Thứ Tư, 30 tháng 1, 2019

Sự thật về những bóng ma trong các bài viết đượm chất chính trị

Hiện nay, các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng Internet, các trang mạng xã hội để tăng cường đăng tải thông tin xấu độc, bịa đặt, sai sự thật, bóp méo, xuyên tạc, làm lẫn lộn, đúng-sai, thật-giả hoặc có một phần sự thật nhưng được đưa thông tin với dụng ý xấu, phân tích và định hướng dư luận bằng luận điệu sai trái, thù địch, bôi nhọ, nói xấu chế độ...gây chia rẽ đoàn kết nội bộ, kêu gọi biểu tình, tụ tập tạo điểm nóng... đe dọa an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Cụ thể ngày 10/01/2019 đối tượng Nguyễn Văn Đài với bài viết “Bản chất độc ác và phi nhân tính của chế độ cộng sản qua vụ vườn rau Lộc Hưng”, hay đối tượng lấy tên Canhco để phát tán vụ vườn rau Lộc Hưng”, hay đối tượng lấy tên Canhco để phát tán tài liệu “những cái nhóp nhẹp rất cộng sản”....rất nhiều bài viết khác được đăng trên blog của đài RFA tuy nội dung và đối tượng khác nhau. Xong nhìn chung thủ đoạn thường được chúng sử dụng đó là những tin, bài, những hình ảnh trên các báo chí chính thống của ta ở trong nước, sau đó viết lại, chỉnh sửa thành những nội dung bịa đặt hoặc định hướng sai lệch để đăng tải. Điều này thu hút sự quan tâm của người xem, người đọc trước những thông tin có nội dung giống các thông tin chính thống, tạo cảm giác nửa tin, nửa ngờ và nếu không tìm hiểu, nghiên cứu kỹ sẽ bị tác động xấu bởi những thông tin xuyên tạc này với mục đích xuyên tạc nói xấu chế độ...
Do vậy mỗi chúng ta cần xây dựng nhận thức đúng đắn, nhận diện đầy đủ khoa học, khách quan về âm mưu, thủ đoạn, phương thức hoạt động chống phá trên không gian mạng của các thế lực thù địch. Trên cơ sở đó trang bị kiến thức cần thiết để mỗi cá nhân có thể tự sàng lọc, tiếp nhận thông tin hữu ích, chính thống, tự “miễn dịch” với những thông tin xấu độc, đồng thời xây dựng cho mỗi người có tinh thần cảnh giác cách mạng cao, không tin theo, không truy cập và tán phát, chia sẻ những thông tin xấu độc. Nhận diện đúng chính là cơ sở tiền đề vững chắc để tiến hành đấu tranh, chủ động tiến công với các quan điểm sai trái, phản động trên không gian mạng, kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch.

Nguồn: nhanvandatviet.com

Những “con bài” nguy hiểm lợi dụng các vấn đề về nhân quyền

Thời gian qua, trong khi dư luận quốc tế đánh giá cao những thành tựu về nhân
quyền mà Việt Nam đã đạt được thì không ít kẻ phản động, cơ hội chính trị thông qua các trang mạng xã hội lại lu loa, vu cáo, xuyên tạc, bóp méo tình hình nhân quyền ở nước ta; như đối tượng Nguyễn Trang Nhung ngày 09/01/2019 phát tán tài liệu “Việt Nam đứng thứ 139/167 về chỉ số dân chủ năm 2018” nội dung xuyên tạc nói xấu nề dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam.

Không khó để nhận thấy, những kẻ tự xưng là “những người đấu tranh dân chủ, nhân quyền” lại tìm cách phát tán các luận điểm xuyên tạc, bôi nhọ về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam. Nhằm tạo ra tâm lý phản kháng, kích động quần chúng chống lại chủ trương của Đảng, pháp luật Nhà nước ta, chúng còn tuyên truyền, lừa bịp, lôi kéo quần chúng tham gia cái gọi là “chống tiêu cực”, “chống tham nhũng”, đồng thời, tìm cách thúc đẩy, khuyến khích cán bộ, đảng viên và người dân tham gia phản biện chính sách, phản biện xã hội, tác động và gây sức ép đòi thay đổi chính sách, hệ thống pháp luật,

Để thực hiện và bảo đảm quyền con người theo Hiến pháp và pháp luật, căn cứ tình hình thực tiễn ở Việt Nam, những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế và các khuyến nghị về nhân quyền mà Việt Nam đã chấp thuận. Đồng thời, tăng cường hợp tác quốc tế trên lĩnh vực nhân quyền với các quốc gia, tổ chức quốc tế quan tâm tới vấn đề này ở nước ta.Ở một góc độ khác, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú ý việc thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, coi đây là nội dung hết sức quan trọng trong các chính sách an sinh xã hội, nâng cao đời sống nhân dân gắn với bảo đảm các quyền của con người, vì sự phát triển toàn diện của con người.


Từ những kết quả đã đạt được trong các lĩnh vực, các cơ quan chức năng cần chủ động bẻ gãy “mũi tiến công” lợi dụng nhân quyền của các thế lực thù địch và bọn cơ hội chính trị, kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật, lợi dụng các vấn đề về nhân quyền để kích động, chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối an ninh trật tự, lợi dụng chống phá Nhà nước, gây cản trở đối với Việt Nam trong tiến trình phát triển và hội nhập quốc tế.

Nguồn: nhanvandatviet.com

Luận điệu bóp méo sự thật về nhân quyền ở Việt Nam

Bảo vệ và thúc đẩy các quyền cơ bản của người dân là chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Thời gian qua, các nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong việc không ngừng bảo đảm và cải thiện các quyền cơ bản của người dân đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.

Vậy mà đây đó vẫn có những giọng điệu lạc lõng xuyên tạc, bóp méo, phản ảnh không đúng về tình hình nhân quyền tại Việt Nam. Nhưng dù bằng chiêu trò gì chăng nữa, các thế lực thù địch, phản động cũng không thể phủ nhận được những thành tựu của Việt Nam trong việc bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền của người dân.

Quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam là quyền con người được bảo đảm và thực hiện bằng Hiến pháp và pháp luật. Ngay từ khi ra đời, Nhà nước Việt Nam đã đặt nhiệm vụ bảo đảm quyền con người vào vị trí trung tâm. Sau đó, các nội dung liên quan đến quyền con người được thể chế hóa thành những quyền hiến định trong bản Hiến pháp đầu tiên (Hiến pháp 1946). Qua 4 lần sửa đổi, bổ sung từ Hiến pháp 1946 đến Hiến pháp 1959, rồi Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 và năm 2013, quyền con người ở Việt Nam đã thực sự trở thành quyền hiến định. Đảng ta trong chỉ thị số 12/CT-TW của Ban chấp hành trung ương Đảng năm 1992 về vấn đề quyền con người, Đảng ta xác định: “Đối với chúng ta, vấn đề quyền con người được đặt ra xuất phát từ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, từ bản chất của chế độ ta và bao quát trên nhiều lĩnh vực, từ chính trị, tư tưởng, văn háo đến kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng”..

Đặc biệt ở Việt Nam, các quyền bầu cử, ứng cử và tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội của người dân luôn được bảo đảm. Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và bảo đảm các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do thông tin của người dân theo Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước Việt Nam nhìn nhận tín ngưỡng, tôn giáo là một nhu cầu tinh thần chính đáng của con người. 

Khi thấy vị thế của Việt Nam ở khu vực và thế giới ngày càng được nâng cao, các thế lực thù địch tỏ ra tức tối và tìm cách xuyên tạc, nói xấu nhằm làm giảm uy tín, vai trò của Việt Nam. Thế nhưng "vải thưa không che nổi mắt thánh", những ghi nhận, đánh giá của cộng đồng quốc tế và thực tiễn sinh động trên đất nước Việt Nam đã bác bỏ hoàn toàn các luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật của các thế lực thù địch cùng một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí đối với Việt Nam.

Nguồn: nhanvandatviet.com

Hiểu đúng về bản chất dân chủ ở nước ta.

