Những năm qua, thế giới chứng kiến
Mỹ và đồng minh núp bóng chiêu bài “can thiệp nhân đạo” để can thiệp thô bạo
vào các quốc gia có chủ quyền, nhằm thực hiện cái gọi là bảo vệ “dân chủ, nhân
quyền”, “an ninh thế giới”. Đây là chiêu bài hết sức nguy hiểm, cần nhận thức
đúng và có giải pháp phòng ngừa hiệu quả.
Quan điểm của cộng đồng quốc tế về
“can thiệp nhân đạo”
Xuất hiện vào khoảng thế kỷ XVII ở
châu Âu, khái niệm “can thiệp nhân đạo” ra đời dưới dạng học thuyết, được gắn
với luật tự nhiên và chủ nghĩa tự do, với những nội dung gây ra nhiều tranh cãi
giữa các trường phái lý luận khác nhau. Theo quan điểm của H. Grotius1 (đại
diện tiêu biểu cho các nhà lý luận tự do kinh điển châu Âu được đa số học giả
ủng hộ), các quan hệ nảy sinh trong đời sống quốc tế cần được điều chỉnh trên
cơ sở tôn trọng chủ quyền quốc gia. Ông đã đưa ra thuật ngữ “chiến tranh chính
nghĩa” và nhấn mạnh rằng chiến tranh chỉ có thể được phép nếu có lý do chính
nghĩa, rõ ràng. Quan điểm của Grotius về “can thiệp nhân đạo” đã được sự ủng hộ
của đa số luật gia phương Tây hiện đại và các chính khách Mỹ. Đến thế kỷ XX,
học thuyết “Can thiệp nhân đạo” dần mất cơ sở thực tế trong quan hệ giữa các
nước và cũng không có cơ sở trong luật pháp quốc tế. Theo quan điểm của các
luật gia quốc tế và cố Tổng Thư ký Liên hợp quốc Kofi Annan, “can thiệp nhân
đạo” là quyền của cộng đồng quốc tế tiến hành hành động can thiệp vào một quốc
gia, mà không có sự chấp thuận của quốc gia đó và của Hội đồng Bảo an Liên hợp
quốc, nhằm ngăn chặn, chấm dứt tình trạng vi phạm nhân quyền hàng loạt tại đó
và được thực hiện dưới hình thức vũ lực hoặc không vũ lực.
Trên thực tế, dẫu dưới bất kể
hình thức nào, đặc biệt là bằng vũ lực, thì “can thiệp nhân đạo” đều vi phạm
hai nguyên tắc pháp lý cơ bản của luật pháp quốc tế: quyền tự vệ của quốc gia
can thiệp và quyền độc lập của quốc gia là đối tượng của hành vi can thiệp.
Hiến chương Liên hợp quốc, tại Khoản 4, Điều 2 đã ghi rõ: “Tất cả các quốc
gia thành viên kiềm chế không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực chống
lại sự toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của các quốc gia khác không phù
hợp với mục đích của Liên hợp quốc”2. Tại khóa họp lần thứ 20
(năm 1965) của Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua Tuyên bố về việc cấm một
quốc gia hoặc một nhóm các quốc gia can thiệp vào công việc nội bộ của nước
khác với bất cứ lý do gì. Trong đó, điều khoản đầu tiên khẳng định: “Không
một quốc gia nào có quyền can thiệp trực tiếp hay gián tiếp và vì bất kỳ lý do
nào vào công việc của quốc gia khác. Vì vậy, tất cả các hành vi can thiệp vũ
trang và tất cả các hành vi can thiệp khác hoặc đe dọa can thiệp chống lại cơ
sở kinh tế, chính trị, văn hóa của quốc gia khác đều bị lên án”. Như vậy,
“can thiệp nhân đạo” không được cộng đồng quốc tế công nhận.
Dù vậy, những năm qua, đặc biệt là
từ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới vẫn chứng kiến sự tồn tại của
cái gọi là “can thiệp nhân đạo” và Liên hợp quốc cũng chưa có cơ chế để giám
sát, hạn chế hành vi này. Vì vậy, “can thiệp nhân đạo” đã bị Mỹ và đồng minh
lợi dụng để phục vụ ý đồ riêng của họ.
