấn đề đáng lo ngại là việc sử dụng ngôn ngữ mạng xã hội là một sự hỗn tạp, lai căng làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt, đặc biệt là giới trẻ. Việc dùng tiếng Việt kết hợp với ngôn ngữ khác (phổ biến nhất là kết hợp với tiếng Anh) có xu hướng tăng lên đáng báo động. Tiếng Việt được dùng theo cách riêng với sự kết hợp “lạ hóa” và khó hiểu. Các biểu hiện lệch chuẩn về đạo đức, văn hóa trên mạng xã hội hiện nay đã đến mức đáng báo động. Nếu không có các thiết chế hoặc chế tài phù hợp để ngăn chặn thì rất có thể những hiện tượng đó sẽ tiếp tục lan rộng và phát triển thành những hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Kiểu tung tin câu like này không hiếm, nhưng điều đáng nói là ở khía cạnh những người tiếp nhận thông tin. Không ít cư dân mạng đã không hề nghi ngờ trước nguồn tin thất thiệt này, thi nhau like, chia sẻ, rủ nhau đi tham gia lễ hội. Trong số đó, cũng có không ít người chế giễu, chửi bới chính quyền trong khi không kiểm chứng được nội dung bị cuốn vào hiệu ứng đám đông.
* Cần lựa chọn giữa sự vùi dập và tình yêu thương!
Quả thật, mạng xã hội đã trở thành một công cụ hữu ích cho những kẻ vô công rồi nghề muốn “làm nổi”, hoặc những kẻ muốn kinh doanh trục lợi bằng cách tạo sự chú ý của đám đông. Không ít lần, cộng đồng mạng đã “mắc lỡm” bởi những tin đồn chưa xác định như thế: tin “sái cổ” trước những thông tin sai lệch như rơi máy bay, bắt cóc lấy nội tạng, các tin đồn thất thiệt liên quan đến cơ quan quản lý nhà nước; hùa nhau chửi bới, sỉ nhục người khác chỉ với vài bức ảnh, clip được cắt ghép; thương cảm, xót xa, thậm chí quyên góp tiền cho những tình cảnh bất hạnh mà chỉ mới thấy được thông tin, hình ảnh, chưa có gì làm bằng cớ đây là câu chuyện thật đang tồn tại…
Thực tế thì, những bức ảnh, những clip, những câu chuyện đôi khi chỉ thế hiện một phần rất nhỏ của sự thật đằng sau, thậm chí đã bị bóp méo, sai lệch so với sự thật. Không ít lần, những nạn nhân của tin đồn, của hình ảnh đã phải chịu biết bao áp lực đáng sợ, phải đính chính và nhờ đến cơ quan chức năng can thiệp để lấy lại danh dự và sự bình an cho mình.
Trong cuộc sống, người ta thường nhắn nhủ nhau “nghe bằng hai tai”, để có thể sáng suốt nhận diện sự thật. Trên mạng ảo, nơi thị phi trắng đen khó kiểm chứng, nơi không ít người dùng bàn phím, câu chữ để phục vụ lợi ích bất chính cho mình, bất chấp tổn hại đến người khác thì sự tiếp nhận thông tin càng phải thận trọng hơn nữa: Không chỉ cần nghe bằng hai tai mà phải nhìn nhận bằng cả.
* Lý trí, cảm nhận bằng cả trái tim.
Bởi, những bình luận, chia sẻ chỉ là hành động trên thế giới ảo, nhưng sự tổn thương là có thật. Thiếu bình tĩnh và hùa theo đám đông mù quáng, rất có thể, những câu chữ tưởng như vô hại mà người ta buông ra rồi quên ngay ấy, có thể hại đến sinh mạng, đến tương lai một hay nhiều con người. Cẩn trọng trước mọi thông tin, tiếp nhận chừng mực cũng chính là cách mà một con người văn minh hành xử trên mạng để thế giới ảo giảm tiêu cực, bớt chuyện đau lòng, đem lại nhiều hơn lợi ích và tình yêu thương.
* Tự tạo dựng nhân cách tốt cho các chủ thể tham gia văn hóa mạng:
Đối với Nhóm đối tượng là người dùng trên các trang mạng xã hội, cần tăng cường trang bị tri thức về việc phát triển năng lực cá nhân để mỗi người tự ý thức về trách nhiệm, quyền hạn của chính mình khi tham gia mạng xã hội. Nâng cao năng lực cá nhân cần được áp dụng trong cả môi trường gia đình, nhà trường. Để tăng cường phát triển năng lực cá nhân, công tác truyền thông nâng cao nhận thức cho người sử dụng mạng xã hội cũng cần được chú trọng hơn nữa. Đặc biệt cần phải nâng cao giá trị thông tin của báo chí, để báo chí trở thành công cụ định hướng tốt cho công chúng, tránh bỏ mất độc giả.
Cần nâng cao năng lực xã hội cho các cá nhân, đặc biệt là cho nhóm học sinh, sinh viên. Đây là nhóm đối tượng chiếm phần lớn và là nhóm công chúng chính trên các trang mạng Internet. Năng lực xã hội giúp cho các cá nhân biết được mình là ai, mình có mối quan hệ như thế nào với cộng đồng, xã hội, với các tổ chức hay cá nhân khác trong xã hội. Nâng cao năng lực xã hội cho các cá nhân nên trở thành các chương trình cụ thể áp dụng trong các trường học, đồng thời thực hiện các chiến dịch truyền thông xã hội lớn để hỗ trợ thông tin cho các hoạt động trong nhà trường.
Đối với Nhóm đối tượng là các công ty công nghệ, các nhà mạng. Đối với nhóm đối tượng này, nhà nước cần đưa ra các tiêu chuẩn kinh doanh tại Việt Nam và khuyến cáo các công ty công nghệ áp dụng, trong đó có những cảnh báo về các chuẩn mực đạo đức mà nhà mạng đòi hỏi. Việc ngăn chặn tác động xấu và yêu cầu các sản phẩm nước ngoài tuân thủ nghiêm ngặt quy định luật pháp Việt Nam trên môi trường Internet cần được tiến hành bằng cả giải pháp quản lý và giải pháp kỹ thuật một cách nghiêm túc.

Nhóm đối tượng là cơ quan quản lý nhà nước. Đây là nhóm đối tượng đặc biệt, thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực này: Cần sớm rà soát, bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm môi trường pháp lý rõ ràng, công khai, minh bạch và bình đẳng cho mọi đơn vị, cá nhân cung cấp và sử dụng thông tin Internet trên lãnh thổ Việt Nam. Rà soát và sửa đổi, bổ sung nhằm nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả các văn bản hiện có phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Xây dựng các văn bản mới phù hợp với xu thế phát triển và yêu cầu công tác quản lý nhà nước. Nghiên cứu đề xuất, đàm phán các cơ chế phối hợp giữa các quốc gia trong việc quản lý các dịch vụ thông tin xuyên biên giới, phù hợp với các cam kết quốc tế và yêu cầu hội nhập./.