Ngay sau khi lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Đảng ta đã lãnh đạo và tổ chức nhân dân thực hiện dân chủ, đập tan ách thống trị của chế độ thực dân, phong kiến, đưa dân tộc ta, nhân dân ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do, nhân dân được làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Phát huy tốt dân chủ đã tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn của toàn dân, của cả nước để tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, Đảng ta đã lãnh đạo và tổ chức nhân dân vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc từ sau năm 1975 đến nay, thực hiện dân chủ rộng rãi, phát huy sức mạnh to lớn của toàn dân ta, giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Những thành tựu to lớn của Đảng, Nhà nước và của nhân dân ta trong quán triệt và thực hành nền dân chủ nhân dân là một thực tế sinh động không ai có thể phủ nhận được. Ấy vậy mà đối tượng Nguyễn Trang Nhung tán phát tài liệu “Việt Nam đứng thứ 139/167 về chỉ số dân chủ năm 2018” ra sức xuyên tạc bản chất của chế độ dân chủ và những thành tựu về dân chủ ở nước ta. Đây là một thủ đoạn, biện pháp vừa trắng trợn, vừa tinh vi và nhằm tới mục đích là chống phá cách mạng Việt Nam, hạ thấp, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, vai trò của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phủ nhận bản chất ưu việt của chế độ dân chủ ở nước ta.

Vì vậy mỗi công dân Việt Nam chúng ta cần có cái nhìn toàn diện, hiểu đúng sự thật về nền dân chủ ở Việt Nam – nền dân chủ xã hội chủ nghĩa – nền dân chủ tốt đẹp hơn triệu lần nền dân chủ các chế độ trước đó. Tuyệt nhiên không để mắc mưu các đối tượng chống phá dẫn đến hiểu sai bản chất nền dân chủ tốt đẹp của chúng ta.

Nguồn: nhanvandatviet.com

Vai trò của Đảng Cộng sản là không thể phủ nhận

Ngày 13/01/2019 đối tượng Nguyễn Văn Đài đăng tải bài “Quan lại cộng sản tồi dân muốn ngay thẳng cũng không lọt” và bài “Cái gì thế giới ruồng bỏ thì cộng sản mang về cho nhân dân Việt Nam sài”, nội dung xuyên tạc, nói xấu chế độ, nói xấu Đảng là phản động, bịa đặt vì:

Hai mươi lăm năm qua với bản lĩnh, trí tuệ và đạo đức cao đẹp của một Đảng cách mạng cầm quyền dày dạn kinh nghiệm, luôn biết tự đổi mới, tự chỉnh đốn tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước vươn lên giành nhiều thắng lợi mới. Mô hình, mục tiêu và con đường, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn. Mặc dù cách mạng còn nhiều khó khăn, lâu dài nhưng nhất định thắng lợi. Bởi đó là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của cách mạng Việt Nam phù hợp với quy luật tiến hoá của lịch sử nhân loại. Đường lối đổi mới của Đảng xa lạ với những gì mà kẻ thù lâu nay vẫn ra sức tuyên truyền xuyên tạc rằng con đường phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa của chúng ta là "sản phẩm ngoại nhập, không có tương lai". Nhất là từ sau những sai lầm về đường lối cải tổ dẫn tới sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô những năm cuối thế kỷ XX. Kẻ thù đã lớn tiếng tuyên bố rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã bị phủ định ngay tại quê hương của nó bởi sự lỗi thời; hơn nữa, khi du nhập vào Việt Nam đã bị cắt xén, biến dạng thành bạo lực đấu tranh; kinh tế trì trệ, suy thoái, khủng hoảng…; là những biểu hiện của “hồi kết”, “Chương thử nghiệm cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản"; "sự toàn thắng của chủ nghĩa tư bản".v.v.. Nhưng thắng lợi của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước 25 năm qua của dân tộc ta đã bác bỏ những luận điệu xuyên tạc xằng bậy đó của kẻ thù.


Giữ vững nguyên tắc độc lập, sáng tạo, trung thành với lợi ích của nhân dân, bám sát thực tiễn cuộc sống, xác định đường lối, chính sách đúng đắn và nhanh chóng đưa vào cuộc sống hướng dẫn hoạt động cách mạng của nhân dân là bí quyết thành công của Đảng ta. Ngay từ đầu, Đảng đã xác định rõ khâu đột phá của sự nghiệp đổi mới là đổi mới tư duy nhưng trọng tâm lại là đổi mới kinh tế. Đổi mới kinh tế kết hợp với đổi mới chính trị làm cơ sở cho sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, quyết tâm xây dựng một xã hội "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Nguồn: nhanvandatviet.com


“LỖI DO CHÍNH QUYỀN"- LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC BỈ ỔI TRÊN RFA

Lợi dụng tôn giáo chống phá Việt Nam là âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch. Một trong những âm mưu, thủ đoạn quen thuộc của chúng là tuyên truyền, xuyên tạc, kích động nói xấu chính quyền, gây mâu thuẫn, mất niềm tin giữa đồng bào tôn giáo với chính quyền địa phương. Mới đây, ngày 25/12/2017, trên trang mạng RFA có bài viết: Căng thẳng tôn giáo năm 2017 – “lỗi do chính quyền”, với các nội dung:
– Các cuộc biểu tình của giáo dân khu vực miền Trung nổi dậy phản đối nhà máy Formosa Hà Tĩnh xả thải gây ô nhiễm môi trường, nhiều giáo dân bị đánh đập, hành hung đến trọng thương, các linh mục dẫn đầu đoàn biểu tình bị truyền thông trong nước lên án.
– Phản đối quy định rằng các tôn giáo phải đăng ký với Nhà nước, được Nhà nước cho phép mới được hoạt động của Luật tín ngưỡng, tôn giáo được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 18/11/2016, có hiệu lực từ ngày 1/1/2018.
– Vu cáo chính quyền dung túng, tiếp tay cho “Hội Cờ Đỏ” gây sự, hành hung giáo dân.
Đây là những luận điệu xuyên tạc trắng trợn nhằm vu cáo chính quyền các cấp, bởi:
Thứ nhất, những người cố tình vi phạm pháp luật phải bị xử lý theo pháp luật là tất yếu. Nhà máy Formosa Hà Tĩnh xả thải gây ô nhiễm môi trường là việc làm hoàn toàn sai trái, không thể chấp nhận. Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương đã nhanh chóng vào cuộc để làm rõ sai phạm. Việc một bộ phận đồng bào tôn giáo ở Hà Tĩnh bị kích động biểu tình gây mất trật tự, an toàn xã hội là hành động vi phạm pháp luật. Đây không phải ý muốn chủ quan của đồng bào, mà chính là nằm trong mưu đồ lợi dụng đồng bào tôn giáo để chống phá Việt Nam của các thế lực thù địch. Trong lịch sử, đồng bào tôn giáo Hà Tĩnh luôn kề vai, sát cánh cùng đồng bào và chiến sĩ cả nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam làm nên những chiến công oanh liệt. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước ngày nay, đồng bào tôn giáo Hà Tĩnh luôn tin tưởng vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, đang ngày đêm hăng say lao động sản xuất làm giàu cho gia đình, quê hương, đất nước. Lợi dụng việc nhà máy Formosa gây ô nhiễm môi trường, các thế lực thù địch tuyên truyền, kích động, lôi kéo một số giáo dân biểu tình, gây rối, đập phá nhà máy, chống người thi hành công vụ, vu cáo chính quyền vi phạm tự do tôn giáo.
Hai là, Luật pháp Việt Nam bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Luật tín ngưỡng, tôn giáo được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 18/11/2016, có hiệu lực từ ngày 1/1/2018, thể hiện cao nhất quan điểm tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta. Tại Điều 1, đã ghi rõ: Luật này quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo; tổ chức tôn giáo; quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo. Luật được áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc bảo đảm và thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Trên cơ sở làm rõ những thuật ngữ có liên quan, tại Điều 3, Luật này quy định rõ: Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; bảo đảm để các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng, bảo vệ giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tín ngưỡng, tôn giáo, truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh người có công với đất nước, với cộng đồng đáp ứng nhu cầu tinh thần của Nhân dân. Nhà nước bảo hộ cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo và tài sản hợp pháp của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo.
Điều 4, Điều 5 của Luật này nghiêm cấm các hành vi: Phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo. Xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo. Hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo: xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường; xâm hại đạo đức xã hội; xâm phạm thân thể, sức khỏe, tính mạng, tài sản; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác; cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; chia rẽ dân tộc; chia rẽ tôn giáo; chia rẽ người theo tín ngưỡng, tôn giáo với người không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa những người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. Lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo để trục lợi. Các điều khác của Bộ luật đã qui định rất cụ thể, tạo môi trường thuận lợi nhất cho hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Hoàn toàn không như sự xuyên tạc bỉ ổi của các thế lực thù địch cho rằng, lời lẽ của Luật là những điều mù mờ, tạo điều kiện cho chính quyền Việt Nam đàn áp tôn giáo.
Ba là, không thể vu khống các cấp chính quyền ở Việt Nam dung túng, tiếp tay cho Hội Cờ Đỏ gây sự với đồng bào công giáo. Hội Cờ Đỏ là một tổ chức tự phát của những người phản đối hành động thái quá của một số giáo dân gây mất trật tự, an toàn xã hội và xử lý những phần tử quá khích. Lực lượng tham gia Hội cờ đỏ gồm cả những người theo tôn giáo và người không theo tôn giáo. Hoạt động của hội này không được phép của chính quyền địa phương và đã bị chính quyền địa phương dẹp bỏ. Việc cho rằng, đây là quân bài mới của chính quyền địa phương, khi nào có các cuộc biểu tình, hội này ra tay đàn áp, hay chính quyền dung túng, tiếp tay cho Hội Cờ Đỏ gây sự với đồng bào công giáo là luận điệu bịa đặt, xuyên tạc, vu cáo trắng trợn.
Biết rằng, những lời xuyên tạc trên, tuy chưa gây nguy hiểm, nhưng mưa dầm, thấm lâu cũng có thể gây nên sự hoài nghi, hiểu sai về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước ta đối với đồng bào Thiên chúa giáo nói chung và ở Hà Tĩnh nói riêng. Đây là lời xuyên tạc bỉ ổi, cần bác bỏ.