“Can thiệp nhân đạo” trong chính
sách đối ngoại của Mỹ và các nước phương Tây
Mặc dù luật pháp quốc tế đặt ra
nguyên tắc không can thiệp vào chủ quyền quốc gia, nhưng theo Điều 39, Hiến
chương Liên hợp quốc, Hội đồng Bảo an có thể áp dụng các biện pháp phòng ngừa
và cưỡng chế đối với quốc gia có hành động đe dọa hòa bình; phá hoại hòa bình
hoặc có hành vi xâm lược. Tuy nhiên, bản chất của sự can thiệp có tính chất tập
thể và có điều kiện, chứ không phải là sự can thiệp tùy tiện của một hoặc một
nhóm quốc gia, không bao hàm yếu tố nhân quyền. Tuy nhiên, với lập luận “nhằm
giải quyết mối nguy cơ diệt chủng”, “lợi ích quốc gia bị đe dọa”, “bảo
vệ vai trò lãnh đạo của Mỹ trong thế giới tự do”3, họ tự biến
mình thành “sen đầm quốc tế”, lôi kéo các đồng minh sử dụng “can thiệp nhân
đạo” để can thiệp thô bạo vào các quốc gia có chủ quyền, điển hình là tại Nam
Tư. Theo đó, với chiêu bài bảo vệ “người Anbani bị người Serbia thanh lọc sắc
tộc ở Kosovo”, năm 1999, Mỹ và NATO đã mở cuộc chiến tranh với quy mô lớn vào
quốc gia này. Khi bị cộng đồng quốc tế lên án, Mỹ lập luận rằng, “nhân quyền
cao hơn chủ quyền”, cho nên, việc vi phạm chủ quyền quốc gia của ai đó với mục
đích nhân đạo hoặc “ngăn chặn tệ nạn diệt chủng” là có thể biện minh được. Sau
cuộc chiến tranh này, “can thiệp nhân đạo” được chính thức đưa vào nội dung
chiến lược mới của NATO và được thông qua tại dịp kỷ niệm 50 năm ngày thành lập
tổ chức này. Năm 2001, sau sự kiện ngày 11-9, Mỹ đã phát động cuộc chiến tranh
“toàn cầu chống khủng bố”, nhằm vào Apganistan, một quốc gia bị Mỹ và NATO cho
là nơi chứa chấp những tên khủng bố đã gây ra sự kiện 11-9.
Tuy nhiên, “bàn tay không che được
bầu trời”, mưu đồ của Mỹ đã bị dư luận quốc tế chỉ rõ. Nhìn vào bản đồ thế
giới, chúng ta dễ dàng nhận thấy các quốc gia bị Mỹ áp dụng học thuyết “can
thiệp nhân đạo” đều nằm trong khu vực có vị trí quan trọng về địa chính trị,
kinh tế và quân sự. Nổi bật, như: Afganistan là bàn đạp để chi phối toàn bộ
vùng Trung Á; Serbia là trọng tâm trong vành đai “động đất địa - chính trị” kéo
từ Balkan qua Kavkaz đến Pakistan, Ấn Độ, v.v. Để biện minh cho hoạt động
can thiệp, Mỹ và đồng minh cho rằng, trong trường hợp một quốc gia bị rơi vào
nội chiến hoặc khi chính quyền sở tại áp bức người dân của chính nước họ thì
các quốc gia khác không thể coi các nguyên tắc cơ bản của pháp lý quốc tế về
tôn trọng chủ quyền và không can thiệp là bất khả xâm phạm. Với việc pháp điển
hóa nhân quyền trong luật quốc tế, Mỹ đã đẩy khái niệm chủ quyền quốc gia xuống
hàng thứ yếu. Theo họ, cần thiết phải giới hạn, thậm chí xâm phạm chủ quyền để
đảm bảo nhân quyền.
Sự phát triển mới về “can thiệp nhân
đạo”
Tháng 7-2009, tại Đại hội đồng Liên
hợp quốc diễn ra cuộc thảo luận toàn thể về Báo cáo của Tổng Thư ký Liên hợp
quốc dưới nhan đề: “Thực hiện trách nhiệm bảo vệ”, nhằm nỗ lực thể chế
hóa khái niệm “can thiệp nhân đạo” trong khuôn khổ Liên hợp quốc. Tuy nhiên,
những nỗ lực đó không được sự hưởng ứng của đa số các quốc gia thành viên, nhất
là các nước đang phát triển. Các nước này cho rằng, khái niệm “can thiệp nhân
đạo” không có cơ sở trong luật pháp quốc tế hiện đại và việc áp dụng nó sẽ xâm
phạm chủ quyền quốc gia, tạo điều kiện cho các nước lớn áp đặt các tiêu chuẩn
và giá trị của họ đối với các nước yếu hơn. Đối thoại với Đại hội đồng Liên hợp
quốc về Báo cáo “Thực hiện trách nhiệm bảo vệ”, cựu Ngoại trưởng
Australia Gareth Evans, một trong những người khởi xướng khái niệm này, khẳng
định “can thiệp nhân đạo” đã bị chôn vùi, “trách nhiệm bảo vệ” là
khái niệm hoàn toàn mới, được phát triển trên cơ sở quan điểm “can thiệp nhân
đạo” và có chung mục tiêu là nhằm ứng phó với những vi phạm nghiêm trọng Luật
Nhân đạo và nhân quyền quốc tế. Theo đó, “trách nhiệm bảo vệ” được
xác định là hành động tập thể thông qua Liên hợp quốc, với phạm vi, điều kiện
tuân thủ các quy định của luật pháp quốc tế. Nhưng, dù được che đậy dưới bất kỳ
tên gọi nào, thì bản chất của sự can thiệp vào chủ quyền, độc lập của một quốc
gia khác vì mục đích chính trị trong “can thiệp nhân đạo” là không hề
thay đổi. Như thế, nó không thể biện minh cho việc phớt lờ luật pháp quốc tế,
những hành động mà động cơ chính là nhằm áp đặt một trật tự thế giới có lợi cho
Mỹ và phương Tây, chứ không phải là để bảo vệ nhân quyền, an ninh và hòa bình
trên thế giới.