Nhận diện rõ ràng, đấu tranh kiên quyết với âm mưu lợi dụng vấn đề tham nhũng để chống phá Việt Nam

Đấu tranh phòng, chống tham nhũng (PCTN) là một bộ phận quan trọng cấu thành toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Không phải đến bây giờ mà cuộc đấu tranh PCTN đã được tiến hành ở Việt Nam kể từ khi Đảng ta ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam năm 1930 cho đến nay...
Có thể nói, chưa bao giờ công tác đấu tranh PCTN lại được Đảng, Nhà nước ta lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt như thời gian gần đây. Giữa lúc quyết tâm chính trị, tinh thần đấu tranh PCTN của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang lên cao thì các thế lực thù địch, phản động, những phần tử cơ hội lại ra sức lợi dụng vấn đề này để tiến hành các hoạt động chống phá. Hơn lúc nào hết, trách nhiệm của mỗi chúng ta là phải nhận thức rõ ràng, đấu tranh kiên quyết với những âm mưu, thủ đoạn đó.
Những giọng điệu xuyên tạc, bịa đặt trắng trợn
Trong thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động và những phần tử cơ hội chính trị thường xoáy sâu vào những vấn đề nhạy cảm, phức tạp, trong đó tham nhũng là vấn đề được chúng triệt để lợi dụng. Cả thế giới đã thừa nhận, tham nhũng là tệ nạn mang tính toàn cầu, tham nhũng xuất hiện và tồn tại ở mọi quốc gia trên thế giới, các nước dù đi theo chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) hay tư bản chủ nghĩa đều phải đối mặt với tệ nạn này, nguyên nhân dẫn đến tham nhũng không phải do chế độ chính trị hay do đảng phái nào nắm quyền lãnh đạo đất nước... Thế nhưng các thế lực thù địch, phản động lại ra sức rêu rao rằng: “Chế độ một đảng cầm quyền là nguyên nhân sinh ra tệ tham nhũng”; “do đảng cầm quyền độc đoán cai trị nên tình trạng tham nhũng xảy ra...”; “tham nhũng là sản phẩm tất yếu của chế độ công hữu tư liệu sản xuất, chuyên chế độc đảng”... Không chỉ vậy, họ còn cho rằng: Tham nhũng chỉ xuất hiện ở những nước đi theo con đường XHCN, “tham nhũng là vấn đề thuộc bản chất của chế độ XHCN ở Việt Nam”... Thực chất của giọng điệu ấy không gì khác là lợi dụng cuộc đấu tranh chống tham nhũng để xuyên tạc, bịa đặt, nói xấu hòng làm suy giảm uy tín tiến tới mục tiêu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam. Khi mà chúng ta chưa đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng hoặc đã làm nhưng kết quả chưa rõ nét thì họ cho rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam không thể đấu tranh chống tham nhũng, suy thoái thành công vì Đảng cũng tham nhũng, suy thoái”... Khi Đảng và Nhà nước ta thể hiện quyết tâm chính trị, đẩy mạnh cuộc đấu tranh PCTN, kiên quyết xử lý hàng loạt cán bộ, đảng viên có hành vi tham nhũng, tiêu cực thì chúng lại tung ra những giọng điệu lạc lõng, dựng chuyện, xuyên tạc rằng thực chất cuộc đấu tranh PCTN ở Việt Nam hiện nay là “cuộc chiến thanh trừng phe phái trong nội bộ Đảng”, "là sự đấu đá nội bộ, phe phái trong Đảng Cộng sản Việt Nam". Đề cập đến câu hỏi làm thế nào để dẹp bỏ nạn tham nhũng ở Việt Nam, họ cho rằng: “Chỉ khi nào ở Việt Nam có chế độ đa đảng thì nạn tham nhũng mới có thể dẹp bỏ được”... Từ những thông tin cóp nhặt trên mạng xã hội, họ còn vẽ ra, dựng nên những câu chuyện nói rằng các phe nhóm nội bộ ở Trung ương và địa phương đang đấu đá nhau... Đặc biệt, họ thường suy diễn, chụp mũ, xuyên tạc những ý kiến chỉ đạo chống tham nhũng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và một số đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước... Những giọng điệu ấy không nhằm mục đích gì khác là xuyên tạc mục đích, ý nghĩa tốt đẹp của cuộc đấu tranh này; bôi nhọ, hạ thấp uy tín của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước; chia rẽ nội bộ ta, gây phân tâm trong xã hội, làm giảm sút ý chí, quyết tâm PCTN và lòng tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ.
Kết quả của công tác chống tham nhũng là không thể phủ nhận
Cần khẳng định rõ rằng những âm mưu, thủ đoạn nham hiểm, tinh vi, những giọng điệu xuyên tạc, bịa đặt lạc lõng ấy không thể phủ nhận được sự cố gắng, quyết tâm chính trị và những thành quả trong cuộc đấu tranh PCTN của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Trong 5 năm gần đây, đặc biệt là những năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, công tác PCTN được Đảng, Nhà nước ta chỉ đạo rất quyết liệt, tạo được một bước tiến mạnh, đạt được nhiều kết quả quan trọng, tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội. Nhiều vụ án tham nhũng, kinh tế đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm được phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh, đúng pháp luật, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đến nay, có gần 1.300 đảng viên bị thi hành kỷ luật do tham nhũng và cố ý làm trái. Tòa án nhân dân các cấp cũng đã xét xử sơ thẩm 436 vụ án, với 1.118 bị cáo về các tội tham nhũng. Các lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng đã được Thanh tra Chính phủ tập trung thanh tra, kiểm tra. Qua đó, đã chuyển cơ quan điều tra xử lý hình sự 188 vụ với 335 đối tượng. Kiểm toán Nhà nước cũng đã kiểm toán 434 đơn vị đầu mối, kiến nghị thu hồi về cho ngân sách Nhà nước hơn 65.000 tỷ đồng.
Các cơ quan chức năng đã chủ động, công khai cung cấp thông tin, định hướng dư luận trong hoạt động PCTN, phát huy vai trò tích cực của các cơ quan truyền thông, báo chí trong PCTN. Vai trò, trách nhiệm của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội, các tổ chức xã hội và người dân trong PCTN ngày càng được phát huy tốt hơn... Hoạt động hợp tác quốc tế về PCTN được mở rộng. Kết quả công tác PCTN của Việt Nam những năm gần đây đã được các tổ chức quốc tế ghi nhận có nhiều chuyển biến tích cực. Theo đánh giá của Tổ chức Minh bạch quốc tế, chỉ số cảm nhận tham nhũng của Việt Nam tăng liên tiếp trong hai năm sau nhiều năm giữ nguyên, từ 31 điểm năm 2015 tăng lên 35 điểm trong năm 2017.
Ngoài việc góp phần tạo ra bước phát triển về kinh tế-xã hội, công tác đấu tranh PCTN góp phần tăng cường, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, vào chế độ XHCN. Kết quả của công tác PCTN đã tạo động lực mới, khí thế mới để toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Những kết quả ấy càng khẳng định rõ quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước về PCTN. Đồng thời đó cũng là minh chứng để khẳng định rõ việc đẩy mạnh PCTN, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiên quyết xử lý nghiêm khắc nhiều cán bộ, đảng viên sai phạm không làm hạn chế sức sáng tạo, tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của những người tâm huyết, vì sự nghiệp đổi mới của Đảng, với động cơ trong sáng, lành mạnh, không “làm chậm” sự phát triển, mà ngược lại làm trong sạch, tạo sức mạnh thật sự của bộ máy và đội ngũ cán bộ, củng cố và tăng cường lòng tin của nhân dân, tạo động lực mới, khí thế mới để thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ, thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới đất nước. Những kết quả đó càng chứng tỏ những luận điệu của các thế lực phản động về cuộc đấu tranh PCTN của Việt Nam là xuyên tạc, bịa đặt, vô căn cứ.

Facebook: Hoàng Văn Năm>> Sách bên hoa

HỘI, NHÓM XÃ HỘI DÂN SỰ VÀ CÂU CHUYỆN VỀ CÂU LẠC BỘ LÊ HIẾU ĐẰNG

Trên các trang mạng xã hội, đến nay các thế lực thù địch đã hình thành và đưa vào hoạt động các hội, nhóm trái pháp luật nhằm hô hào, vận động những kẻ “cùng hội cùng thuyền”, có tư tưởng bất mãn, cực đoan tham gia nhằm “khuếch trương thanh thế”, các hội, nhóm này dùng các trang mạng xã hội để phát tán bài viết, sáng tác, thư ngỏ… có nội dung xuyên tạc, chống phá Đảng, thể chế chính trị của nước ta làm nhiễu loạn thông tin, gây tâm lý hoang mang, dao động… Một số tiêu biểu như “Hội Nhà báo độc lập Việt Nam”, “Văn đoàn độc lập Việt Nam”, “Liên đoàn Lao động Việt tự do”, “Hội Phụ nữ nhân quyền”, “Khối 8406”, “Nhóm kiến nghị 72”…
Hiện nay, các hội, nhóm đang cấu kết, móc nối với các đối tượng cực đoan trong và ngoài nước để phát triển lực lượng; liên kết để hình thành thêm các hội, nhóm mới, các Câu lạc bộ (CLB), các tổ chức “xã hội dân sự” đối lập nhằm tăng cường hoạt động chống phá. Đặc biệt, việc lén lút liên kết giữa các hội, nhóm, CLB để “nhân bản” cái gọi là “chi nhánh” của những tổ chức này đang là vấn đề đáng quan tâm! Trong số đó có “CLB Lê Hiếu Đằng” tồn tại ba năm qua tại TP.HCM... Ra đời sau cùng với phương thức hoạt động khác với các hội nhóm khác như No-U, Hội nhà báo tự do, Phong Trào Dân chủ…. "CLB Lê Hiếu Đằng" nổi lên ngay sau khi No-U bị tan rã.
Nói về Lê Hiếu Đằng (1944 - 2014) - nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam TP.HCM (1989-2009). Dù hơn 40 năm tuổi Đảng, có nhiều cống hiến cho cách mạng song Lê Hiếu Đằng “đổi hướng”, đi ngược lại với quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và thành quả của cách mạng; là người ký tên đầu tiên trong “Nhóm kiến nghị 72” đòi bỏ Điều 4 trong Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (sửa đổi và bổ sung năm 2013); kêu gọi đa nguyên đa đảng; đòi đổi tên Nước, đổi tên Đảng thành “Đảng dân chủ Xã hội”. Ngoài ra, Lê Hiếu Đằng còn vận động thành lập nhiều tổ chức mang màu sắc đa nguyên đa đảng nhằm phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo điều kiện cho các tổ chức phản động trong và ngoài nước xuyên tạc chính sách pháp luật của Việt Nam.
Tháng 10/2015, “CLB Lê Hiếu Đằng” ra đời tại TP.HCM, do 03 thành viên sáng lập: Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Công Giàu và Huỳnh Kim Báu (làm Chủ nhiệm). CLB này “mượn” danh Lê Hiếu Đằng đặt tên, với tôn chỉ mục đích: các thành viên gặp gỡ, tưởng nhớ luật gia Lê Hiếu Đằng, giúp đỡ nhau trong công việc sinh sống làm ăn, tham gia các hoạt động bảo vệ chủ quyền đất nước, chống thế lực bành trướng, phản biện, xây dựng xã hội dân chủ, bảo vệ môi trường, hội thảo khoa học... "CLB Lê Hiếu Đằng" thực chất là một tổ chức xã hội dân sự đối lập, chủ trương xuyên tạc, nói xấu, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, kêu gọi đa nguyên đa đảng, vận động, lôi kéo những cán bộ, Đảng viên có tư tưởng lưng chừng rời bỏ Đảng, tạo ra phong trào “xin ra khỏi Đảng” hết sức nguy hiểm trong tình hình chính trị hiện nay…
Đến thời điểm này, CLB Lê Hiếu Đằng ở TP.HCM đã tập hợp 30 thành viên tiêu biểu như: Nguyễn Quang A, Huỳnh Ngọc Chênh, Nguyên Ngọc, Chu Hảo, Sương Quỳnh, Lê Phú Khải, Tô Lê Sơn, Phan Thị Hoàng Oanh, Nguyễn Đắc Diên... Tuy đều là những nhân sĩ trí thức, có trình độ học vấn cao, một số làm việc trong các cơ quan Đảng và Nhà nước hay là lão thành cách mạng nhưng CLB này đang “tung hoành” gây nhiều khó khăn cho chính quyền địa phương như: tổ chức các buổi tưởng niệm các chiến sĩ Gạc Ma mà mục đích chính là hội họp nhóm chống cộng cùng những lãnh tụ “dân chủ, nhân quyền” trong nước, tham gia các cuộc tưởng niệm này, chúng đưa luôn các băng rôn, khẩu hiểu xuyên tạc, kích động đồng thời tung các nội dung sai lệch, tuyên truyền luận điệu xuyên tạc về tình hình Việt Nam, lợi dụng các ngày kỉ niệm rồi lồng ghép, tiến hành những nội dung sai lệch để tung tin lên các blogger dân chủ, các đài xuyên tạc như VOA, RFA, Viêt Tân… nhằm gây mất an ninh trật tự, mất hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế; tọa kháng trước cổng Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh để yêu cầu chính quyền giải thích tại sao ngăn cản dân tưởng niệm chiến sĩ và đồng bào hy sinh trong cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc (ngày 17/2/1979); tán phát tài liệu sai sự thật có tên là tuyên bố chống tra tấn và trừng phạt hoặc đối xử tàn ác, vô nhân đạo nhằm xuyên tạc, phủ nhận chính sách nhân quyền tại Việt Nam...
 Hiện nay, “CLB Lê Hiếu Đằng” đang tích cực móc nối, mời gọi các hội, nhóm, CLB trái pháp luật ở các địa phương khác tham gia nhằm mở rộng địa bàn và phạm vi hoạt động tại các tỉnh, thành trong cả nước thực hiện mục tiêu chống phá trong thời gian tới… Với sự chống lưng cùng nguồn tài trợ dồi dào từ các tổ chức phản động bên ngoài, các tổ chức chống cộng cùng với hoạt động của số đối tượng "dân chủ nhân quyền" và sự ra đời của hàng trăm hội nhóm núp bóng để kích động người dân nhẹ dạ cả tin tham gia hoạt động lật đổ từ bên trong, các hội nhóm này ra đời ngày càng nhiều.
Từ “nhận diện” bộ mặt thật của các CLB trá hình - một tổ chức xã hội dân sự đối lập, các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội cần tập trung tuyền truyền định hướng thông tin, chú trọng giáo dục chính trị tư tưởng để cán bộ, đảng viên và nhân dân nâng cao cảnh giác trước những luận điệu xảo trá, xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch; nhận thức đúng đắn, không tham gia các hội, nhóm, CLB trái pháp luật.
Đồng thời, kiên quyết đấu tranh với các đối tượng cực đoan cố hữu là người địa phương tham gia trong các Hội, Nhóm, CLB trái pháp luật không để móc nối, lôi kéo hình thành các hội, nhóm, CLB mới trái pháp luật. Những chiêu trò cũ rích này đã bị người dân vạch trần, việc tưởng niệm của "CLB Lê Hiếu Đằng" một lần nữa chính là bằng chứng khẳng định các đối tượng chống đối chính trị chẳng qua chỉ là kẻ lợi dụng nỗi đau dân tộc để thực hiện mưu đồ cách mạng màu, phá hoại tổ quốc từ bên trong, thiết nghĩ người dân nên tẩy chay và cách ly đám phản động này ra khỏi xã hội để đất nước ta phát triển bền vững hơn./.
Facebook: Nguyễn Hữu Thêm >> Sách bên hoa



Tỉnh táo nhận diện những lời lẽ xuyên tạc “lá phiếu tín nhiệm”

Việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các thành viên lãnh đạo cấp cao của Đảng luôn nhận được sự quan tâm của đông đảo các tầng lớp nhân dân và dư luận xã hội. Tuy nhiên, đón trước sự kiện này, một số người đã tỏ ra “quan tâm thái quá”, “lo lắng trên mức bình thường”; có người “cầm đèn chạy trước ô tô” bày tỏ sự hoài nghi, đoán già đoán non rằng, việc lấy phiếu tín nhiệm của Trung ương Đảng chỉ là hình thức... Có người còn cực đoan nhìn nhận, việc đánh giá mức độ tín nhiệm thông qua 3 mức độ là “tín nhiệm cao, tín nhiệm, tín nhiệm thấp” không những không đánh giá đúng thực chất đối tượng được đánh giá, mà còn “đánh đồng” giữa những người có tín nhiệm cao và tín nhiệm thấp (!). Trắng trợn hơn, có kẻ cơ hội chính trị xuyên tạc rằng, đối với một chế độ cộng sản độc tài thì việc lấy phiếu tín nhiệm trong Đảng chỉ là một cách “che mắt, đánh lừa dư luận” về dân chủ trong Đảng (!); thậm chí còn rêu rao, sau những cuộc đấu tranh, thanh trừng giữa các phe phái trong Đảng, những phiếu tín nhiệm cao sẽ thuộc về phe bảo thủ tạm thời thắng thế trên đấu trường chính trị (!).
Thành ngữ có câu “Nghe hơi nồi chõ” với hàm ý phê phán những kẻ hay hóng hớt, thích “chõ mũi” vào câu chuyện người khác, dù chưa biết thực hư ra sao nhưng vẫn phỏng đoán lung tung, bàn ra tán vào không có cơ sở. Cũng có câu thành ngữ “Thầy bói xem voi” với ý chê bai những kẻ xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng theo cảm tính chủ quan, phiến diện, một chiều, chỉ nhìn thấy hiện tượng đơn lẻ mà không thấy bản chất cũng như tính khách quan, toàn diện, thấu đáo của vấn đề trên mọi khía cạnh. Khi Hội nghị lần thứ 9 BCH Trung ương Đảng khóa XII chưa diễn ra, mà những “kẻ ngoài lề” vẫn tùy tiện nhận định việc lấy phiếu tín nhiệm trong Đảng như vậy cũng chẳng khác nào “nghe hơi nồi chõ” và “thầy bói xem voi”!
Việc lấy phiếu tín nhiệm đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đã được Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định là việc làm cần thiết, được thực hiện dân chủ, khách quan, công bằng, minh bạch. Thông qua lá phiếu tín nhiệm nhằm giúp cấp ủy có một kênh thông tin tham khảo quan trọng, làm cơ sở cho việc đánh giá chính xác, bố trí sử dụng đúng cán bộ. Việc xác định 3 mức độ “tín nhiệm cao, tín nhiệm, tín nhiệm thấp” trong quy trình lấy phiếu tín nhiệm đối với cán bộ lãnh đạo không phải là hình thức “cào bằng” khi xem xét, nhận định mức độ hoàn thành cương vị chức trách của cán bộ như có người suy nghĩ phiến diện, mà chủ yếu nhằm tiếp cận, đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và chất lượng, hiệu quả công tác của người được lấy phiếu tín nhiệm. Hơn nữa, việc xác định 3 mức độ tín nhiệm này nhằm bảo đảm cho việc lấy phiếu tín nhiệm được khách quan hơn, thận trọng hơn, thấu đáo hơn, tránh hiện tượng cảm tính mà người bỏ phiếu dễ nhận định, đánh giá chưa đúng mực, chuẩn xác về cán bộ được lấy phiếu tín nhiệm.
Quy định số 262-QĐ/TW của BCH Trung ương Đảng khóa XI đã chỉ rõ: Việc lấy phiếu tín nhiệm đối với cán bộ lãnh đạo dựa trên hai tiêu chí căn bản là phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và năng lực thực tiễn. Vì vậy, những cán bộ nào có lập trường, bản lĩnh chính trị vững vàng, trách nhiệm cao trong công tác, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc, có đức tính trung thực, công tâm, liêm khiết, kiên quyết phòng, chống tham nhũng, bản thân và gia đình gương mẫu về đạo đức, lối sống, có uy tín trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; đồng thời dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, hoàn thành xuất sắc chức trách, nhiệm vụ được phân công và góp phần xây dựng cơ quan, đơn vị, địa phương mình phụ trách ngày càng vững mạnh, phát triển thì chắc chắn nhận được nhiều số phiếu ủng hộ, tín nhiệm cao.
Đảng ta đã có kinh nghiệm tổ chức lấy phiếu tín nhiệm các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư tại Hội nghị lần thứ 10 BCH Trung ương Đảng khóa XI. Trên cơ sở những kết quả đã đạt được từ lần lấy phiếu tín nhiệm đầu tiên, chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin tưởng và khẳng định rằng, việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư lần này sẽ được BCH Trung ương thực hiện dân chủ, khách quan, công tâm, minh bạch, bảo đảm đúng mục tiêu, yêu cầu đề ra.
Với truyền thống đoàn kết và trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, đợt lấy phiếu tín nhiệm lần này đối với các chức danh lãnh đạo cấp cao của Đảng sẽ được tiến hành bài bản, chu đáo, thận trọng, nghiêm túc. Động thái này thêm một lần khẳng định Đảng ta nói chung, mỗi cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng nói riêng luôn có ý thức, tinh thần cầu thị, tôn trọng lắng nghe và tiếp thu ý kiến đóng góp của cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng và nhân dân. Những thông số của mỗi lá phiếu tín nhiệm đối với các chức danh lãnh đạo cấp cao của Đảng là tiền đề, cơ sở để mỗi cán bộ được lấy phiếu tín nhiệm tiếp tục rèn luyện, phấn đấu, không ngừng hoàn thiện phẩm chất nhân cách và nâng cao năng lực công tác, thực hiện tốt hơn, hiệu quả hơn cương vị, trọng trách được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Facebook: Trai Kinh Bắc >> Sách bên hoa


Mối quan hệ và sự chuyển hóa giữa an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống

An ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống là hai mặt của khái niệm an ninh toàn diện, chính vì vậy để chỉ ra sự chuyển hóa mối quan hệ giữa an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống cần dựa vào tính chất của an ninh phi truyền thống, mà ở đây bao gồm 4 tính chất cụ thể sau:
Tính toàn cầu
Nếu như các vấn đề an ninh truyền thống được nhìn nhận dưới góc độ cấp quốc gia hoặc nhóm các quốc gia thì các vấn đề an ninh phi truyền thống lại được nhìn nhận không chỉ ở riêng một hay một nhóm các quốc gia mà nó liên quan tới lợi ích của toàn cầu.
Đầu tiên, có thể thấy các vấn đề thuộc về an ninh phi truyền thống như dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, khủng hoảng tài chính, chủ nghĩa khủng bổ… đều là những vấn đề có tầm ảnh hưởng rộng, tất cả các quốc gia trên thế giới đều phải đối mặt và không có quốc gia nào được loại trừ. Thứ hai, các vấn đề an ninh phi truyền thống có tính khuếch tán rộng, ví dụ như khủng hoảng tài chính năm 2007 mới đầu diễn ra tại Mỹ với sự sụp đổ của hàng loạt hệ thống ngân hàng, tuy nhiên sau đó đã lan ra toàn thế giới và hậu quả của nó rất khó để kiểm soát. Thứ ba, những nhân tố, yếu tố, chủ thể của an ninh phi truyền thống như tổ chức khủng bố, an ninh mạng… nằm rải khắp và có mạng lưới trên toàn thế giới.
Tính đa dạng
Cùng với sự phát triển và toàn cầu hóa, các vấn đề an ninh phi truyền thống xuất hiện ngày càng nhiều. Trong Tuyên bố chung ASEAN - Trung Quốc về hợp tác trên lĩnh vực an ninh phi truyền thống năm 2002 đã liệt kê các vấn đề an ninh phi truyền thống gồm: buôn lậu, ma túy, buôn bán phụ nữ và trẻ em, cướp biển, khủng bố, buôn lậu vũ khí, rửa tiền, tội phạm, kinh tế quốc tế và tội phạm công nghệ cao.
Từ góc độ an ninh quốc gia, có thể chia an ninh phi truyền thống thành các nhóm vấn đề sau: an ninh chính trị, an ninh quân sự, an ninh xã hội, an ninh kinh tế, an ninh tiền tệ, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh sinh thái.
Từ tính chất đe dọa và đối tượng bị đe dọa, an ninh phi truyền thống được chia thành 5 loại chính gồm: vấn đề an ninh liên quan đến sự phát triển bền vững; mối đe dọa, uy hiếp đến từ sự ổn định an ninh khu vực và quốc tế; tổ chức tội phạm xuyên quốc gia; tổ chức tồn tại ngoài nhà nước thách thức trật tự an ninh quốc tế; vấn đề an ninh gây ra bởi sự phát triển công nghệ và toàn cầu hóa.
Tính bộc phát
Các mối đe dọa đến từ an ninh truyền thống chủ yếu thông qua các mâu thuẫn lợi ích dẫn tới chiến tranh vũ trang. Những mối đe dọa này hoàn toàn có thể được kiểm soát và hạn chế mức độ nghiêm trọng với sự chủ động từ cả hai phía. Thời gian và cách thức diễn ra của các mối đe dọa đến từ an ninh truyền thống cũng có diễn biến tuần tự và thường không diễn ra một cách chớp nhoáng. Tuy nhiên các mối đe dọa đến từ an ninh phi truyền thống lại bùng nổ nhanh chóng, diễn ra đột ngột, khó kiểm soát, thiếu dấu hiệu rõ ràng. Ví dụ như các vụ khủng bố diễn ra trên toàn cầu đều xảy ra và không hề được phòng bị. Hoặc như đại dịch AIDS những năm 1980, bệnh bò điên, lở mồm long móng hay gần đây là bệnh SARS đều diễn biến rất nhanh và khi được nhận thức thì nó đã gây hậu quả nghiêm trọng.
Tính chuyển hóa
Mặc dù an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống là hai mặt của khái niệm an ninh nhưng chúng lại có quan hệ đan xen với nhau, trong một số điều kiện chúng ta không thể phủ định khả năng chuyển hóa giữa mối quan hệ an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống. Các mối đe dọa an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống được đan xen, tương tác và có thể biến đổi lẫn nhau trong những điều kiện nhất định. Thứ nhất, nhiều vấn đề an ninh phi truyền thống là hậu quả trực tiếp của các vấn đề an ninh truyền thống. Chẳng hạn như vấn đề người tị nạn do chiến tranh, thiệt hại về môi trường và các vấn đề ô nhiễm. Thứ hai, một số vấn đề an ninh truyền thống có thể phát triển thành các vấn đề an ninh phi truyền thống. Ví dụ, sự hình thành của chủ nghĩa khủng bố liên quan chặt chẽ đến các vấn đề an ninh truyền thống như tâm lý đấu tranh gây ra bởi chủ nghĩa bá quyền, xung đột và bởi các vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, và những vấn đề lịch sử hình thành bởi mâu thuẫn dân tộc và tôn giáo. Thứ ba, một số vấn đề an ninh phi truyền thống cũng có thể gây ra mâu thuẫn và xung đột trong an ninh truyền thống. Nếu các tổ chức khủng bố tìm kiếm các phương tiện công nghệ cao như hạt nhân và hóa sinh, nó sẽ liên quan đến sự gia tăng vũ khí hủy diệt hàng loạt. Sự tương tác giữa các mối đe dọa an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống tưởng như biệt lập, nhưng khi xét tới nguyên nhân, sự hình thành, thì chúng lại có quan hệ tương hỗ lẫn nhau, bởi có cái này mà có cái kia và ngược lại.
Bản thân trong chính các vấn đề an ninh phi truyền thống cũng có sự chuyển hóa. Chẳng hạn, như bệnh AIDS vốn là đại dịch thế kỷ, là một trong những sự uy hiếp của an ninh phi truyền thống thế nhưng khi y học phát triển và tìm được cách điều trị thì nó lại không còn là mối đe dọa tới sự sinh tồn và phát triển của con người nữa.
An ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống đều nằm trong nhóm các vấn đề an ninh, là hai mặt của khái niệm an ninh toàn diện. Vì vậy, an ninh phi truyền thống và an ninh truyền thống cùng tác động đến xây dựng chiến lược an ninh quốc gia,... bảo đảm ổn định và phát triển của quốc gia. Tuy nhiên, “an ninh truyền thống nhấn mạnh tới việc sử dụng các biện pháp quân sự để chống lại sự tấn công bằng quân sự nhằm uy hiếp, xâm phạm độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ”(7). An ninh phi truyền thống sử dụng các biện pháp phi vũ lực để phòng chống những uy hiếp có nguồn gốc phi quân sự liên quan đến sự phát triển của con người và môi trường sống.
Về chủ thể, an ninh truyền thống có thể xác định được rõ ràng nhưng an ninh phi truyền thống thì có vấn đề xác định được nhưng có vấn đề lại không xác định được. An ninh truyền thống là sự xung đột giữa quân đội các nhà nước còn các mối đe dọa an ninh phi truyền thống thường do các tác nhân tự nhiên hoặc do các tổ chức ngoài nhà nước, nhóm người hoặc cá nhân tiến hành.
Về đối tượng đe dọa xâm phạm, với an ninh truyền thống đó chính là chủ quyền lãnh thổ quốc gia, dân tộc còn với an ninh phi truyền thống là sự tồn tại, phát triển bền vững của con người, xã hội, môi trường sống… Các mối đe dọa an ninh phi truyền thống uy hiếp trực tiếp đến cá nhân con người hoặc cộng đồng, quốc gia - dân tộc; còn an ninh truyền thống uy hiếp trực tiếp đến chủ quyền lãnh thổ quốc gia - dân tộc, uy hiếp an ninh quốc gia.
Về không gian và phạm vi của mối đe dọa, an ninh truyền thống chủ yếu diễn ra giữa hai quốc gia, nhóm liên minh các quốc gia còn an ninh phi truyền thống có thể xuất phát từ nội tại một hoặc nhiều quốc gia sau đó có thể lan tỏa ảnh hưởng tới cả khu vực và thậm chí toàn thế giới./.
Facebook: Trai Kinh Bắc >> Sách bên hoa

“Lộng ngôn” như ông Bút

Mới đây, trên “Danlambao”, tác giả Ông Bút có bài viết với nhan đề: “Xin được chết, được sống như anh”. Nội dung bài viết cũng không có gì khác hơn việc lợi dụng một số vấn đề tiêu cực xã hội và công cuộc đấu tranh chống tham nhũng của Đảng để bôi nhọ, xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Giống như những kẻ khác trong đám “Danlambao” thích nhai lại những luận điệu cũ rích, Ông Bút lợi dụng việc một số cán bộ của Đảng, Nhà nước ta vừa qua đời để lộng ngôn: “nếu được ăn no mà chết…, thiên hạ ai không mơ ước”. Ngay một đứa trẻ cũng được dạy nên tôn trọng người đã khuất. Theo đạo lý đó, thì nhân cách của một người cầm bút như Ông Bút, đã tha hóa đến tột cùng, khi Ông có thể “đổi trắng, thay đen”, “ăn không, nói có”, sẵn sàng bôi nhọ danh dự, phẩm giá của người đã khuất để phục vụ cho những mưu đồ đê hèn.
Thâm thù chế độ, cổ súy cho những hành động phản nước, hại dân, Ông Bút đã hết lời ca ngợi những “tấm gương” như Trần Thị Nga, Huỳnh Thục Vy. Ông cho rằng, “Việc xét xử vụ án của nguyên Tổng Cục trưởng Tổng cục Cảnh sát Phan Văn Vĩnh và nguyên Cục trưởng C50 Nguyễn Thanh Hóa, nếu đem so với bản án giành cho những “nhà dân chủ” như Nga, Vy, thì chỉ là “lãnh mức án như nước đổ đầu vịt”. Ông còn quy chụp: “Trừng trị tham nhũng như kiểu cái lò… trở thành cái lồng ấp… nó chỉ âm ấm”. Thực ra không khó để có thể hiểu được tại sao Ông Bút lại bênh vực Nga, Vy – những kẻ cùng hội, cùng thuyền với Ông. Nhưng xin thưa với Ông Bút và những kẻ đang miệt mài “phán xét” trên các trang mạng như Danlambao rằng: Nga, Vy hay ông Vĩnh, ông Hóa, đều là những người vi phạm pháp luật Việt Nam và vi phạm pháp luật đến đâu thì sẽ bị xử lý đến đó. Mỗi hành vi vi phạm pháp luật đều có những khung hình phạt phù hợp, được quy định cụ thể trong hệ thống chế tài của pháp luật Việt Nam, không thể có chuyện xử nặng hay xử nhẹ như ông Bút suy diễn. Còn cuộc đấu tranh chống tham nhũng của Đảng ta hiện nay, tuy còn nhiều khó khăn, phức tạp, nhưng những gì đạt được đã và đang phản ánh đúng quyết tâm chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam, được mọi người dân Việt Nam yêu nước chân chính ủng hộ. Có lẽ, chỉ những kẻ tham nhũng và những kẻ ủng hộ tham nhũng, ủng hộ sự suy thoái, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên, hòng phục vụ mục đích, mưu đồ đen tối, như Ông Bút, mới mong cuộc chiến chống tham nhũng của chúng ta không thành công.
Một vấn đề khác, Ông Bút nói: “trước 30/4 thiếu gì báo chí công khai chửi chính quyền VNCH… yêu cầu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức” và “chính quyền không cần đếm xỉa đến cái nguyện vọng ngông cuồng này”. Bởi lẽ, theo Ông Bút “chính quyền Sài Gòn, ông Nguyễn Văn Thiệu, được quân dân miền Nam tín nhiệm”. Vâng, “tín nhiệm” đến mức mà chính Ông cùng bè lũ của Ông không đếm được người ta “chửi” cái chính quyền đó của các ông nhiều thế nào. Trong những ngày cuối cùng của cái “chính thể 3 que” ấy, trước khi bị thay thế bởi Trần Văn Hương, chính Nguyễn Văn Thiệu đã viết thư cầu cứu Tổng thống Mỹ “cho vay nợ vì tự do”với khoản thế chấp là tài nguyên thiên nhiên của đất nước. Thử hỏi, cái chính thể chỉ trông đợi vào tiền bạc, súng đạn của ngoại bang, sẵn sàng bán rẻ đất nước như vậy thì liệu có “tín nhiệm”được hay không? Và một sự thật nữa, phơi bày cái “tín nhiệm” ấy, là trong vòng 20 năm tồn tại của chính quyền Sài Gòn, các ông đảo chính, lật đổ, đấu đá lẫn nhau nhiều đến nỗi quan thầy của các ông còn phải ngán ngẩm, từ bỏ các ông. Một chính quyền đã bị diệt vong, mà lịch sử tồn tại của nó chỉ phục vụ cho các ông chủ Mỹ, sẵn sàng quay lưng lại với đồng bào, dân tộc mình, thì làm gì có đủ tư cách để người ta phải “xem lại” và “học” nó như Ông Bút ra sức biện hộ.
Hàm hồ hơn, Ông Bút gọi lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc là “cờ máu”, “bà con với Sầm Nghi Đống, Tập Cận Bình”. Không ai lạ gì cái chiêu trò “bài Hoa” của bè lũ phản động như Ông Bút, lợi dụng lòng yêu nước của mọi người để kích động, gây rối, hòng phục vụ mưu đồ “mượn gió, bẻ măng” phá hoại đất nước. Lá cờ đỏ sao vàng là biểu tượng thiêng liêng của đất nước, dân tộc Việt Nam. Lá cờ đỏ thắm đó là bao xương máu của chiến sĩ, đồng bào đã đổ xuống để đánh đuổi ngoại xâm và bè lũ tay sai của chúng. Không ai được phép quay lưng với sự hy sinh mất mát to lớn đó của dân tộc. Ông Bút và đám Danlambao nếu chưa rõ thì nên đi học lại điều đó.
Rõ ràng, với ngòi bút đã bị bẻ cong và một cái đầu chỉ chất chứa hận thù với chế độ, Ông Bút và những thế lực thù địch, phản động, chuyên “ăn không, nói có”, “mượn gió, bẻ măng” để phá hoại công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay. Chúng ta cần tỉnh táo, cảnh giác và đấu tranh loại bỏ những tư tưởng và hành động như vậy ra khỏi đời sống./.

                                       Nguồn: nhanvanviet.com

Sự lộng ngôn của Nguyên Thạch

Gần đây, trên blog Damlambao xuất hiện bài viết của Nguyễn Thạch với tựa đề “Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam là lịch sử của chuỗi phá hoại” thể hiện rõ cái nhìn thiển cận, thiếu khách quan, mang nặng sự hằn học, xúc phạm, xuyên tạc và phủ nhận vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam.
Vẫn là những sự kiện và các vấn đề như “Hội nghị Thành Đô 1990”, “Cải cách ruộng đất”, “Cải tạo công thương nghiệp”, “Đại thắng mùa Xuân 1975” hay “Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”… được Nguyễn Thạch dẫn ra để làm minh chứng cho những nhận định, bình luận đầy chủ quan, với ý đồ xuyên tạc, xúc phạm đối với Đảng Cộng sản Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Y lập luận rằng: “Tất cả những động thái này của Đảng Cộng sản Việt Nam đã hủy diệt tiềm năng của đất nước, bóp nghẹt Tự do, Dân chủ, Nhân quyền”. Không chỉ dừng lại ở đó, Nguyễn Thạch còn xuyên tạc rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam chẳng những đã hủy hoại non sông, gấm vóc, làm mất vịnh, thác, biển, đảo, đất liền mà còn hủy hoại cả vô số tinh hoa của dân tộc”. Đáng lên án khi, Nguyễn Thạch hàm hồ khi đưa ra nhận định: “Với thành phần lãnh đạo cả một quốc gia mà ngu dốt độc tài, độc ác là thành phần cốt cán thì chuyện đất nước lâm vào lụn bại là không thể nào tránh khỏi” v.v… Sự thật liệu có phải là như vậy?
Chúng ta đều biết, ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời không chỉ chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu nước, mà còn khẳng định vai trò quyết định sự lãnh đạo của của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam. Thực tiễn thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong quá trình đấu tranh cách mạng, giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã đưa nước ta ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới, sự thật đó đã khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam; sự lãnh đạo của Đảng là không gì có thể thay thế được
Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất là trước những khó khăn, thách thức, những vấn đề mới chưa có tiền lệ trong lịch sử, chúng ta cũng không thể tránh khỏi những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm, thậm chí có cả những sai lầm, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm phát hiện ra những hạn chế, yếu kém, sai lầm, khuyết điểm, kịp thời đề ra những biện pháp sửa chữa đúng đắn. Chính vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn luôn được nhân dân tin cậy, thừa nhận là người lãnh đạo chân chính, duy nhất, là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, là người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Lịch sử cách mạng Việt Nam cận, hiện đại đã chứng minh rất hùng hồn rằng: không có một tổ chức chính trị nào có thể thay thế được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam.
Từ những vấn đề trên cho thấy, nếu sự thực về Đảng Cộng sản Việt Nam như những gì mà Nguyễn Thạch đề cập trong bài viết thì Việt Nam sẽ không thể có được những thành quả như ngày hôm nay. Những thành quả đó của Việt Nam được biết đến không chỉ trong nước mà cả phạm vi quốc tế. Người đứng đầu quốc gia có nền kinh tế lớn nhất thế giới khi phát biểu trong diễn đàn APEC tại Đà Nẵng vào tháng 11 năm 2017 cũng đã thừa nhận, sự phát triển của Việt Nam những năm qua “là rất ấn tượng”. Vậy mà Nguyễn Thạch đã cố tình xuyên tạc vu cáo cho rằng: “Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với cách mạng Việt Nam không hề có những thành tựu hay ưu điểm gì, trái lại chỉ là những hạn chế, khuyết điểm. Điều này, thể hiện rõ sự lộng ngôn của Nguyễn Thạch với ý đồ không thể che dấu là nhằm gây tâm lý bi quan, thiếu tin tưởng của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, tiến tới phủ nhận, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đây là âm mưu, thủ đoạn đen tối và rất nguy hiểm của Nguyễn Thạch và các thế lực thù địch với cách mạng Việt Nam. Vì vậy, mỗi chúng ta phải hết sức cảnh giác và kiên quyết bác bỏ, không để mắc mưu chúng./.
Nguồn: https://nhanvanviet.com


Lại thêm luận điệu sai trái, thù địch vu khống, nói xấu Đảng Cộng sản Việt Nam của các thế lực thù địch

Thời gian gần đây, trên trang mạng danlambao có đăng bài viết “Cơ chế Cộng sản và cái thòng lọng” của Nguyễn Hồn Việt. Nội dung bài viết đã cố tình xuyên tạc bản chất, truyền thống tốt đẹp của Đảng Cộng sản Việt Nam và những đóng góp to lớn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng vào công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, lấy lại uy tín, niềm tin của nhân dân đối với Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trước hết, Nguyễn Hồn Việt đưa ra những luận điệu sai trái, thù địch nói xấu Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng.
Trong bài viết, Nguyễn Hồn Việt đưa ra những luận điệu hết sức phản động, xuyên tạc sự thật lịch sử, vu khống, bôi nhọ Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, một con người hội tụ một cách dung dị và sinh động hình ảnh một người Việt Nam: Khiêm cung, nhân hoà, bao dung, như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đã nói: Mình có thế nào, không cần phải nói thêm, cứ hành động, cứ sống và làm việc. Nhà báo Nhị Lê cũng viết: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thể hiện: Tầm nhìn, sự kiên định và sự thích ứng. Đó là ba tư chất chính trị và trí tuệ quan trọng bậc nhất, mà tôi cảm nhận từ Tổng Bí thư. Những gì mà Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng làm được thời gian qua đã để lại trong lòng cán bộ, đảng viên và nhân dân hình ảnh người lãnh đạo đầy tâm huyết, bản lĩnh, nói đi đôi với làm và luôn đặt lợi ích của Đảng, Nhà nước và nhân dân lên trên hết, không tư lợi cá nhân, sống giản dị, gần gũi, thanh đạm với nhân dân. Những hành động, việc làm của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước luôn nhận được sự đồng tỉnh, ủng hộ, tin tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trong xã hội, tạo được niềm tin vững chắc cho quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng đối với đất nước.
Thực tiễn đã chứng minh Đảng ta đã có nhiều cơ chế, chính sách ưu tiên phát triển đội ngũ trí thức như: Chính sách đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ trí thức; chính sách tạo môi trường phát huy vai trò của trí thức; chính sách sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh trí thức và chính sách thu hút trí thức người Việt Nam ở nước ngoài. Nhiều giải thưởng quốc gia và của các ngành, các lĩnh vực, việc phong tặng các chức danh khoa học, các danh hiệu cao quý cho trí thức, các nhà khoa học, văn nghệ sĩ,… đã được thực hiện tạo sự khích lệ, động viên tinh thần đối với trí thức, đã góp phần phát huy tiềm năng và nội lực của đội ngũ trí thức trong hoạt động thực tiễn của đất nước. Đồng thời, cũng khẳng định rõ quan điểm, thái độ của Đảng xử lý nghiêm minh theo đúng pháp luật, kỷ luật đảng đối với những trí thức đi ngược lại với lợi ích quốc gia, dân tộc, nói và làm trái với điều lệ, cương lĩnh của Đảng.
Do đó, việc Đảng ta thi hành kỷ luật bằng hình thức khai trừ ra khỏi Đảng đối với ông Chu Hảo là đúng với nội dung, tính chất, mức độ vi phạm và đúng theo quy định của Đảng trên cơ sở “chứng cứ đến đâu, kết luận đến đấy, không suy diễn”. Ông Chu Hảo là đảng viên nhưng “vô tổ chức, vô kỷ luật”, ông “lẩn tránh” không dám đối mặt với sự thật, không đến kiểm điểm ở các tổ chức đảng mà còn có hành vi chống đối, thách thức. Những hành động, việc làm của ông không những ảnh hưởng đến uy tín của Đảng mà còn gây bất bình, phẫn nộ trong toàn xã hội.
Thứ hai, Nguyễn Hồn Việt đưa ra những luận điệu sai trái, thù địch xuyên tạc sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng
Nguyễn Hồn Việt xuyên tạc rằng: “Cơ chế Cộng sản chẳng khác nào cái thòng lọng tự xiết cổ, ai có quyền lực thì đều có quyền phán xét, thóa mạ, quyết định số phận của những người không thuộc phe nhóm của mình”. Sự thật lịch sử của đất nước đã bác bỏ hoàn toàn những luận điệu sai trái, thù địch của Nguyễn Hồn Việt. Bởi, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng đất nước Đảng ta đã không ngừng giữ vững, mở rộng và tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Chủ trương, đường lối của Đảng trước khi ban hành đều có sự bàn bạc, thảo luận nghiêm túc theo đúng quy trình bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch. Nhờ đó, Đảng ta đã dẫn dắt toàn thể dân tộc vượt qua biết bao khó khăn giành được những thắng lợi rực rỡ trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc và dựng xây đất nước. Chính sự gặp gỡ, giao thoa giữa ý Đảng, lòng dân là cội nguồn, sức mạnh tạo nên sự đoàn kết thống nhất trong Đảng và toàn thể dân tộc.
Với năng lực thực tiễn lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam là chính Đảng duy nhất có đủ uy tín, niềm tin để lãnh đạo đất nước, thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh”. Do vậy, các thế lực thù địch dù có xuyên tạc đến đâu cũng không thể lừa phỉnh, đánh lừa được những cán bộ, đảng viên chân chính một lòng, một dạ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân đem lại sự ổn định, phát triển bền vững cho đất nước./.
Nguồn: https://nhanvanviet.com