Thứ Ba, 29 tháng 1, 2019

Sự thật: “Góp ý về chuẩn bị Đại hội Đảng lần thứ XIII” của Nguyễn Đình Cống Như

Như đã thành thường lệ, cứ mỗi dịp chuẩn bị và diễn ra các sự kiện trọng đại của đất nước, nhất là việc chuẩn bị và tổ chức Đại hội Đảng toàn quốc, thì trên một số trạng mạng xã hội lại xuất hiện với tần suất lớn hơn, nhiều bài viết với nội dung xuyên tạc, mang tính kích động nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhất là mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Bài viết của Nguyễn Đình Cống trên trang mạng Bauxite Việt Nam mặc dù lấy danh nghĩa “góp ý về chuẩn bị Đại hội lần thứ 13” của Đảng nhưng thực chất nội dung không phản ánh đúng tiêu đề đã nêu trên.
Chúng ta đều biết, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đất nước bằng cương lĩnh, đường lối và thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Do đó, để chuẩn bị cho các kỳ Đại hội Đảng, có rất nhiều công việc cần phải được nghiên cứu và chuẩn bị kỹ lưỡng. Trong đó, chuẩn bị Báo cáo Chính trị nói riêng, Văn kiện Đại hội nói chung và chuẩn bị nhân sự cho nhiệm kỳ tới là những nội dung rất hệ trọng, đòi hỏi phải có sự đầu tư cả về thời gian, công sức, trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân. Bởi Báo cáo Chính trị trình trước Đại hội vừa phải nghiên cứu công phu để đánh giá khách quan, chính xác những kết quả đạt được của nhiệm kỳ trước, làm cơ sở đề ra những định hướng phát triển các lĩnh vực của đất nước trong nhiệm kỳ tiếp theo, bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tiễn. Đồng thời, lựa chọn những cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực để bầu vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng. Với lẽ đó, thì không có gì ngạc nhiên khi Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã triển khai thành lập Ban chuẩn bị Văn kiện và tiến hành triển khai công tác quy hoạch nhân sự cho Đại hội XIII khi thời gian còn gần hai năm mới đến thời điểm diễn ra Đại hội.
Vậy mà, Nguyễn Đình cống lại cho cho rằng: “Báo cáo Chính trị là những văn bản nặng về hình thức sáo rỗng, có ít tác dụng”, “là sản phẩm của rất nhiều công sức, nhưng là của những trí tuệ giáo điều, đã bị xơ cứng, của những lao động giản đơn như sao chép, cắt dán, liệt kê…”, “Còn hai năm nữa mới đến Đại hội XIII, thế mà bây giờ Bộ Chính trị đã lập Ban chuẩn bị Văn kiện”. Không những thế, Nguyễn Đình Cống còn xuyên tạc về phương châm “kiên trì và đổi mới” trong chuẩn bị Văn kiện Đại hội Đảng XIII khi tự mình đưa ra câu hỏi và trả lời: “Kiên trì cái gì? Đáng ra phải kiên trì đường lối độc lập tự chủ nhằm đem lại tự do và hạnh phúc thật sự cho nhân dân, thì lại kiên trì chủ nghĩa Mác – Lê, một chủ nghĩa được tạo nên từ những ngụy biện, chứa nhiều độc hại, chỉ mang lại và bảo vệ lợi ích phi nghĩa cho vài nhóm người. Đáng lẽ phải nghiên cứu, phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ lại và phát huy những yếu tố tích cực, tìm ra và loại bỏ những yếu tố có hại cho độc lập dân tộc, cho tự do và hạnh phúc của nhân dân thì lại đem buộc chặt nó với Mác – Lê, một việc làm tưởng đề cao ông Hồ nhưng thực chất là làm hại ông…”. Rõ ràng, đến đây thì mọi người đều hiểu, điều mà Nguyễn Đình Cống muốn “góp ý” không có gì khác hơn là từ bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin và tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lênin. Đây là điều hết sức nguy hiểm, nhất là với những người chưa hiểu hoặc hiểu biết không đầy đủ về chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Những người có hiểu biết về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đều nhận thức rõ rằng, chính chủ nghĩa Mác – Lênin là lý luận cách mạng và là vũ khí sắc bén của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong đấu tranh xóa bỏ áp bức, bóc lột, đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho mình và cho nhân loại tiến bộ. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Bởi vậy, để giữ vững độc lập dân tộc và đem lại tự do, hạnh phúc thực sự cho nhân dân thì việc kiên trì chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một tất yếu khách quan.
Thực chất, những điều gọi là “góp ý về chuẩn bị Đại hội Đảng lần thứ 13” của Nguyễn Đình Cống nói riêng, của những kẻ muốn “đi ngược” lại với lợi ích của đất nước và của nhân dân nói chung, thực chất là những thủ đoạn thâm độc của “diễn biến hòa bình” mà chúng đã và đang thực hiện với cách mạng Việt Nam. Thông qua đó, nhằm xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vô hiệu hóa sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến tới xóa bỏ chủ nghĩa xã hội và hướng lái Việt Nam theo con đường tư bản chủ nghĩa. Bởi vậy, trong quá trình diễn ra Đại hội lần thứ XIII của Đảng, chắc chắn sẽ có không ít những bài viết dưới dạng “kiến nghị”, “góp ý” kiểu như của Nguyễn Đình Cống. Với lẽ đó, mỗi người chúng ta cần hết sức cảnh giác để không mắc mưu các thế lực thù địch, làm tổn hại đến lợi ích quốc gia – dân tộc và lợi ích của chính bản thân mình./.
https://nhanvanviet.com


CẢNH GIÁC VỚI LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CUỘC ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG, SUY THOÁI Ở VIỆT NAM

Trong khi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đang chủ động và tích cực đưa các nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, nhất là sau khi Hội nghị toàn quốc về công tác phòng, chống tham nhũng được tổ chức ngày 25/6/2018 thì các đối tượng xấu đã núp dưới chiêu bài dân chủ, nhân quyền lại càng ra sức chống phá. Một trong những vấn đề mà chúng tập trung xuyên tạc là quyết tâm chống tham nhũng, suy thoái của Đảng ta với những luận điệu như: đang có sự thỏa thuận ngầm về mức độ và đối tượng chống tham nhũng, suy thoái; chống tham nhũng suy thoái chỉ là cái cớ để các phe phái của Đảng Cộng sản Việt Nam mặc cả quyền lực, kiềm chế, loại bỏ lẫn nhau; Đảng Cộng sản Việt Nam không thể đấu tranh chống tham nhũng, suy thoái thành công; tham nhũng là sản phẩm tất yếu của chế độ công hữu tư liệu sản xuất, chuyên chế độc đảng; tham nhũng là vấn đề thuộc bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
1. Từ nội dung của những luận điệu phản động, xuyên tạc cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, suy thoái của Đảng, Nhà nước ta, có thể nhận thấy động cơ và mục đích của các luận điệu này:
Thứ nhất, gây hoài nghi trong quần chúng nhân dân, hạ uy tín của Đảng, tiến tới phủ nhận vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội, từ đó xóa bỏ hoàn toàn chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Hiện nay, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, suy thoái là một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng, cấp bách do Đảng ta tổ chức và lãnh đạo. Tham nhũng, suy thoái đã và đang là vấn đề gây nhiều bức xúc trong xã hội, “làm giảm sút vai trò lãn đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”[1]. Trong khi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang có khí thế và quyết tâm chính trị cao với nhiều chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức đấu tranh nhằm ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng tham nhũng, suy thoái thì các thế lực thù địch lại đưa ra những luận điệu sai trái, thù địch, xuyên tạc về cuộc đấu tranh này. Có thể khẳng định, mục đích của chúng là nhằm phá vỡ niềm tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa; đối với đường lối, quan điểm, chủ trương nhất quán và quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, suy thoái ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, chống phá quyết tâm của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta nhằm làm cho tình trạng tham nhũng, suy thoái tiếp tục diễn tiến và hệ quả là nền kinh tế Việt Nam bị rơi vào tình trạng kiệt quệ, khủng hoảng. Luận điệu cho rằng, Đảng ta không thể thành công trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, suy thoái, một mặt nhằm kích động, xúi giục, lôi kéo, hỗ trợ các phần tử phản động, bất mãn, cơ hội chính trị tăng cường các hoạt động chống phá dưới chiêu bài lợi dụng dân chủ, nhân quyền, tự do ngôn luận để gây hoang mang, hoài nghi trong nhân dân; mặt khác, tác động làm lung lạc tư tưởng chính trị, mất phương hướng trong cán bộ, đảng viên tiếp tục rơi vào tình trạng tham nhũng, suy thoái trầm trọng hơn, thúc đẩy Việt Nam nhanh chóng lâm vào khủng hoảng toàn diện cả về kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội, góp phần đẩy nhanh “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, tăng thêm nguy cơ tự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đã và đang dày công xây dựng.
Thứ ba, làm suy yếu sức mạnh chính trị, tinh thần của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn quá trình lãnh đạo và tổ chức hiện thực hóa sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhà nước ta cho thấy, trong các thời kỳ cách mạng, các thế lực thù địch luôn sử dụng mọi thủ đoạn để chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta hòng làm suy yếu sức mạnh chính trị, tinh thần của Đảng, của quân và dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng nói riêng. Đây là phương thức phổ biến, thường xuyên mà các thế lực thù địch sử dụng để thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” đối với cách mạng Việt Nam.
Từ động cơ và mục đích thực sự ẩn sau các luận điệu này sẽ cho thấy chủ thể của các luận điệu là ai. Có thể chỉ ngay ra rằng, ngoài chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, còn có các phần từ cơ hội chính trị, phản động, bất mãn ở trong và ngoài nước, cùng những người bị mua chuộc, lôi kéo, kích động, xúi giục. Bên cạnh đó còn có cả những cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Đây là những cán bộ, đảng viên do thiếu tu dưỡng, rèn luyện; quan điểm, bản lĩnh, lập trường tư tưởng không kiên định, hoang mang, dao động trước những tác động đột biến từ bên ngoài, tính chiến đấu giảm sút, ý thức tổ chức kỷ luật kém; sa vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, hẹp hòi, bị cám dỗ, mua chuộc bởi lợi ích vật chất tầm thường, không làm tròn chức trách, nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân đã tin cậy giao phó.
2. Có phải ở Việt Nam hiện nay đang có sự thỏa thuận ngầm về mức độ và đối tượng tham nhũng, suy thoái; chống tham nhũng, suy thoái chỉ là cái cớ để các phe phái trong Đảng Cộng sản Việt Nam mặc cả quyền lực, kiềm chế, loại bỏ lẫn nhau; Đảng Cộng sản Việt Nam không thể đấu tranh chống tham nhũng, suy thoái thành công…?! Phải khẳng định dứt khoát rằng, đây là những luận điệu hết sức sai trái, xuyên tạc sự thật cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam. Sở sĩ khẳng định như vậy là bởi:
Một là, tham nhũng, suy thoái là hiện tượng mang tính lịch sử – xã hội gắn liền với sự tồn tại của nhà nước. Trong đó, tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để vụ lợi. Quyền lực là yếu tố quyết định làm phát sinh hành vi tham nhũng, người có quyền lực thì mới có thể sử dụng quyền lực một cách bất chính để thu lợi. Còn suy thoái hàm chứa sự tha hóa quyền lực (quyền lực chính trị, quyền lực hành chính, quyền lực kinh tế, quyền lực tư pháp, quyền lực thông tin…) để đạt được mục đích là đem lại lợi ích cho cá nhân, hoặc nhóm lợi ích. Tham nhũng và suy thoái có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.Tham nhũng là biểu hiện nghiêm trọng nhất của suy thoái vì nó gắn với quyền lực, tha hóa quyền lực của người có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy nhà nước, làm phương hại đến lợi ích cá nhân và xã hội.
Hai là, tham nhũng, suy thoái là vấn nạn toàn cầu mang tính phổ biến, không chỉ riêng có ở một quốc gia, vùng lãnh thổ nào, không phụ thuộc vào chế độ chính trị và trình độ phát triển.Tham nhũng, suy thoái tồn tại ở mọi chế độ có nhà nước vì nó luôn gắn với nhà nước và quyền lực.Khi còn tồn tại nhà nước và quyền lực nhà nước bị lạm dụng, hay bị biến dạng thì còn tồn tại tham nhũng, suy thoái.Điều đó có nghĩa, ở bất cứ chế độ xã hội nào, tham nhũng, suy thoái đều gắn với quyền lực bị thao túng, bị tha hóa.Đặt vấn đề như vậy để thấy rằng, sự tồn tại của tình trạng tham nhũng, suy thoái là hoàn toàn khách quan ở mọi chế độ chính trị, mọi quốc gia và vùng lãnh thổ. Tham nhũng, suy thoái là tình trạng chung của thế giới, chỉ khác là các nhà nước với chế độ chính trị và trình độ phát triển khác nhau sẽ có những cơ chế, biện pháp khác nhau để đấu tranh, ngăn chặn và kiểm soát sao cho đạt được hiệu quả mong muốn. Khi tham nhũng, suy thoái trở thành phổ biến, nghĩa là khi các loại quyền lực đã bị lạm dụng, bị biến dạng đến mức không còn là vai trò điều hòa lợi ích xã hội, thì sẽ làm mất đi sự ổn định chính trị, đe dọa an ninh quốc gia và sự tồn vong của mọi thể chế xã hội.
Để khẳng định tham nhũng, suy thoái là vấn nạn toàn cầu mang tính phổ biến, không chỉ riêng có ở một quốc gia, vùng lãnh thổ nào, không phụ thuộc vào chế độ chính trị và trình độ phát triển, xin dẫn ra một số minh chứng như sau: Ở Thái Lan, ngày 21/10/2008, cựu Thủ tướng Thaksin Shinawatra đã bị tuyên án tù chung thân với tội danh vi phạm luật chống tham nhũng và lạm dụng quyền lực. Đây là án tù đầu tiên đối với một cựu thủ tướng. Ở Hàn Quốc, Tổng thống Park Geun Hye bị phế truất ngày 10/3/2017 sau cuộc hạch tội của Quốc hội. Ngày 04/6/2018, Tòa án Hàn Quốc tuyên phạt bà 24 năm tù giam và tịch thu hàng triệu USD vì nhận hối lộ và lạm dụng quyền lực. Ở Mỹ, ngày 07/11/2007, cựu Thống đốc bang lllinois George Ryan thụ án tù giam về tội tham nhũng. Trước đó, ngày 06/11/2007, Cảnh sát trưởng quận Cam Michael S. Carona và cựu Cảnh sát trưởng New York Bernard bị tố cáo tham nhũng. Ông Carona bị cáo buộc 7 tội danh, trong đó có tội danh tham nhũng và đồng lõa nhận tiền, quà hối lộ. Ngày 09/11/2007, Bernard Kerik, nguyên Cảnh sát trưởng cảnh sát New York cũng đã phải ra hầu tòa về tội tham nhũng. Ở Malaysia, ngày 27/6/2018, Cảnh sát công bố trị giá tài sản bị tịch thu vì tham nhũng của cựu Thủ tướng Najib Razak lên tới 273 triệu USD. Đây là vụ thu giữ tài sản do tham nhũng mà có lớn nhất trong lịch sử nước này… Theo kết quả khảo sát về tham nhũng năm 2016 của Tổ chức Minh bạch thế giới (Transparency international – T1) đối với 168 quốc gia cho thấy, trong số 100 quốc gia tham nhũng nhất trong các quốc gia thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), còn Nhật Bản có tên trong dánh sách 18 quốc gia phát triển có chỉ số tham nhũng cao nhất thế giới.
Từ những ví dụ trên cho thấy, tham nhũng, suy thoái đã, đang và vẫn còn tiếp tục diễn ra ở mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ, không phụ thuộc vào chế độ chính trị và trình độ phát triển. Tham nhũng, suy thoái là vấn nạn toàn cầu, các quốc gia, vùng lãnh thổ dù theo chế độ xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa đều phải đối mặt với tệ nạn này, nguyên nhân dẫn đến tham nhũng, suy thoái không phải do chế độ chính trị hay do đảng phái náo nắm quyền lãnh đạo. Vì thế, luận điệu cho rằng ở Việt Nam, chế độ một đảng cầm quyền là nguyên nhân sinh ra tệ tham nhũng; do đảng cầm quyền độc đoán cai trị nên tình trạng tham nhũng xảy ra; tham nhũng là sản phẩm tất yếu của chế độ công hữu tư liệu sản xuất, chuyên chế độc đảng; tham nhũng là vấn đề thuộc bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam… là những giọng điệu xuyên tạc, bịa đặt trắng trợn.
3. Khẳng định thành công của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, suy thoái dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam xuất phát từ những lý do:
Thứ nhất, Tại Hội nghị toàn quốc về công tác phòng, chống tham nhũng tổ chức ngày 25/6/2018, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “công cuộc chống “giặc nội xâm” đang ở giai đoạn hết sức quan trọng, quyết liệt”, vì thế “Hội nghị lần này không chỉ có ý nghĩa động viên tinh thần, mà còn bàn các công việc thiết thực, cụ thể nhằm tạo bước chuyển biến mới mạnh mẽ hơn, hiệu quả cao hơn nữa trong công tác phòng, chống tham nhũng”. Chính những chuyển biến mới, mạnh mẽ hơn, hiệu quả cao hơn được tạo ra sau Hội nghị sẽ là động lực và đột phá mới cho cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, suy thoái ở nước ta trong thời gian tới.
Thứ hai, Bộ Chính trị đã ban hành một số quy định làm hành lang quản lý cán bộ, xử lý sai phạm, như: Quy định số 90-QĐ/TW ngày 04/8/2017 về tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý; Quy định số 102-QĐ/TW ngày 15/11/2017 về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm. Đặc biệt, Nghị quyết Trung ương 7 khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đã được ban hành với nhiều nội dung đổi mới quan trọng, có tính đột phá. Nghị quyết này không chỉ yêu cầu phải có phương pháp đánh giá cán bộ thật sự khách quan, chính xác, mà còn phải có cơ chế tạo động lực, đổi mới sáng tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên qua thực tiễn có nhiều khó khăn, thách thức lớn. Đây là một trong những nhiệm vụ, giải pháp quan trọng để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự tha hóa quyền lực trong bộ máy công quyền cũng như suy thoái, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên để củng cố và nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, suy thoái. Ngoài ra, Đảng ta còn có chủ trương xây dựng và hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực và chống chạy chức, chạy quyền, thân quen, lợi ích nhóm trong công tác cán bộ theo nguyên tắc mọi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế và quyền hạn phải được ràng buộc với trách nhiệm. Kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm khắc các tổ chức, cá nhân vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước, lạm dụng, lợi dụng quyền lực để thực hiện hành vi sai trái trong công tác cán bộ hoặc tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền. Kiên quyết hủy bỏ, thu hồi các quyết định không đúng về công tác cán bộ, đồng thời xử lý nghiêm tổ chức, cá nhân sai phạm, có hành vi tham nhũng trong công tác cán bộ.
Thứ ba, Nghị quyết số 04-NQ/TW về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đang có sức lan tỏa ngày càng mạnh mẽ không chỉ đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên mà với mọi tầng lớp nhân dân. Theo đó, công tác xây dựng Đảng được coi trọng hơn, ý thức toàn Đảng, toàn dân chăm lo xây dựng Đảng cao hơn. Đặc biệt, cùng với vai rò và trách nhiệm của các cấp ủy Đảng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, suy thoái đã và đang phát huy ngày càng hiệu quả, thì người đứng đầu cũng đã thấy rõ trách nhiệm của mình trong cuộc đấu tranh này. Tất cả điều này đã làm cho vai trò, vị trí, uy tín của Đảng được nâng lên rõ rệt ở cả trong nước và trên trường quốc tế. Bên cạnh đó, Đảng đã có thêm kinh nghiệm để làm tốt hơn, đó là việc kết hợp giữa “xây” và “chống” theo định hướng “xây” là cơ bản, “chống” phải quyết liệt.
Thứ tư, chủ trương của Đảng, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng, suy thoái được bổ sung, hoàn thiện kịp thời theo hướng bám sát và phù hợp với thực tiễn tình hình tham nhũng, suy thoái. Thực tiễn cho thấy, văn kiện các kỳ đại hội Đảng thời kỳ đổi mới đều đề cập đến vấn đề phòng, chống tham nhũng, suy thoái và Đảng ta đã xác định tham nhũng là một trong bốn nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng, của chế độ. Đại hội X chỉ rõ: “Tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí là đòi hỏi bức xúc của xã hội, là quyết tâm chính trị của Đảng ta, nhằm xây dựng bộ máy lãnh đạo và quản lý trong sạch, vững mạnh, khắc phục một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta”. Nhận thức rõ tính chất nguy hại của tham nhũng, suy thoái, Hội nghị Trung ương 3 khóa X đã ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 21/8/2006 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; Hội nghị Trung ương 5 khóa XI đã có kết luận số 21-KL/TW ngày 25/5/2012 yêu cầu tiếp tục thực hiện nghiêm túc, đồng bộ mục tiêu, quan điểm và các giải pháp được nêu trong Nghị quyết Trung ương 3 khóa X, đồng thời xác định các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để tạo chuyển biến rõ rệt đối với công tác phòng, chống tham nhũng; Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Nghị quyết Trung ương khóa 4 khóa XI về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay; Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Nhờ thực hiện tốt các nghị quyết, kết luận, chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về phòng, chống tham nhũng, suy thoái và xây dựng, chỉnh đốn Đảng mà còn công tác phòng, chống tham nhũng, suy thoái đã được cấp ủy, chính quyền các cấp quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện, tạo chuyển biến tích cực trên nhiều phương diện, với nhiều kết quả cụ thể, được dư luận quần chúng đồng tình, cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Các biện pháp phòng ngừa được triển khai đồng bộ, từng bước phát huy tác dụng. Nhiều vụ án tham nhũng nghiêm trọng đã được phát hiện, xử lý nghiêm minh. Tham nhũng bước đầu đã được kiềm chế, góp phần giữ vững ổn định chính trị và phát triển kinh tế – xã hội.Thực tế đã chứng minh, quyết tâm đấu tranh phòng, chống tham nhũng, suy thoái của Đảng là quyết tâm chính trị, bởi đây là vấn đề quyết định sự tồn vong của đất nước. Vì thế, Luật Phòng, chống tham nhũng ra đời năm 2005, đến nay tuy mới 12 năm nhưng đã 3 lần được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, lần mới đây nhất là tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XIV. Việc làm này cho thấy quyết tâm của Đảng, Nhà nước ta trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, suy thoái.
Từ những vấn đề trên cho thấy, tham nhũng, suy thoái không chỉ là vấn nạn toàn cầu mang tính phổ biến, không chỉ có riêng ở một quốc gia, vùng lãnh thổ nào, không phụ thuộc vào chế độ chính trị và trình độ phát triển. Đây là cuộc đấu tranh lâu dài, thường xuyên, liên tục, phức tạp, không ít khó khăn, thách thức và cũng không dễ dàng giành được thắng lợi. Vì vậy, đòi hỏi mọi tổ chức và cá nhân là thành viên của hệ thống chính trị phải đề cao cảnh giác để có nhận thức đúng, đầy đủ không chỉ về tình trạng tham nhũng, suy thoái hiện đang tồn tại một cách khách quan trong hệ thống chính trị nước ta; mà còn về kết quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng, suy thoái cũng như những hạn chế, khuyết điểm, tồn tại và nguyên nhân để chủ động có chủ trương, biện pháp đấu tranh phòng, chống, ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng này. Trong thời gian tới, khi cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, suy thoái ở nước ta càng được đẩy mạnh thì các thế lực thù địch, phản động sẽ tiếp tục gia tăng chống phá.Song dù khó khăn, gian khổ đến mấy cũng không thế lực nào có thể làm nhụt ý chí, quyết tâm đấu tranh phòng, chống tham nhũng, suy thoái của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Vấn đề quan trọng là, trong mọi tình huống, Đảng, Nhà nước và nhân dân phải luôn đề cao cảnh giác, nhận diện đúng âm mưu, thủ đoạn chống phá để từ đó có chủ trương, biện pháp đấu tranh kiên quyết, kịp thời./.

https://nhanvanviet.com

ĐẤU TRANH LÀM THẤT BẠI ÂM MƯU PHÁ HOẠI CỦA ĐỊCH ĐỐI VỚI LỰC LƯỢNG VŨ TRANG TRÊN TRẬN ĐỊA TƯ TƯỞNG

 Sự nghiệp đổi mới của Đảng ta đã và đang giành được những thành tựu to lớn, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa-xã hội, quốc phòng, an ninh. Một đất nước Việt Nam giàu mạnh là điều mà các thế lực phản động và thù địch không mong muốn. Vì vậy, chúng đã, đang và sẽ tiếp tục chống phá công cuộc đổi mới của Đảng, Nhà nước ta bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”. Mũi nhọn tấn công của địch là mặt trận “tư tưởng”, đối tượng tấn công chủ yếu là lực lượng vũ trang nhân dân. Vì vậy, chúng ta phải nêu cao cảnh giác, ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, phản động và phần tử cơ hội chính trị.
Tính chất nguy hiểm của “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng thể hiện ở chỗ: Kẻ địch tập trung phá nền tảng tư tưởng, xuyên tạc quá khứ, bôi đen lãnh đạo để phá niềm tin của quần chúng vào Đảng và chế độ, làm cho toàn xã hội hỗn loạn về tư tưởng, mất định hướng chính trị, tạo thế đứng cho các lực lượng phản động trong nước, gây áp lực chính trị cho quần chúng đòi thay đổi chế độ XHCN.
Với chiến thuật “mưa dầm thấm lâu” thông qua tác động trên lĩnh vực tư tưởng bằng những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, với những luận điểm mị dân, lừa bịp, dễ làm cho ta mất cảnh giác, mất phương hướng chính trị, không phân biệt đúng sai, thật giả, tạo ra “khoảng trống” về chính trị, tinh thần để dễ dàng tuyên truyền các quan điểm tư sản và đánh thẳng vào nội bộ ta, gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kích động lật đổ và bạo loạn chính trị.
Bằng nhiều thủ đoạn khác nhau, các thế lực thù địch, phản động làm mê muội con người, đặc biệt là thế hệ trẻ, học sinh, sinh viên bằng các loại văn hóa phẩm độc hại, đồi trụy, lối sống hưởng lạc, thực dụng, quên quá khứ, bàng quan, xa rời chính trị, xa rời lý tưởng cách mạng; tạo ra một tầng lớp  “phi chính trị”, để khi có điều kiện thì tập hợp lực lượng xấu, gây áp lực chính trị, dùng bạo loạn lật đổ và cướp chính quyền.
Thực hiện chính sách lôi kéo, thông qua các phe phái đồng minh, các tổ chức phi chính phủ, qua giao lưu, hợp tác về văn hóa, giáo dục, khoa học, nghệ thuật, báo chí... để thâm nhập, thu thập thông tin tình báo, mua chuộc cán bộ, chuyển hóa tư tưởng, cài cắm người vào các tổ chức của ta, móc nối với các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị để chống phá Đảng và Nhà nước.
Với các hình thức hoạt động phong phú đa dạng như: Tung tin đồn nhảm, tạo dư luận và áp lực xã hội, dưới chiêu bài “chống tham nhũng”, “bảo vệ tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền”..., chúng đưa ra những lời hứa mị dân để gây tâm trạng mơ hồ, mất cảnh giác, cả tin của một số người; từ đó cô lập các lực lượng cách mạng trung kiên, phân hóa những người dao động thiếu chính kiến, thiếu thông tin; lôi kéo, kích động những người có tâm trạng bất mãn, những phần tử xấu trong xã hội để gây bạo loạn lật đổ chính quyền...     
Thực tế trong những năm vừa qua, để chống phá công cuộc đổi mới của ta, địch đã sử dụng trên 40 đài phát thanh, truyền hình và 66 nhà xuất bản để tuyên truyền chống phá Việt Nam. Núp bóng nhiều hình thức, chúng đã đưa một số lượng lớn tài liệu, sách báo, truyền đơn, băng hình, băng nhạc... có nội dung phản động, đồi trụy vào Việt Nam; chỉ đạo bọn “bồi bút”, cơ hội chính trị viết nhiều bài xuyên tạc, bôi nhọ tình hình Việt Nam. Đồng thời, khuyến khích tư tưởng hẹp hòi, tâm lý kỳ thị dân tộc, hướng đồng bào về cái gọi là “Vương quốc Mông tự trị”, “Nhà nước Đề ga Mông-ta-nha”, “Vương quốc Khmer Crôm”...; đặc biệt gần đây cái gọi là “Chính phủ quốc gia lâm thời” đã bị lật tẩy, đó là một tổ chức khủng bố đã được đưa ra xét xử. Hoạt động của các tổ chức này là đẩy mạnh các hoạt động tài trợ, đào tạo, nhen nhóm chuẩn bị lực lượng chống đối, thúc đẩy di cư tự do, vượt biên trái phép, khiếu kiện đền bù giải phóng mặt bằng, tranh chấp đất đai, hoạt động của các phần tử đội lốt tôn giáo... gây mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên nhiều địa bàn.
Đối với lực lượng vũ trang, các thế lực thù địch luôn cho rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam còn đứng vững là do nắm chắc các lực lượng vũ trang. Nếu làm cho lực lượng vũ trang yếu đi, mất mục tiêu lý tưởng, phương hướng hành động thì Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ mất chỗ dựa, khi đó chế độ Cộng sản ở Việt Nam sẽ tan rã giống như Đông Âu và Liên Xô trước đây. Từ đó, chúng vào hùa với nhau, lớn tiếng  đòi “phi chính trị hóa quân đội”. Chúng tập trung phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng trong lực lượng vũ trang, làm suy giảm lòng tin, phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; kích động gây mất đoàn kết nội bộ, chia rẽ lực lượng vũ trang với nhân dân, Quân đội với Công an và các tổ chức, đoàn thể xã hội khác. Không những thế, chúng còn đòi xóa bỏ Điều 4 của Hiến pháp, tách Quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, từng bước thực hiện “dân sự hóa Bộ Quốc phòng”, “hành chính hóa quân sự”, nhằm biến Quân đội thành đội quân chuyên nghiệp, nhà nghề, phi chính trị. Cùng với đó, chúng đẩy mạnh tuyên truyền, xâm nhập các loại văn hóa độc hại, lối sống cơ hội, thực dụng, ích kỷ, hẹp hòi, vô cảm vào tầng lớp chiến sĩ trẻ trong các đơn vị, đầu độc đời sống tinh thần của cán bộ, chiến sĩ, với mục đích hình thành lối sống tiêu cực, đi ngược thuần phong mỹ tục của dân tộc và bản chất, truyền thống tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”.
Trước tình hình thực tế đó, chúng ta cần tỉnh táo nhận diện đúng bộ mặt kẻ thù, tăng cường cảnh giác và vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch, phản động, không bất ngờ, bị động, mất cảnh giác trước sự tấn công trên mặt trận chính trị, tư tưởng của chúng.
Đối với các đơn vị Quân đội, cần làm tốt việc quán triệt các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, nhiệm vụ của đơn vị; nắm vững định hướng chính trị, tư tưởng; tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, cán bộ chủ trì và vai trò của ban chỉ đạo chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng ở từng cấp. Nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên và lâu dài là tập trung giáo dục, nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tăng cường công tác lãnh đạo, quản lý tư tưởng, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định cho cán bộ, chiến sĩ; giữ vững và phát huy bản chất giai cấp công nhân, truyền thống vẻ vang Bộ đội Cụ Hồ, ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện tiêu cực, lạc hậu, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đồng thời, xây dựng các tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện, môi trường văn hóa phong phú, lành mạnh; góp phần giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong Quân đội./.
- Sự thật -


HIỂU THÊM VỀ CHỦ THỂ PHÒNG, CHỐNG “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA”

Trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có chủ thể lãnh đạo, tổ chức, quản lý, điều hành và chủ thể thực hiện. Chúng ta có thể hiểu rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp chính là chủ thể lãnh đạo phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Sở dĩ như vậy là vì, Đảng ta là Đảng cầm quyền, thực hiện sứ mệnh lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam, theo đó Đảng lãnh đạo Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị, lãnh đạo toàn diện các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
Cuộc đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là một bộ phận của cuộc đấu tranh trên lĩnh vực lý luận, tư tưởng-văn hóa; là một nội dung của công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa, vì vậy Đảng phải lãnh đạo nhiệm vụ này là tất yếu, khách quan. Hệ thống cấp ủy, tổ chức đảng các cấp là chủ thể lãnh đạo phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” theo phạm vi chức năng, quyền hạn của từng cấp. Để thực hiện tốt nhiệm vụ lãnh đạo, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư xác định phương hướng, chủ trương, biện pháp lãnh đạo trong các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị, trong nghị quyết chuyên đề về làm cơ sở để cấp ủy, tổ chức đảng các cấp nghiên cứu, quán triệt, xác định những chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chương trình, kế hoạch... phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở cấp mình.  
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cả cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp là chủ thể quản lý, điều hành nhiệm vụ phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" ở nước ta hiện nay. Hệ thống cơ quan chính quyền các cấp từ Trung ương đến cơ sở là chủ thể quản lý, điều hành các hoạt động và trực tiếp xử lý các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở cơ quan, đơn vị, địa phương thuộc quyền. Để thực hiện vai trò quản lý, điều hành của mình, Nhà nước ban hành những luật, nghị định, những văn bản quy phạm pháp luật, quy định, quy chế... nhằm ngăn ngừa những nguồn gốc, nguyên nhân dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, trái với đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chính quyền các cấp dựa trên hệ thống luật pháp, chính sách của Nhà nước, đường lối, quan điểm của Đảng, chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy cấp trên, cấp mình để thực hiện chức năng quản lý, điều hành hoạt động phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong phạm vi cơ quan, đơn vị, địa phương, ban, ngành của mình.
Đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân là chủ thể thực hiện phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta. Những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn ra ở mỗi con người và tổ chức, gắn với hoạt động của các cơ quan, đơn vị, địa phương. Chính vì vậy, đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhân dân, cán bộ, chiến sĩ trong LLVT ở từng cơ quan, đơn vị hiểu rõ tổ chức nào, cá nhân nào thực sự là tiên phong, mẫu mực, trung kiên, trong sạch, liêm khiết; còn tổ chức nào, cá nhân nào đang bị “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Do đó, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cần được tiến hành ngay từ cơ sở, trong từng cơ quan, đơn vị, địa phương, từ đó góp phần vào kết quả phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong toàn xã hội./.
                                                                                         Sự thật


QUAN NIỆM DUY VẬT VỀ LỊCH SỬ CỦA C.MÁC VÀ Ý NGHĨA THỜI ĐẠI

Trong di sản lý luận đồ sộ, sâu sắc của C.Mác, chúng ta có thể nhận thấy một trong ba cống hiến khoa học chủ yếu là:C.Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử thế giới.
C.Mác là người đầu tiên đã áp dụng phép biện chứng duy vật do chính Ông xây dựng vào việc nghiên cứu lịch sử, làm cho chủ nghĩa duy vật trở thành hoàn bị, triệt để. Ph.Ăngghen nói rằng giống như Đácuyn đã phát hiện quy luật của thế giới hữu cơ, C.Mác đã phát hiện quy luật phát triển của lịch sử loài người. Cái sự thật đơn giản đã bị những tầng tầng lớp lớp tư tưởng phủ kín cho đến ngày nay là: con người trước hết cần phải ăn, uống, chỗ ở và mặc đã rồi mới có thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo và v.v. được; vì vậy, việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp và chính, mỗi một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định của một dân tộc hay một thời đại tạo ra một cơ sở, từ đó mà người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của con người ta, cho nên phải xuất phát từ cơ sở đó mà giải thích những cái này, chứ không phải ngược lại, như từ trước đến nay người ta đã làm.Nhưng không phải chỉ có thế thôi. Mác cũng tìm ra quy luật vận động riêng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện đại và của xã hội tư sản do phương thức đó đẻ ra. Với việc phát hiện ra giá trị thặng dư trong lĩnh vực này thì lập tức một ánh sáng đã hiện ra trong khi tất cả các công trình nghiên cứu trước đây của các nhà kinh tế học tư sản cũng như của các nhà phê bình xã hội chủ nghĩa vẫn đều mò mẫm trong bóng tối. Ph.Ăngghen coi đó là một trong hai phát minh vĩ đại của C.Mác - quan niệm duy vật về lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư.
V.I.Lênin khẳng định: Chủ nghĩa duy vật lịch sử của C.Mác là thành quả vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Sự hỗn độn và sự tuỳ tiện từ trước đến nay vẫn thống trị trong các quan niệm về lịch sử và chính trị đã được thay thế bằng một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ.
Thực tiễn những năm cuối thế kỷ XX - đầu thế kỷ XXI không hề phủ nhận tính khoa học của chủ nghĩa duy vật lịch sử; trái lại, càng khẳng định tính đúng đắn và khoa học của nó. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra rộng khắp trên toàn thế giới đang chứng minh luận điểm của C.Mác coi sự phát triển của xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên, trong đó giai đoạn phát triển sau bao giờ cũng tiến bộ hơn giai đoạn phát triển trước; chứng minh các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử vẫn còn nguyên giá trị và chủ nghĩa tư bản nhất định sẽ được thay thế bằng một xã hội mới phát triển cao hơn, tiến bộ hơn. Sự thành công của công cuộc cải cách, mở cửa, đổi mới ở Trung Quốc và Việt Nam cũng bổ sung thêm những chi tiết mới vào con đường, cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội đối với những nước thực hiện bước quá độ “rút ngắn”, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Chính sự sáng tạo trong vận dụng, sự bổ sung và hoàn thiện những nguyên lý chủ nghĩa Mác cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử mới của thời đại là con đường đúng đắn để bảo vệ chủ nghĩa Mác, để kiên trì đi theo chủ nghĩa Mác. Đó cũng là một nhiệm vụ cấp bách đang đặt ra cho những người làm công tác lý luận ở nước ta hiện nay.


HVP

GIÁ TRỊ VÀ SỨC SỐNG CỦA HỌC THUYẾT C.MÁC TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY

Với sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào, từ đó đặt chủ nghĩa Mác-Lênin trước sự thử thách khắc nghiệt của lịch sử. Trong bối cảnh đó, các nhà chính trị và tư tưởng tư sản phản động hí hửng tung ra đủ thứ lý luận nhằm bác bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin và rêu rao về sự thắng lợi của chủ nghĩa tư bản, sự diệt vong của chủ nghĩa cộng sản, về “chiến thắng không cần chiến tranh” (Nichxơn), về “Sự tận cùng của lịch sử” (Phucuyama). Không những kẻ thù của chủ nghĩa Mác-Lênin mà cả một số người trước đây một thời được coi là người mác xít, thì giờ đây cũng ra sức xuyên tạc, bác bỏ, công kích chủ nghĩa Mác-Lênin, họ cho rằng học thuyết đó đã lỗi thờirồi.
Giá trị của học thuyết C.Mác không phải ở chỗ mọi câu nói của C.Mác đều là chân lý vĩnh cửu, những người cách mạng cứ thế mà áp dụng không cần xem xét điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. C.Mác từng tuyên bố: “Chúng ta không tỏ ra là những nhà lý luận suông tay cầm một mớ nguyên lý có sẵn: đây là chân lý, hãy phục tùng nó đi”. Ph.Ăngghen đã nhiều lần nhấn mạnh: “Học thuyết của chúng tôi không phải là giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động”.Nói về cái tinh tuý nhất trong học thuyết Mác, Hồ Chí Minh tóm gọn trong ba chữ: phép biện chứng- tức linh hồn sống của chủ nghĩa Mác.V.I.Lênin nói : “Học thuyết C.Mác là học thuyết vạn năng, vì nó là một học thuyết chính xác. Đó là một học thuyết cân đối và hoàn bị, nó cho người ta một thế giới quan hoàn chỉnh, không thoả hiệp với bất cứ một sự mê tín nào, một hành vi phản động nào, một hành vi bảo vệ sự áp bức của tư sản…”.
HVP






Từ những việc làm thực chất, càng tin tưởng vào sức chiến đấu của Trung ương Đảng

Quá trình lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định, phát triển kinh tế-xã hội là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, xây dựng văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh và bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của cả hệ thống chính trị. Để thực hiện hiệu quả “nhiệm vụ then chốt”, Đảng ta luôn chú trọng chăm lo nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng các cấp trong toàn Đảng, đặc biệt là cấp Trung ương.
Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng sức chiến đấu trong Đảng
Cùng với việc không ngừng chăm lo xây dựng, nâng cao năng lực lãnh đạo để xứng đáng là một đảng cầm quyền đối với Nhà nước và xã hội, những năm qua, Đảng ta luôn coi trọng củng cố, tăng cường sức chiến đấu của Đảng. Từ Cương lĩnh, Điều lệ Đảng đến các văn kiện đại hội của Đảng, một trong những vấn đề căn cốt được Đảng ta nhấn mạnh là Đảng Cộng sản Việt Nam được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo cách mạng của Đảng. Đến Đại hội XII của Đảng, ngoài việc xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, Đảng bổ sung nội dung xây dựng Đảng về đạo đức.
Nếu như nâng cao năng lực lãnh đạo cách mạng góp phần tạo nên và khẳng định vị thế, sức mạnh cầm quyền của Đảng, thì nâng cao sức chiến đấu sẽ góp phần củng cố và tạo nên uy tín, danh dự của Đảng. Đây là hai mặt, hai chỉnh thể thống nhất của một vấn đề mà khi tuyệt đối hóa hay coi nhẹ bất cứ mặt nào cũng ảnh hưởng đến tính chính danh và sức mạnh lãnh đạo của Đảng. Thấu suốt điều đó, Đảng ta, trước hết là Ban Chấp hành (BCH) Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã đề ra nhiều chủ trương, nội dung, giải pháp để không ngừng nâng cao sức chiến đấu của tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở.
Một trong những thành công được đông đảo các tầng lớp nhân dân và dư luận xã hội ghi nhận trong 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng là BCH Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã có nhiều việc làm thiết thực, quyết liệt, thực chất để tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, qua đó củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.
Về mặt chủ trương, đường lối, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, quy định thể hiện sự nỗ lực, quyết tâm đưa công tác xây dựng Đảng vào đúng “vị trí then chốt”. Một trong những nghị quyết được nhắc tới nhiều nhất vì đã, đang đi vào cuộc sống, được nhân dân và dư luận xã hội đánh giá cao là BCH Trung ương Đảng khóa XII ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 30-10-2016 “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Không giống như một số nghị quyết chuyên đề về xây dựng Đảng trước đây (Nghị quyết Trung ương 6 lần 2, khóa VIII và Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI), tại Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII, lần đầu tiên Đảng ta đã chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm cụ thể trong Đảng với 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Bên cạnh đó, Đảng đã ban hành nhiều quy định quan trọng nhằm góp phần củng cố, nâng cao sức chiến đấu của tổ chức đảng các cấp và đội ngũ đảng viên, nhất là đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo cao cấp. Đó là: Bộ Chính trị ban hành Quy định số 55-QĐ/TW ngày 19-12-2016 “Về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên”; BCH Trung ương ban hành Quy định số 85-QĐ/TW ngày 23-5-2017 “Về kiểm tra, giám sát việc kê khai tài sản của cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý”; Bộ Chính trị ban hành Quy định số 102-QĐ/TW ngày 15-11-2017 “Về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm”; Ban Bí thư ban hành Quy định số 109-QĐ/TW ngày 3-1-2018 “Về công tác kiểm tra của tổ chức đảng đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên”; BCH Trung ương ban hành Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25-10-2018 “Quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”...
Củng cố niềm tin của nhân dân bằng việc làm trong sạch nội bộ từ Trung ương Đảng
Trước đây có một thời khi nói về cán bộ cấp chiến lược, như: Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên BCH Trung ương, nhiều người có tâm lý nhận định, đánh giá rằng, đã là cán bộ lãnh đạo cao cấp thì mọi mặt là “toàn diện, hoàn hảo” rồi, khó có chuyện xảy ra khuyết điểm, sai phạm nên ngại góp ý, phê bình. Cũng một thời trước đây, trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là trong tự phê bình, phê bình và kỷ luật Đảng, đâu đó vẫn quan niệm và thực hiện “dưới nghiêm, trên nhẹ”, do vậy phần nào ảnh hưởng đến việc hiện thực hóa mục tiêu củng cố, nâng cao sức chiến đấu trong Đảng.
Tuy vậy, những năm gần đây, tư duy và cách làm xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã được đổi mới đồng bộ, căn cơ, triệt để và bước đầu mang lại hiệu quả tích cực, khả quan. Điều đó được biểu hiện rõ nét ở khâu tổ chức ra nghị quyết, chỉ thị, quy định của Trung ương Đảng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo hướng sát thực, cụ thể, khả thi; đối tượng điều chỉnh không chỉ là cán bộ, đảng viên chung chung, mà trước hết là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược. Ví như, Trung ương Đảng đã quy định rất rõ về kiểm tra, giám sát việc kê khai tài sản của cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý. Hay chỉ rõ 8 điều cụ thể mà Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên BCH Trung ương phải nghiêm khắc với bản thân và kiên quyết chống, đó là: Chủ nghĩa cá nhân, cục bộ, bản vị; độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, xa dân; chủ trì tham mưu, ban hành cơ chế, chính sách trái chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước; chạy hoặc tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền, chạy phiếu bầu, chạy phiếu tín nhiệm; tham nhũng, hối lộ dưới mọi hình thức; lãng phí công quỹ, tài sản, phương tiện, nhân lực và thời gian làm việc; lợi dụng doanh nghiệp hoặc để doanh nghiệp lợi dụng nhằm vụ lợi; để vợ (chồng), bố, mẹ, con, anh chị em ruột lợi dụng chức vụ, quyền hạn, uy tín của mình để vụ lợi…
Thông qua dẫn chứng trên để thấy, Đảng ta, trước hết là BCHTW, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã nhận thức sâu sắc rằng, muốn làm chuyển biến tình hình thực sự trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thì trước hết tự thân mỗi cán bộ cao cấp của Đảng phải mẫu mực “nói đi đôi với làm”, làm thực chất, làm hiệu quả để lan tỏa trách nhiệm nêu gương của mình trong toàn Đảng và xã hội; đồng thời chủ động nhắc nhở, cảnh báo, cảnh tỉnh mỗi người phải luôn nghiêm khắc với bản thân và gia đình, tự giác khép mình vào khuôn khổ tổ chức, chấp hành nghiêm kỷ luật Đảng và pháp luật Nhà nước, nếu không sẽ bị xử lý nghiêm minh.
Sức chiến đấu của Đảng không dừng lại ở nghị quyết, chỉ thị có giá trị lý luận và tính khả thi cao, mà hơn thế, nó được biểu hiện sâu sắc ở những hành động, việc làm cụ thể. Một trong những việc làm để lại dấu ấn rõ nét là từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay, BCHTW, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã xem xét, xử lý kỷ luật hơn 60 cán bộ cao cấp, nguyên cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước. Con số cán bộ cao cấp bị kỷ luật “kỷ lục” này, một mặt thể hiện phương châm kỷ luật của Đảng ta là “không có vùng cấm, không có ngoại lệ” đã, đang được thực hiện nhất quán, triệt để; mặt khác, chứng tỏ thái độ, nhận thức về sức chiến đấu của BCH Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã có sự phát triển vượt bậc. Khi Đảng nghiêm khắc với chính mình, tự “gột rửa, chữa trị” những “vết thương” trong nội bộ thì mới góp phần tạo tiền đề, động lực để xây dựng, nâng cao “sức đề kháng” và sức chiến đấu cho toàn Đảng.
Dân gian có câu đại ý: Muốn tắm sạch cơ thể thì trước hết phải gội sạch đầu và rửa sạch mặt mình. Nhìn rộng ra, với việc chấn chỉnh, làm trong sạch từ nội bộ Trung ương Đảng, với phương châm tự phê bình và phê bình “trên trước, dưới sau”, “trong trước, ngoài sau” và với ý chí kỷ luật “trên, dưới đều xử lý nghiêm minh, nghiêm khắc”, Đảng ta đang đi đúng quy luật xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đó là: Muốn Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, thì trước hết phải xây dựng và bảo đảm “bộ não” Trung ương Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức.

“Nói vậy, làm vậy”, “Nói đâu, làm đấy”, “Nói đi đôi với làm” là những cụm từ được nhân dân, dư luận xã hội nhìn nhận, đánh giá, khen ngợi về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đến nay. Đúng vậy. Từ sự chỉ đạo quyết liệt đến những việc làm, kết quả “mắt thấy, tai nghe”, hoàn toàn có cơ sở để chúng ta tin tưởng rằng, sức chiến đấu của Đảng ta nói chung, sức chiến đấu của Trung ương Đảng nói riêng, đã và đang được củng cố, tăng cường và hiện diện sinh động trong thực tiễn. Đó cũng là cơ sở niềm tin mà toàn dân, toàn quân đang hướng về Đảng Cộng sản Việt Nam với hạt nhân lãnh đạo là BCH Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.