Quan điểm của Việt Nam
Là đất nước yêu chuộng hòa bình,
Việt Nam luôn khẳng định chính sách nhất quán muốn làm bạn và là đối tác tin
cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, thành viên có trách nhiệm của các tổ
chức quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển, hợp tác cùng có lợi,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Nhà nước Việt Nam kiên trì đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở; chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa
các quan hệ quốc tế. Tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nỗ lực đảm
bảo ngày càng tốt hơn quyền con người, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh
chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội. Nhà nước Việt Nam kiên quyết lên án bất kỳ quốc gia, dân tộc nào can thiệp
vào chủ quyền, công việc nội bộ của quốc gia khác dưới bất kỳ hình thức
nào.
Một số giải pháp phòng ngừa
Trong những năm tới, Mỹ và các nước
phương Tây sẽ tiếp tục lợi dụng “can thiệp nhân đạo” để can thiệp vào
chủ quyền, độc lập của quốc gia khác, nhằm áp đặt một trật tự thế giới theo ý
đồ của họ, trong đó có Việt Nam. Vì thế, để góp phần nâng cao hiệu quả công tác
phòng ngừa, đấu tranh với dạng thức “can thiệp nhân đạo”, cần thực hiện tốt các
nội dung trọng tâm sau:
Một là, tiếp tục chủ động triển khai nắm tình hình, dự báo kịp
thời mọi âm mưu, hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo tại
các địa bàn trọng yếu dễ xảy ra biểu tình hoặc tồn tại các vụ việc khiếu kiện
phức tạp, vượt cấp kéo dài chậm được giải quyết. Bởi, đây là vấn đề dễ bị các
thế lực thù địch lợi dụng với những hình thức, biện pháp khác nhau để chống phá
nước ta. Do đó, cần kịp thời phát hiện, phối hợp giải quyết dứt điểm các mâu
thuẫn, khiếu kiện, “điểm nóng” ngay từ cơ sở, không để kéo dài, lây lan,
vượt cấp. Đồng thời, nắm tình hình tâm tư, nguyện vọng, những khó khăn, bức xúc
trong nhân dân để tham mưu, đề xuất với các cơ quan chức năng giải quyết triệt
để, thỏa đáng vấn đề đặt ra trên cơ sở pháp luật.
Hai là, tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền
chính sách, thành tựu về đảm bảo quyền con người ở Việt Nam; kết hợp chặt chẽ
giữa tuyên truyền đối nội và tuyên truyền đối ngoại; tận dụng thế mạnh của các
kênh ngoại giao, đối thoại, hợp tác làm cho cộng đồng quốc tế, kiều bào ta ở
nước ngoài hiểu đúng đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước và thành tựu đã đạt được trong đảm bảo quyền con người ở Việt Nam, góp
phần đấu tranh có hiệu quả với các luận điệu vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ,
nhân quyền, đàn áp dân tộc, tôn giáo hòng tạo cớ để can thiệp.
Ba là, tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
xóa đói, giảm nghèo,… kết hợp với thực hiện công bằng xã hội, không ngừng nâng
cao trình độ dân trí, đặc biệt là đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu,
vùng xa, biên giới hải đảo, góp phần đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền và lợi ích
của người dân trên cơ sở pháp luật. Đồng thời, tăng cường quốc phòng, an ninh,
giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc chủ
quyền của Tổ quốc trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. Cùng với đó, cần tiếp tục
hoàn thành tốt vai trò là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, thực
hiện hiệu quả các cam kết quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam đã tham gia ký kết;
đẩy mạnh hợp tác quốc tế với các quốc gia trên cơ sở cùng có lợi, không can
thiệp vào nội bộ của nhau.
Nguồn: www.tapchiqptd.vn
1 - H. Grotius (1583-1645): Nhà
triết học Hà Lan thế kỷ XVI - XVII.
2 - Hiến chương Liên hợp quốc, được
ký kết ngày 26-6-1945 bởi 50 nước thành viên đầu tiên, có hiệu lực từ ngày
24-10-1945; Nguồn WikiSource.
3 - Theo: “The Bush years: W’.s
world”, New york times Magazine, 14-01-2001.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét