Thứ Hai, 17 tháng 2, 2020

Bảo đảm an toàn thông tin trên mặt trận tư tưởng



Mặt trận tư tưởng được coi là “mặt trận không tiếng súng” nhưng mối nguy hại từ những luồng tư tưởng xấu lại có sức công phá lớn đe dọa đến sự tồn vong của quốc gia, dân tộc. Lành mạnh hóa không gian, môi trường sống với nền tảng tư tưởng vững mạnh, hệ thống thông tin đáng tin cậy cùng bản lĩnh chính trị của người truyền phát - tiếp nhận thông tin là nhân tố quan trọng góp phần chống lại những luận điệu xuyên tạc của thế lực thù địch trong và ngoài nước.
Sự nhiễu loạn thông tin trên mặt trận tư tưởng
Thông tin là sức mạnh, vì thế việc kiểm soát tốt thông tin, nhất là những thông tin chính trị, ngoại giao, quân sự, kinh tế, khoa học có vai trò quan trọng quyết định đến sự lớn mạnh, ổn định, phát triển của mỗi quốc gia. Trên mặt trận tư tưởng, thông tin là hạt nhân, là cầu nối quan trọng giữa chủ thể truyền phát (cơ quan, đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội) với chủ thể tiếp nhận (công chúng). Đó là mối quan hệ, tương tác hai chiều, tác động qua lại và chi phối lẫn nhau. Thông tin tốt sẽ định hướng, tập hợp được quần chúng, tạo sự đồng thuận cùng hướng đến những lý tưởng mục tiêu tốt đẹp. Trái lại, những thông tin xấu, độc có tác động tiêu cực, gây hoang mang, dao động, suy giảm niềm tin; kích động bạo lực, lật đổ với mưu đồ chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, làm thay đổi nhận thức, hành động của con người theo chiều hướng xấu, tạo sự khủng hoảng và những cơn dư chấn mạnh trong đời sống chính trị - xã hội, gây “những tổn thương tinh thần” cho nhiều thế hệ… Do vậy, việc kiểm soát tốt thông tin với tính chất là khâu đầu tiên “thanh lọc” những vấn đề tốt - xấu để định hướng, tuyên truyền, mang đến cho người tiếp nhận những tri thức hữu ích nhằm không ngừng nâng cao trình độ văn hóa, kiến thức chuyên ngành, phục vụ tốt nhất cho hoạt động sản xuất vật chất và nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân là việc làm cần thiết, cấp bách, lâu dài, có ý nghĩa chiến lược.
Kiểm soát thông tin, trách nhiệm đầu tiên thuộc về cơ quan quản lý, các tổ chức đoàn thể chính trị, nhưng vai trò của chủ thể nhân dân cũng không kém phần quan trọng. Việc chủ động, nâng cao trình độ nhận thức sẽ là những điều kiện đầu tiên, căn bản để người dân tự kiểm soát, chắt lọc, nhận diện thông tin.
Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, internet mang lại những cơ hội thuận lợi để con người ở các châu lục có điều kiện tiếp cận, trao đổi, giao lưu một cách dễ dàng, thuận tiện, nhanh nhạy trên mọi lĩnh vực, không phân biệt màu da, dân tộc, giai tầng, lứa tuổi; giúp các quốc gia, dân tộc xích lại gần với nhau hơn; xóa nhòa khoảng cách về không gian địa lý, mở ra những cơ hội, vận hội mới để cùng nhau hợp tác, phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực thì mặt trái của internet, mạng xã hội cũng gây ra những hệ lụy không nhỏ, tác động tiêu cực đến đời sống tư tưởng, tình cảm con người, nhất là tầng lớp thanh thiếu niên. Trên không gian mạng hiện nay, bên cạnh những thông tin chính thống, phản ánh sự thật lại là sự áp đảo của các thông tin xuyên tạc, bịa đặt được cung cấp bởi các thế lực thù địch, các nhà mạng nước ngoài. Sự tràn ngập của các thông tin tốt - xấu lẫn lộn, sự xâm lăng văn hóa, sự xuất hiện của những xuất bản phẩm kém giá trị, sự lộng hành của các trang web “đen”, những hạn chế, yếu kém trong công tác quản lý truyền thông… đang tạo những nguồn cơn dẫn đến nguy cơ của cuộc chiến tranh mới mà Đại hội XII của Đảng gọi là “chiến tranh cục bộ, chiến tranh mạng”(1), đe dọa đến sự an toàn, an ninh con người ở nước ta hiện nay.
Một trong những thách thức trong công tác tư tưởng là sự nhiễu loạn của hệ thống thông tin với những tin tốt - xấu lẫn lộn, khó kiểm soát. Với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, sự trỗi dậy của các nhóm, thế lực phản động, chúng đã tận dụng những ưu thế vượt trội của công nghệ số, mạng xã hội để tuyên truyền những tư tưởng độc hại nhằm gây nhiễu thông tin chính thống, làm ô nhiễm môi trường, không gian mạng, gây hoang mang dư luận; phá vỡ niềm tin và cắt đứt sợi dây liên kết giữa Đảng với nhân dân, nhất là vào những thời điểm mang ý nghĩa chính trị - lịch sử quan trọng như trước và sau các kỳ Đại hội Đảng, các ngày lễ kỷ niệm, các sự kiện trọng đại của đất nước với tần số bài viết đăng tải lớn trên nhiều kênh, phương tiện truyền thông nhằm bôi nhọ danh dự, nhân phẩm của các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, gây sự chú ý, tò mò của công chúng, làm lạc hướng dư luận. Không chỉ tấn công vào hệ thống chính trị trong những thời điểm cụ thể mà hằng ngày, hằng giờ trên không gian mạng, các trang web có nội dung thiếu lành mạnh, cắt ghép hình ảnh, thêm bớt thông tin theo chiều hướng bất lợi xuất hiện liên tục, bàn luận đến nhiều vấn đề, sự kiện trong nước, chủ yếu xoáy sâu vào những góc khuất, những mặt trái của xã hội với cái nhìn định kiến, bịa đặt, xuyên tạc, kình địch với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, phủ nhận những thành quả cách mạng trong công cuộc đổi mới của nước ta.
Giải pháp bảo đảm an toàn thông tin trên mặt trận tư tưởng
Mặt trận tư tưởng được coi là mặt trận sống còn trong công tác xây dựng Đảng. Sự thống nhất, đồng thuận về tư tưởng, nhận thức, giữ vững và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ là động lực quan trọng làm nên sự ổn định, vững bền của quốc gia. Tuy nhiên, những lỗ hổng trong công tác an toàn, an ninh thông tin, sự tấn công, chống phá của các thế lực thù địch, mặt trái của công nghệ thông tin, internet… tạo những kẽ hở để những thông tin xấu hoành hành, gây hậu quả nghiêm trọng, chi phối đến nhận thức, hành động của nhiều thế hệ. 
Dự thảo Luật An ninh mạng do Bộ Công An soạn thảo, sau 14 lần chỉnh sửa đã chính thức trình Quốc hội tại kỳ họp lần thứ 4, Quốc hội khóa XIV, nhận được sự quan tâm lớn của dư luận, cho thấy “cuộc chiến trên không gian mạng” là vô cùng khó khăn, quyết liệt. Để tạo không gian, môi trường tư tưởng lành mạnh, có văn hóa trên các trang mạng, các phương tiện truyền thông, người dân được tiếp cận với những thông tin chính thống, đúng sự thực, bản chất vấn đề, công tác tư tưởng của Đảng được thông suốt cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và sự hưởng ứng nhiệt tình của đông đảo nhân dân, với những biện pháp cụ thể.
Thứ nhất, cần thống nhất trong nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền và người dân về vai trò đặc biệt của công tác tư tưởng, lý luận đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, cũng như công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Triển khai có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của Đảng có liên quan trực tiếp và gián tiếp đến việc đấu tranh chống lại các luận điệu sai trái trên mặt trận tư tưởng; ngăn chặn, đẩy lùi âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch cũng như những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, như: Nghị quyết Trung ương 5 khóa X về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới; Nghị quyết số 37-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XI về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030; Nghị quyết Hội nghị Trung ương khóa XI về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Bên cạnh đó, việc nâng cao ý thức chấp hành, thực thi pháp luật của các cơ quan chủ quản, người tham gia sử dụng công nghệ thông tin, internet, mạng xã hội cần được quan tâm, tăng cường, nhất là những quy định trong Nghị định số 72/2013/NĐ-CP, ngày 15-7-2013, của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng; Luật An ninh quốc gia (năm 2004); Luật An toàn thông tin mạng (năm 2015); Luật báo chí (năm 2016)… Đây là hành lang pháp lý và những tri thức công cụ cần được trang bị trước khi sử dụng, tham gia hoạt động đăng tải và tiếp nhận thông tin trên mạng internet.
Thứ hai, để cung cấp cho công chúng những thông tin tốt, có chất lượng, bảo đảm độ chính xác, tin cậy đến với nhân dân, các cơ quan, đoàn thể phụ trách về công tác thông tin truyền thông, tuyên truyền cần phối hợp tốt với các cấp chính quyền trong việc cung cấp thông tin chính thống cho báo chí; kịp thời định hướng dư luận, tránh sự hiếu kỳ, đồn thổi. Nhằm có những thông tin tốt, có trọng lượng, đòi hỏi người làm công tác thông tin tuyên truyền phải không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, xử lý khéo léo, linh hoạt trong mọi tình huống. Có khả năng dự báo tình hình, đoán định những kịch bản có thể xảy ra. Thường xuyên đổi mới tư duy, cập nhật những vấn đề mới; có những tham mưu, tư vấn hữu ích đối với những nhà hoạch định đường lối, chính sách.
Thứ ba, với những diễn biến phức tạp trên mạng xã hội hiện nay, việc tăng cường công tác quản lý nhà nước về thông tin truyền thông là yêu cầu bức thiết. Đặc biệt đối với các cơ quan thông tấn, báo chí cần bám sát mục tiêu, tôn chỉ, đường lối của Đảng; biểu dương, nhân rộng những tấm gương tiêu biểu, những mô hình, cách thức; phản ánh những hành vi sai trái, những luận điệu xuyên tạc, tạo dựng niềm tin, xây dựng lý tưởng, khát vọng cho nhân dân.
Sự bùng nổ của công nghệ thông tin, nhiều loại hình báo, đài ra đời, nhất là các trang thông tin điện tử khiến cho công tác quản lý, định hướng gặp nhiều khó khăn, không theo kịp sự phát triển. Trong khi đó, do tác động của cơ chế thị trường, đồng tiền, danh vị, nhiều cơ quan báo chí và đội ngũ phóng viên, biên tập đã cho đăng tải những thông tin kém giá trị, những hình ảnh phản cảm, có tác động xấu đến việc hình thành tư tưởng, tình cảm cho tầng lớp thanh thiếu niên. Một số cây bút chạy theo tâm lý thời thượng, không kiểm soát được nội dung thông tin gây ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của nhiều cá nhân, tổ chức.
Bên cạnh đó, những vụ, việc đưa tin thất thiệt, những bình luận cá nhân về những vấn đề chính trị, hành động đăng tải những hình ảnh, clip thiếu chuẩn mực văn hóa trên mạng xã hội facebook đã vô tình gây nguy hại lớn cho cá nhân, gia đình và toàn xã hội. Vì vậy, việc tăng cường giáo dục ý thức pháp luật, nâng cao năng lực, hành vi của người dùng internet cũng như có hình phạt xứng đáng, có tính răn đe với những hành vi vi phạm mới có thể làm lành mạnh, trong sạch không gian, môi trường thông tin trên mạng xã hội.
Việc triển khai Đề án Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025 cần được triển khai đồng bộ, thống nhất theo hướng tinh gọn, hiệu quả, nâng cao tính chủ động, tích cực, sáng tạo của các cơ quan báo chí trên mặt trận tư tưởng. Xây dựng những báo điện tử lớn, có độ tin cậy và tầm ảnh hưởng sâu rộng trong công chúng để việc tuyên truyền, định hướng thuận lợi, có kết quả.
Để quản lý hoạt động tư tưởng, các nhà ban hành luật, chính sách cần nhanh nhạy, kịp thời nắm bắt tình hình thực tiễn, tránh máy móc, hành chính quan liêu, xử lý không khéo dẫn đến khủng hoảng truyền thông, gây bất lợi cho các cơ quan, đoàn thể. Đối với việc quản lý, theo dõi các trang mạng nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, cần có chế tài và sự phối hợp nhịp nhàng để tranh thủ sự ủng hộ của các nhà mạng; có cơ chế phối hợp để cùng họ kiểm soát, quản lý tốt thông tin cá nhân, tổ chức được đăng tải, phù hợp với quy định, thông lệ quốc tế và pháp luật của Việt Nam.
Thứ tư, tăng cường hợp tác, trao đổi kinh nghiệm về quản lý internet, mạng xã hội với các nước tiên tiến trên thế giới. Tranh thủ sự hỗ trợ về công nghệ thông tin, hạ tầng kỹ thuật, đổi mới công nghệ nhằm kiểm soát thông tin tối ưu. Bởi trong bối cảnh quốc tế hóa sâu rộng hiện nay, việc liên kết giữa các quốc gia trong khu vực, vùng lãnh thổ là điều kiện tiên quyết trong việc hợp tác cùng xử lý những bất cập nảy sinh trên không gian mạng - một không gian xuyên biên giới, tác động đến mọi quốc gia, dân tộc. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh nghiên cứu, xây dựng các “bức tường lửa” ngăn chặn sự tấn công, hoành hành của các nhà mạng nước ngoài có động cơ can thiệp vào công việc nội bộ quốc gia, muốn truyền bá những tư tưởng, xuất bản phẩm độc hại.
Thứ năm, đối với chủ thể sử dụng, tham gia hoạt động cung cấp, tiếp nhận thông tin cần trang bị cho mình những tri thức cần thiết, nhất là kiến thức pháp luật để ứng xử có văn hóa trên không gian mạng. Người dùng internet ở Việt Nam rất đa dạng và ngày càng trẻ hóa, thuộc mọi giai tầng, lứa tuổi, vùng, miền. Nếu họ không được trang bị những kiến thức tối thiểu về trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn của bản thân, những ích lợi và hậu quả khôn lường từ mạng xã hội thì sự tiêm nhiễm những tư tưởng độc hại rất dễ xảy ra. Điều này đặt ra nhiều vấn đề về công tác giáo dục của gia đình, nhà trường, xã hội, cần tạo ra những không gian lành mạnh, nhân văn để thế hệ trẻ có nền tảng tư tưởng, văn hóa cần thiết, biết nhận diện đâu là tốt, là xấu để cống hiến và bảo vệ nền tảng tư tưởng mà Đảng, nhân dân đã lựa chọn.
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, công tác tư tưởng của Đảng cần phải đổi mới mạnh mẽ cả về nội dung, phương thức tuyên truyền, cần lựa chọn, bổ sung những cán bộ “vừa hồng, vừa chuyên” trên mặt trận đầy chông gai, thử thách. Cần tỉnh táo, chủ động trong tiếp nhận thông tin cùng bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hướng về nhân dân để phục vụ, như vậy công tác tư tưởng sẽ là “thành trì” vững mạnh bảo vệ sự ổn định, phát triển vững bền của quốc gia, dân tộc trong bối cảnh, tình hình phức tạp hiện nay./.
-------------------------
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 71
Nguồn: http://www.tapchicongsan.org.vn

Giữ vững tư tưởng chính trị nhằm đấu tranh với âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch


Để đấu tranh với những âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch ngày càng tinh vi, phức tạp, giữ vững tư tưởng chính trị là yếu tố quan trọng hàng đầu cần được xác lập một cách thực sự vững vàng trong từng chủ thể của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chính trị là nghệ thuật hay khoa học vận hành. Chính trị là vấn đề giành, giữ chính quyền và xây dựng xã hội. Tư tưởng chính trị được bàn ở đây là tư tưởng về vấn đề chính trị mà Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa - xã hội của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Lập trường chính trị này được C. Mác và Ph. Ăng-ghen trên cơ sở sự vận hành và phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội trong hiện thực lịch sử nhân loại mà xây dựng nên. Đó là học thuyết vĩ đại của xã hội loài người, học thuyết khoa học về chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa cộng sản mà C. Mác và Ph. Ăng-ghen chủ trương xây dựng chính là xã hội mà ở đó, mọi người sẽ có cuộc sống tự do, hạnh phúc, con người được giải phóng một cách triệt để và được phát triển toàn diện. Đó cũng chính là tư tưởng chính trị then chốt, là yếu tố quan trọng hàng đầu cần được xác lập một cách thực sự vững vàng trong từng chủ thể của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tư tưởng chính trị là nhân tố hàng đầu tạo sự đồng thuận xã hội. Vì thế, các thế lực thù địch coi tư tưởng chính trị là mũi đột phá, là “cái cầu để dẫn vào trận địa”, đồng thời cũng là mặt trận trung tâm cần tập trung chống, phá. Theo đó, dưới những chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “vấn đề dân tộc”, “vấn đề tôn giáo”, “vấn đề phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”… chúng thường rêu rao nhắm tới phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, hòng làm cho chúng ta “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. 
Những vấn đề trong tư tưởng chính trị mà các thế lực phản động tập trung chống phá ta trong chiến lược “diễn biến hòa bình” hòng làm tan rã niềm tin chính trị, tiến tới làm cho xã hội hỗn loạn về chính trị, tư tưởng, mất định hướng chính trị, tạo ra thế đứng cho các lực lượng phản động trong nước, gây áp lực chính trị của quần chúng. Do vậy, chúng ta cần nêu cảnh giác trước những âm mưu “diễn biến hòa bình”.
1. Phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Các thế lực phản động vẫn ra rả đòi Đảng ta, nhân dân ta phải từ bỏ mục tiêu, con đường đã chọn vì chúng cho rằng, đó là “con đường sai lầm, dẫn dân tộc đến đường cùng, ngõ cụt”. Chúng ra sức lợi dụng sự kiện chủ nghĩa xã hội theo mô hình Xô viết ở Liên xô và các nước Đông Âu sụp đổ, cho rằng chủ nghĩa xã hội đã cáo chung, Đảng Cộng sản đã hết vai trò lịch sử; rằng nước ta kiên định đi lên chủ nghĩa xã hội là sai lầm, là đi vào vết xe đổ của Liên Xô và Đông Âu. Chúng cố tình xuyên tạc: “Chủ nghĩa xã hội mà C. Mác nêu ra chỉ là một lý tưởng, một chủ nghĩa xã hội “không tưởng”; không bao giờ thực hiện được”(1). Hơn thế, chúng còn “chỉ dạy” Đảng ta cần phải đi theo con đường khác, theo mô hình “xã hội dân chủ”, thực hiện “chính trị đa nguyên”, “đa đảng đối lập”… Những luận điệu đó được nhắc đi, nhắc lại với cách lèo lái khác nhau, khi trắng trợn, lúc tinh vi, khi rầm rộ, lúc lặng lẽ, âm thầm, lúc thì mượn mồm của những người biến chất, “trở cờ”, “xám hối”, khi thì thô lỗ nhân danh, khoác áo những nhà chính trị sặc mùi tư sản phản động khẳng định sự “ưu việt” của xã hội tư bản. 
Khi Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới, chúng tuyên truyền kích động, phủ nhận chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cho rằng kinh tế thị trường với chủ nghĩa xã hội như lửa với nước, không thể đồng hành, phủ nhận vai trò kinh tế nhà nước, đòi tư nhân hóa đất đai… Tuy giọng điệu, cung bậc khác nhau, song chung một kiểu “mưa dầm thấm lâu”, được tung lên không gian mạng, trên internet dội vào nước ta hòng làm cho quần chúng nhân dân hoài nghi, bi quan, dao động, suy giảm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Vì vậy, hơn lúc nào hết đòi hỏi mỗi công dân, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải kiên định mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội - con đường đúng đắn mà chính lịch sử dân tộc và toàn thể nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đồng thuận lựa chọn từ những năm 20, 30 của thế kỷ trước. 
Sự thay thế của hình thái kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa đối với hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa là sự tiếp nối tất yếu trong dòng chảy phát triển của sự thay thế chế độ xã hội tiến bộ hơn đối với chế độ xã hội lỗi thời, lạc hậu. Vấn đề này đã được khẳng định bằng chính quá trình phát triển của lịch sử nhân loại. Đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến hoàn thiện, từ chế độ công xã nguyên thủy đến cộng sản chủ nghĩa. Đó là quy luật của sự phát triển. Nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin cũng đã chỉ ra rằng, xét đến cùng, xã hội sau muốn chiến thắng xã hội trước, trước hết phải bằng năng suất lao động của nó. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, năng suất thấp. Nay chúng ta đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong thực tế năng suất lao động (tức là trình độ của lực lượng sản xuất) còn thấp hơn nhiều nước tư bản chủ nghĩa, nhất là các nước tư bản phát triển. Vậy khi nào có chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Điều đó tùy thuộc vào sự đồng thuận, dốc sức, dốc lòng của toàn Đảng, toàn dân đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa làm cho lực lượng sản xuất ngày càng phát triển cùng với quan hệ sản xuất ngày càng ưu việt mà chúng ta đang quyết tâm triển khai đồng bộ. Thực tiễn suốt tiến trình cách mạng Việt Nam 88 năm qua dưới ngọn cờ của Đảng đã và đang minh chứng cho sự lựa chọn con đường đúng đắn này và cho sự thắng lợi của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”(2) và thời đại, thể hiện rõ khát vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam: dân tộc độc lập, nhân dân sống trong hòa bình, tự do, ấm no, hạnh phúc. 
2. Phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Chúng phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, cho rằng chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã lỗi thời, chỉ phù hợp với thế kỷ XIX, phù hợp với trình độ, lực lượng sản xuất và văn hóa Nga, hoặc chỉ thích hợp với nền văn minh công nghiệp của thế kỷ XX, còn hiện nay, khi bước sang thế kỷ XXI, thời đại văn minh tin học, kinh tế tri thức, chủ nghĩa C. Mác đã lỗi thời, đã bị lịch sử vượt qua. Từ đó, chúng cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lê-nin không phù hợp với Việt Nam, hoặc chủ nghĩa Mác - Lê-nin là sản phẩm ngoại nhập của phương Tây, không thích hợp với các nước kinh tế lạc hậu như Việt Nam. Việc du nhập chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào Việt Nam là một sai lầm lịch sử, xa lạ với truyền thống dân tộc.
Xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như cuộc đời và sự nghiệp của Người, “hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh”… chính là chúng muốn phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh và phủ định sự vận dụng sáng tạo tư tưởng chính trị của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện của Việt Nam. Chúng muốn đánh sập nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam và dân tộc Việt Nam trong bước đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là hệ thống các quan điểm và học thuyết khoa học do C. Mác và Ph. Ăng-ghen xây dựng, V. I. Lê-nin bảo vệ và phát triển, Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo, phát triển trong điều kiện cụ thể của một nước thuộc địa, nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu; được hình thành và phát triển trên cơ sở tổng kết thực tiễn và kế thừa những giá trị tư tưởng của nhân loại; là thế giới quan phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng; là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới giải phóng con người. Trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận duy vật biện chứng, kinh tế chính trị Mác - Lê-nin, chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ ra những quy luật kinh tế của xã hội, đặc biệt là những quy luật kinh tế của quá trình ra đời, phát triển, suy tàn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự ra đời, phát triển của phương thức sản xuất mới - phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là kết quả tất nhiên của sự vận dụng thế giới quan, phương pháp luận triết học, kinh tế chính trị Mác - Lê-nin, chủ nghĩa xã hội khoa học vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Các thế lực thù địch ra sức xuyên tạc các vấn đề cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lê-nin (như học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, thời đại ngày nay và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, bản chất của chủ nghĩa tư bản hiện đại, giai cấp và đấu tranh giai cấp, học thuyết giá trị thặng dư)... Đồng thời tuyên truyền xuyên tạc, bóp méo sự thật công cuộc đổi mới ở Việt Nam nhằm phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lê-nin; phát tán tài liệu, ấn phẩm xuyên tạc cuộc đời hoạt động và tấm gương đạo đức của Người là logic tất yếu của các thế lực phản động, kẻ xấu thuộc về thế lực có tư tưởng chính trị đối lập với tư tưởng chính trị xã hội chủ nghĩa. Giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là tất yếu giương cao ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng. Vì thế, muốn xây dựng một xã hội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam thì chỉ có thể đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, mà Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm cốt lõi. Bảo vệ sự trong sáng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 
3. Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Các thế lực phản động đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam bằng luận điệu: “Từ bỏ độc quyền lãnh đạo là vấn đề căn bản vì đó là then chốt của chế độ dân chủ”. Chúng “lập luận” rằng: Do “vai trò lãnh đạo độc tôn của Đảng Cộng sản Việt Nam” nên “song song với những công trạng họ lập được, Đảng Cộng sản đã vấp phải quá nhiều sai lầm gây nên hậu quả thảm khốc cho cả nước”; “Đảng Cộng sản chưa bao giờ chứng tỏ có khả năng quản trị đất nước”, “thể chế độc đảng toàn trị” nên “xã hội không có tự do, dân chủ”… Chúng lấy quan điểm “dân chủ”, “nhân quyền” tư sản để đồng nhất dân chủ với đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; Nhà nước pháp quyền với thiết chế tam quyền phân lập; nhân quyền với tuyệt đối hóa quyền của cá nhân rồi vu cáo Đảng ta là “độc tài, độc đoán, mất dân chủ”! Chúng lý sự rằng, “chế độ một đảng lãnh đạo, cầm quyền là trái với nguyên tắc Nhà nước pháp quyền”, “việc Đảng nắm quyền lãnh đạo đất nước là hành vi tiếm quyền, chiếm đoạt thành quả của nhân dân”, “đã đến lúc Đảng Cộng sản Việt Nam nên chấp nhận đối lập”... Cùng với đó, ở trong nước, một số kẻ nhân danh “tâm nguyện vì nước, vì dân” đưa yêu cầu (thực chất là yêu sách) đòi Đảng Cộng sản Việt Nam “từ bỏ vị thế lãnh đạo”, phải “thay đổi Cương lĩnh xây dựng đất nước”, phải “chuyển đổi thể chế chính trị”… Và cuối cùng chúng khẳng định rằng, Đảng “không được sự ủng hộ của nhân dân”… nên Đảng Cộng sản Việt Nam không thể lãnh đạo đất nước.
Rõ ràng, dù được ngụy trang bằng những mỹ từ nào đi chăng nữa, bản chất và mục đích thật sự của những luận điệu đó đều phục vụ âm mưu của các thế lực phản động, cơ hội chính trị nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện “đa nguyên chính trị”.
Về phương diện lý luận, vấn đề Đảng Cộng sản cầm quyền trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là một trong những nội dung quan trọng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Nghiên cứu lịch sử đương đại, C. Mác và Ph. Ăng-ghen chỉ ra rằng, trong các xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp, giai cấp nào giành được quyền lực nhà nước sẽ trở thành giai cấp thống trị và thực hiện vai trò lãnh đạo đối với xã hội. Kế thừa những di sản tư tưởng chính trị cơ bản đó trong điều kiện mới, V. I. Lê-nin đã phát triển và có những luận điểm sâu sắc về vấn đề cầm quyền của Đảng Cộng sản, trong đó khẳng định, sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công. Nguyễn Ái Quốc khi đi tìm lời giải cho bài toán cách mạng Việt Nam đã khẳng định: Cách mệnh trước hết phải có đảng cách mệnh. Suốt cuộc đời cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyệt đối khẳng định sự cần thiết và vai trò tiên quyết của nhân tố Đảng lãnh đạo và Đảng cầm quyền. 
Về phương diện thực tiễn, Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức và hoạt động chặt chẽ theo tư tưởng, nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đã lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong hơn 30 năm qua đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đưa đất nước vững bước trên con đường đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Buông lỏng hoặc hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng là phạm sai lầm từ nguyên tắc, là thủ tiêu sức mạnh của nhà nước và hệ thống chính trị, tạo điều kiện cho chủ nghĩa cơ hội nổi dậy “cướp chính quyền”. Vấn đề cơ bản, quan trọng lúc này là phải không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, không ngừng đổi mới, chỉnh đốn, bảo vệ Đảng, để Đảng luôn có đủ uy tín chính trị và khả năng hoàn thành nhiệm vụ do lịch sử giao phó.
Đại hội XII của Đảng đã xác định cụ thể: “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới”. Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống các quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp luận cứ khoa học, lý luận cho việc hoạch định, phát triển đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đó vừa là sự kiên định lập trường chính trị đúng đắn, vừa biện chứng khách quan khoa học tư tưởng chính trị của chúng ta hiện nay. Mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi công dân trong xã hội có sự giác ngộ sâu sắc về chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, về mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thì không chỉ mỗi người mà toàn xã hội sẽ có tư tưởng chính trị vững vàng, tự ý thức trong việc nâng cao khả năng “tự bảo vệ”, ngăn chặn sự xâm nhập, lây lan của tư tưởng ngoại lai đi ngược lý tưởng xã hội, vô hiệu hóa các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch. Đại hội XII của Đảng cũng đã chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng phục vụ yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị, phù hợp với từng giai đoạn, tạo sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong xã hội; đẩy mạnh tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phù hợp với từng đối tượng theo hướng cụ thể, thiết thực, hiệu quả”. Đổi mới mạnh mẽ công tác giáo dục lý luận chính trị, học tập nghị quyết của Đảng. Thực hiện nền nếp việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là cấp Trung ương; tiếp tục đổi mới hệ thống chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị theo hướng nâng cao chất lượng, chú trọng tính hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng. Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là “mảnh đất màu mỡ” để các thế lực thù địch đẩy mạnh “diễn biến hòa bình” chống phá nước ta trên các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực tư tưởng chính trị. Do vậy, đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” nói chung và chống các quan điểm sai trái, thù địch nói riêng trước hết phải gắn với việc đẩy mạnh đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị.
Lập trường chính trị của chúng ta là xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta mà chủ thể là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm chủ. Chủ thể xây dựng và thụ hưởng thành quả của nó là nhân dân, chứ nhất thiết không thuộc về một nhóm xã hội nào khác./. 
-------------------
(1) Ban Tuyên giáo Trung ương, Phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr. 48
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 70
Nguồn: http://www.tapchicongsan.org.vn


Bóc trần và đấu tranh với thủ đoạn ngụy tuyên truyền của các thế lực thù địch về phòng, chống tham nhũng trên các phương tiện truyền thông xã hội


Các phương tiện truyền thông xã hội là địa hạt mới trên mặt trận tư tưởng, nơi các thế lực thù địch xem không gian mạng như một thứ “quyền lực thứ năm”, bên cạnh “quyền lực thứ tư” là báo chí, để ráo riết và triệt để lợi dụng phát tán trên diện rộng các luận điệu xuyên tạc trắng trợn hoặc núp bóng tinh vi dưới vỏ bọc “khách quan” của cái gọi là “phản biện”, “góc nhìn độc lập”…, hòng gây rối, nhiễu, bóp méo và làm sai lệch thông tin, nhằm phục vụ cho những mưu đồ đen tối rắp tâm chống phá công cuộc phòng, chống tham nhũng đang được Đảng ta đẩy mạnh. Việc đấu tranh phản bác các luận điệu ngụy tuyên truyền về phòng, chống tham nhũng trên các phương tiện truyền thông xã hội, góp phần vạch trần những âm mưu, thủ đoạn nham hiểm của các thế lực thù địch là yêu cầu cấp thiết hiện nay.
Nhận diện ngụy tuyên truyền và những kẻ chơi lá bài hai mặt
Trước nay, trong chính giới và học giả phương Tây, nhiều người vẫn “rao giảng” về một thứ truyền thông đại chúng, biểu hiện tập trung nhất ở báo chí, là tự do, khách quan tuyệt đối, phi chính trị, đứng ngoài cuộc đấu tranh tư tưởng. Với xảo biện rằng, báo chí thuần túy là phương tiện giao tiếp, họ “lập lờ đánh lận con đen” tuyệt đối hóa chức năng thông tin, song hành với phủ nhận chức năng tư tưởng và bóp méo khái niệm tuyên truyền của báo chí.
Những xảo biện đó không che giấu được sự thật là, báo chí thuộc thể chế chính trị nào cũng đều mang bản chất chính trị - xã hội. Trong bất kỳ xã hội có giai cấp và còn sự khác biệt về lợi ích, báo chí với tư cách là công cụ đấu tranh giai cấp, luôn thuộc về một giai cấp nhất định, thường là giai cấp thống trị xã hội - giai cấp này sử dụng báo chí như một công cụ đắc lực để giành và giữ quyền lực chính trị, đồng thời tuyên truyền hệ tư tưởng, chủ thuyết chính trị của mình để chính thống hóa và duy trì nó ở vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Báo chí thuộc giai cấp, nhóm xã hội nào thì bảo vệ cho quyền, lợi ích của giai cấp, nhóm xã hội đó. 
Chức năng thông tin là chức năng cơ bản, nguyên thủy và khởi nguồn của báo chí. Tuy nhiên, đặt chức năng thông tin lên hàng đầu không đồng nghĩa với tuyệt đối hóa nó và cho rằng, thông tin sự kiện là khách quan tuyệt đối, là thông tin sự kiện bản thể nguyên dạng, ngoài ra không vì bất cứ mục đích nào khác. Báo chí thông tin chân thực, khách quan, song được tái tạo và soi chiếu qua lăng kính chủ quan của nhà báo, bao giờ cũng mang tính khuynh hướng rõ nét - do địa vị xã hội và lợi ích của tổ chức xã hội hay lực lượng chính trị mà nhà báo đại diện phát ngôn chi phối. Tính khuynh hướng chính trị của báo chí là nguyên tắc phổ biến, tồn tại khách quan, ngoài ý muốn chủ quan, không thể chối bỏ. Do đó, không thể và không bao giờ có thứ báo chí đứng ngoài, đứng trên chính trị hay không can dự vào đấu tranh giai cấp, đấu tranh tư tưởng, ở bất kỳ một nền báo chí nào, như sự rêu rao của nhiều học giả hay giới chức phương Tây.
Trong thực tiễn, thông tin (information) và tuyên truyền (propaganda) là hai mặt của một vấn đề. Không ai thông tin mà không nhằm mục đích nào đó, tức là tuyên truyền; ngược lại, nếu chỉ nhấn mạnh, tuyệt đối hóa tuyên truyền mà không đẩy mạnh thông tin những sự kiện, vấn đề cụ thể, sinh động từ cuộc sống thì trở thành tuyên truyền suông, thiếu thuyết phục và hiệu quả. Như vậy, tuyên truyền là sự biểu hiện tập trung tính mục đích của báo chí, trước hết là mục đích chính trị. Tuyên truyền mang tính phổ quát ở mọi nền báo chí và là công việc được thực hiện bởi bất kỳ đảng phái chính trị hay chính phủ ở thể chế chính trị nào, dù trực tiếp hay gián tiếp, dù thừa nhận hay không thừa nhận. Tuyên truyền mang nghĩa tốt hay xấu không do nội hàm khái niệm, mà hoàn toàn do mục đích của chủ thể sử dụng nó. 
Nền báo chí của giai cấp vô sản mang bản chất cách mạng, công khai tuyên bố và thực hành chức năng tư tưởng, bên cạnh chức năng thông tin. Với chức năng này, theo quan điểm của Đảng ta, báo chí cách mạng Việt Nam vừa là diễn đàn của đông đảo nhân dân, vừa là công cụ, phương tiện quan trọng để tuyên truyền hệ tư tưởng của Đảng, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và làm cho hệ tư tưởng này trở thành chủ đạo, nền tảng tư tưởng trong đời sống tinh thần của xã hội. Báo chí tuyên truyền để tạo dựng niềm tin vững chắc vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng ta; bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, vì sự phát triển bền vững của đất nước và chấn hưng dân tộc; tự nguyện phục tùng, vì lợi ích chính đáng của đông đảo nhân dân lao động. Công tác tuyên truyền luôn đứng về phía tiến bộ, ủng hộ những nhân tố tích cực, làm cho các giá trị nhân văn, nhân bản lan tỏa trong xã hội, đồng thời đấu tranh không khoan nhượng với những thói hư, tật xấu trong xã hội, trong Đảng, nhất là với “giặc nội xâm” tham ô, tham nhũng; đấu tranh với các luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng... 
Khi thực hành nhiệm vụ tuyên truyền, nền báo chí nước ta đặt lên hàng đầu tính chân thực, tính khách quan. Như V.I. Lê-nin khẳng định, tuyên truyền là đem chân lý đến cho người nghe. Và, đông đảo quần chúng nhân dân tin tưởng, đi theo những người cộng sản không phải vì những người cộng sản khéo nói, mà chính bởi người cộng sản nói đúng sự thật. V.I. Lê-nin đặc biệt nhấn mạnh tính thực tiễn, tính khách quan, xác thực của hoạt động tuyên truyền, đặc biệt phát hiện và lấy những sáng tạo của quần chúng nhân dân để thuyết phục nhân dân. 
Trong khi đó, nhiều học giả và chính giới phương Tây vẫn thích chơi “lá bài hai mặt”. Một mặt, họ phê phán và đánh đồng tuyên truyền với sự giả dối, tha hóa, là sự “nhồi sọ thông tin”, cùng luận điệu tráo trở “chỉ có cộng sản mới sử dụng tuyên truyền” (?!); mặt khác, chính họ lại tung ra thứ ngụy tuyên truyền đó - tức tuyên truyền những luận điệu giả trá, lừa phỉnh để phục vụ cho các mưu đồ, thủ đoạn chính trị của mình. 
Sống giữa trung tâm của thế giới phương Tây và nằm lòng những thủ thuật của nền chính trị tư bản, Giáo sư nổi tiếng tại Viện Công nghệ Ma-xơ-chu-xét (MIT) của Mỹ, Nô-am Chôm-xki (Noam Chomsky), người được tờ New York Times gọi là “nhà trí thức quan trọng nhất hiện đang còn sống”, trong các cuốn “Tham vọng bá quyền”và “Nhận diện quyền lực” (đã được dịch ra tiếng Việt), cho rằng, truyền thông đại chúng phương Tây bị thiên kiến nặng nề và luôn đứng về phía các thiết chế quyền lực đương thời. Ròng rã hơn một thế kỷ vừa qua, “tuyên truyền” trở thành một “kỹ nghệ có tổ chức” ở nhiều nước phương Tây. Giáo sư N. Chôm-xki cho biết, ngay từ Chiến tranh thế giới thứ nhất, nước Anh đã tổ chức cơ quan cấp bộ đầu tiên điều phối công việc tuyên truyền là Bộ Thông tin; tiếp đó, cơ quan tuyên truyền đầu tiên của Chính phủ Mỹ là Ủy ban Thông tin công cộng cũng được thành lập... Nhiều cơ quan kiểu này có nhiệm vụ “kiểm soát đầu óc của dân chúng”, lừa phỉnh công luận để “chế tạo ra tâm trạng đồng tình” và sẵn sàng bán rẻ, chà đạp lên lợi ích của đông đảo người dân để bảo vệ lợi ích cho một nhóm nhỏ các nhà tư bản. Việc ngụy tuyên truyền trên được hà hơi, tiếp sức bởi “các thế lực tài phiệt tư nhân - tức là các hệ thống công ty - đóng vai trò kiểm soát dư luận và thái độ của quần chúng. Những công ty này không nhận lệnh của chính phủ nhưng liên hệ chặt chẽ với chính phủ”(1). 
Hiện nay, dù rằng về danh nghĩa, tại nhiều nước phương Tây, báo chí không thuộc chính phủ hay các đảng phái chính trị, song trên thực tế, giai cấp tư sản tiếp tục tìm mọi cách chi phối hoạt động báo chí, chủ yếu bằng quyền lực chính trị và sức mạnh của đồng tiền, sử dụng báo chí hiện đại như bộ máy trung gian để củng cố địa vị cầm quyền của giai cấp tư sản và là “cỗ máy” dọn đường dư luận cho việc thực hiện những âm mưu chính trị, điển hình như việc một số tập đoàn truyền thông phương Tây sẵn sàng “đổi trắng thay đen” bịa đặt thông tin hay thông tin không hề được kiểm chứng về tình hình một số nước tại Trung Đông, trong suốt vài thập niên trở lại đây, đi ngược lại nguyên tắc tối thiểu về tính chân thực, khách quan của báo chí, tạo cớ để một số cường quốc bất chấp luật pháp quốc tế trắng trợn tấn công những nước có chủ quyền, bản chất là phục vụ cho dã tâm bá quyền và âm mưu “đổi máu lấy dầu” nhằm thu những món hời khổng lồ từ việc kiểm soát nguồn dầu mỏ ở Trung Đông và buôn bán vũ khí, của giới chính trị chóp bu và tài phiệt kếch sù phương Tây...
Nhà nghiên cứu truyền thông hàng đầu của Mỹ là Rô-be Mac Che-xnây (Robert W. McChesney) phải thốt lên rằng: “Báo chí của chúng ta (Mỹ - tác giả) đang trở thành thiên đường cho những kẻ lừa dối, ở đó, giá của sự xuyên tạc, bóp méo đã xuống quá thấp”(2). 
Cùng với các phương tiện truyền thông đại chúng truyền thống như báo chí..., các phương tiện truyền thông mới (New media), trong đó có các phương tiện truyền thông xã hội (Social media), hiện cũng được chính giới phương Tây triệt để lợi dụng để củng cố quyền lực chính trị và thúc đẩy đấu tranh ý thức hệ, trong kỷ nguyên số. Bước chuyển đầy toan tính này càng cho thấy, các phương tiện truyền thông xã hội không thuần túy là vật trung gian công nghệ và giao tiếp cá nhân chỉ mang bản chất vật lý kỹ thuật và bản chất xã hội (kết nối xã hội) như phát ngôn ru ngủ công luận của chủ các hãng công nghệ hàng đầu thế giới và nhiều chính trị gia phương Tây, mà ngày càng hội đủ và bộc lộ rõ bản chất thông tin, bản chất kinh tế... và nhất là bản chất chính trị.
“Cơn ác mộng” về chính trị tại các nước ở khu vực Bắc Phi, Trung Đông trong các năm 2010 - 2011 là điển hình cho việc các phương tiện truyền thông xã hội trở thành công cụ chính trị đắc lực ra sao, khi dưới sự hậu thuẫn của một số nước phương Tây, lần đầu tiên, các nhóm xã hội đối lập thuộc nhiều thành phần xã hội, chính trị khác nhau và các thành viên của tổ chức “Huynh đệ Hồi giáo” phối hợp hoạt động, tập hợp hàng triệu người ủng hộ thông qua các trang mạng xã hội và điện thoại di động để tiến hành biểu tình, mượn danh nghĩa chống tham nhũng và sự đàn áp dân chủ, để lật đổ các chính phủ đương nhiệm. Mới đây, vụ việc Facebook, mạng xã hội lớn nhất thế giới, bị cáo buộc làm lộ lọt thông tin cá nhân, để Cambridge Analytica, công ty phân tích dữ liệu chính trị, tiếp cận trái phép và “đầu độc thông tin chính trị” tới 87 triệu người dùng, mục đích tác động làm thay đổi kết quả cuộc tranh cử Tổng thống Mỹ năm 2016, cũng cho thấy sự tham gia những thương vụ chính trị hết sức tinh vi của các tập đoàn truyền thông xã hội, một cách chủ động hay bị dắt dây bởi các thế lực chính trị, đi ngược lại hoàn toàn tuyên bố về tính khách quan tuyệt đối và bảo mật thông tin của Facebook, vốn luôn khẳng định mình đơn thuần chỉ là hãng công nghệ thuần túy (?!). 
Những minh chứng trên chỉ là số ít trong rất nhiều thủ đoạn chính trị mà chính giới phương Tây đã sử dụng để điều khiển, chi phối, khống chế hệ thống báo chí truyền thống và các phương tiện truyền thông xã hội, một cách vừa tinh vi, vừa trắng trợn, không chỉ ở quy mô một quốc gia, mà còn trên quy mô toàn cầu; không chỉ tự ra tay, mà còn “tá đao sát nhân”, o bế và dung túng các thế lực tay sai để can thiệp thô bạo vào an ninh và công việc nội bộ của nước khác, nhất là các quốc gia có sự khác biệt về ý thức hệ.
Lật tẩy “con át chủ bài” các phương tiện truyền thông xã hội và những chiêu trò ngụy tuyên truyền về chống tham nhũng 
Các phương tiện truyền thông xã hội là các công cụ, ứng dụng giao tiếp đại chúng dựa vào không gian trực tuyến trên nền tảng in-tơ-nét và các công nghệ truyền thông hiện đại khác nhằm chuyển tải thông tin, kết nối mọi người với tốc độ truyền dẫn, lan tỏa nhanh chóng, trên diện rộng, cùng tính tương tác cao, sự chủ động của người dùng, hình thành nên các mối quan hệ xã hội, cộng đồng tương tác xã hội đa dạng, có tác động sâu rộng vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và đời sống cá nhân của người dùng. Các phương tiện truyền thông xã hội rất đa dạng, bao gồm nhiều loại hình, tính năng ứng dụng, như Mạng xã hội (Social network): Facebook, MySpace, Google+, Zing.Me...; trang chia sẻ link và tin tức xã hội (Social bookmarking và Social news): Delicious, Digg, Reddit, Loantin...; trang chia sẻ hình ảnh, video (Social sharing): YouTube, Instagram, Flickr, Clip.vn...; các tiểu blog hay blog vi mô (Microblogging): Twitter, Friendfeed, Tumblr, Me2day...; diễn đàn (Forums): Sitepoint.com, startups.co.uk, webtretho, Otofun...; dịch vụ thoại, nhắn tin trên nền in-tơ-nét (OTT): Viber, Zalo, WeChat, Facebook Messenger...; phương tiện tìm kiếm xã hội và tìm kiếm tri thức (Social search and Social knowledge): Bing, Wikiedia, Wikia, Yahoo Ask...; thực tế ảo và trò chơi tương tác cộng đồng (Virtual reality và Social game): PlayStation VR, Augmented Reality, Rise of the Kings, “Trang trại @”...; mạng xã hội âm nhạc (Social music sites): Pandora, 8Tracks, Nhacso.net..., trong đó mạng xã hội có diện phủ rộng nhất.
Không thể phủ nhận, các phương tiện truyền thông xã hội là một thành tựu vĩ đại của nhân loại, mang đến nguồn tài nguyên thông tin - tri thức vô hạn, những tiện ích trong kết nối - giao tiếp xã hội chưa bao giờ có trước đây. Nếu được sử dụng vào những mục đích tích cực, thì chúng sẽ tạo nên những giá trị vô cùng to lớn. Tuy nhiên, với sự tham gia đa dạng của người dùng, trong môi trường khó kiểm soát, các phương tiện này cũng là “con dao hai lưỡi”, khi những tác động nghịch rất dễ xảy ra, tạo nên nhiều hệ lụy tiêu cực tới đời sống chính trị - xã hội, thậm chí khôn lường, nhất là với một quốc gia có số lượng người dùng in-tơ-nét gắn với các phương tiện truyền thông xã hội cao hàng đầu thế giới như Việt Nam (tính đến ngày 30-6-2017, Việt Nam có 64 triệu người sử dụng in-tơ-nét, đứng thứ 12 trên thế giới). 
Chiếm lĩnh môi trường không gian mạng, thông qua các phương tiện truyền thông xã hội để ngụy tuyên truyền nhằm chống phá, tạo bất đồng, xung đột về tư tưởng trong nội bộ Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội, trong xã hội và nhân dân, từ đó kích động biểu tình, chống đối, bạo loạn, khủng bố, lật đổ... là âm mưu, thủ đoạn mới đầy nham hiểm của các thế lực thù địch. Trong kỷ nguyên số, môi trường mạng đang ngày càng trở thành mặt trận chính trong cuộc đấu tranh ý thức hệ. 
Trong “ván bài chính trị” chống phá ta, các thế lực thù địch sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội như một “con át chủ bài” và thông qua đó, chúng xảo quyệt tập trung ngụy tuyên truyền về tham nhũng, vốn là vấn đề xã hội hết sức nhức nhối; vấn đề nhạy cảm gắn liền với sự tha hóa về quyền lực chính trị, từ đó dễ dàng bôi đen, thổi phồng các khuyết điểm, xuyên tạc về Đảng, Nhà nước ta, âm mưu chuyển hóa từ tuyên truyền về chống tham nhũng sang kích động chống phá về chính trị. Chúng không từ bất cứ thủ đoạn nào để tung hỏa mù, bủa vây không gian mạng hòng gây nhiễu thông tin bằng những màn lừa bịp tráo trở, biến hóa khó lường, song tập trung nhất vẫn là xuyên tạc, khoét sâu một số nội dung chủ yếu sau:
Một là, trên không gian mạng, các thế lực thù địch xảo biện và quy chụp tham nhũng chỉ tồn tại và “nở rộ” ở chế độ một đảng cầm quyền như tại Việt Nam. Chúng cho rằng, đây là vấn đề thuộc về “bản chất thể chế”, không thể thay đổi được hoặc dù tham nhũng có ở các thể chế chính trị khác, nhưng nghiêm trọng hơn ở chế độ một đảng. Rằng, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiệu quả thấp do thiếu vắng sự kiềm chế và đối trọng giữa các nhánh quyền lực như cơ chế “tam quyền phân lập” (?!).
Sự thật là, tham nhũng là khuyết tật “bẩm sinh” của quyền lực, một hiện tượng xã hội gắn liền với sự xuất hiện chế độ tư hữu, sự hình thành giai cấp và sự ra đời, phát triển của nhà nước. Nó là căn bệnh đồng hành và tồn tại ở mọi nhà nước, không phân biệt chế độ chính trị. Khi còn nhà nước và quyền lực chính trị thì tất yếu còn tham nhũng. Thể chế chính trị khác hay giống nhau không thể là lằn ranh ngăn cản sự xuất hiện của tham nhũng hay quyết định tham nhũng nhiều hay ít.
Đặc biệt, tham nhũng xuất hiện và tồn tại được nhờ môi sinh là chế độ tư hữu. Trong khi đó, chế độ tư bản chủ nghĩa được xây dựng trên nền tảng của chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Do đó, từ trong bản chất của nó, chế độ chiếm hữu tư bản tư nhân về tư liệu sản xuất là môi trường lý tưởng hơn hết để tham nhũng xuất hiện và phát triển. C. Mác viết, chế độ tư hữu khiến cho con người bị tha hóa (tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844) và ở đó, giai cấp tư sản với “lòng tham vô đáy” công nhiên tư lợi, biến mọi mối quan hệ giữa người với người trong xã hội tư bản thành một mối quan hệ duy nhất là lợi ích trần trụi và lối “tiền trao cháo múc” (tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản), nơi nhà tư bản sẵn sàng chà đạp lên mọi thứ, thậm chí không còn tội ác nào là nó không dám phạm (tác phẩm Tư bản). Ngày nay, thực tiễn chính trường và xã hội tư bản vẫn đầy rẫy những vụ, việc tham nhũng đình đám, không khó để điểm mặt chỉ tên những vụ, việc này ở Mỹ, Anh, Pháp, Đức..., dù chúng biến tướng ngày càng phức tạp, được chính giới và tài phiệt tư bản cấu kết che đậy hết sức tinh vi. Tham nhũng là “khối u ác tính” không thể cắt bỏ trong xã hội tư bản và nó đẩy các mâu thuẫn bản chất không thể hóa giải trong xã hội tư bản lên càng cao, dù rằng nhà nước tư bản có gắng gượng cải tổ đến đâu. Sự thực nhãn tiền đó khiến cho những kẻ vẫn lu loa luận điệu rằng, chỉ ở chế độ chính trị một đảng mới có tham nhũng, trở nên hết sức lố bịch! Càng lố bịch hơn khi họ lớn tiếng ca ngợi sự mẫu mực của các nước tư bản trong chống tham nhũng và cho rằng, chỉ nhà nước pháp quyền tư bản và cơ chế “tam quyền phân lập” mới chống tham nhũng hiệu quả từ gốc hay thể chế dân chủ tư sản đã là một cơ chế tự thân để phòng và chống tham nhũng. Và rằng, hoàn toàn có thể tích hợp cơ chế “tam quyền phân lập” trong chế độ xã hội chủ nghĩa (?!)... 
Tại Hàn Quốc, đất nước tiêu biểu cho chế độ đa đảng và “tam quyền phân lập”, tình trạng tham nhũng hiện nay vẫn diễn ra hết sức nhức nhối. Theo Ủy ban Phòng, chống tham nhũng và Quyền công dân Hàn Quốc (ACRC), trong vòng 10 năm (từ năm 2008 đến 2017), ACRC đã tiếp nhận tới 32.306 tố cáo tham nhũng, chuyển cơ quan điều tra, thẩm tra 1.615 vụ. Tháng 3-2017, bà Park Geun Hye trở thành Tổng thống dân cử đầu tiên của Hàn Quốc bị phế truất vì cáo buộc tham nhũng 55,2 triệu USD liên quan tới các tập đoàn kinh tế hàng đầu của nước này, như Samsung, Lotte... và đang phải thụ mức án 24 năm tù. Rõ ràng, cơ chế “tam quyền phân lập” không phải là phương thuốc thần diệu kiểm soát quyền lực và chống tham nhũng được triệt để! 
Cuộc đấu tranh chống tham nhũng hiện nay đã trở thành một trong những vấn đề toàn cầu. Sự tham khảo kinh nghiệm chống tham nhũng giữa các quốc gia và xây dựng cơ chế phối hợp chống tham nhũng ở tầm quốc tế là hết sức cần thiết, trên cơ sở sự vận dụng sáng tạo, linh hoạt, phù hợp với điều kiện và thể chế chính trị từng nước. Tuy nhiên, trong mỗi chế độ nhà nước khác nhau, thì tính chất, mức độ và cách xử lý với tham nhũng cũng khác nhau, phụ thuộc vào bản chất giai cấp, phương thức tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, vào năng lực đạo đức của đội ngũ công chức của nhà nước đó. Việc tham khảo, tiếp thu về kinh nghiệm chống tham nhũng không hề đồng nghĩa phải bê nguyên xi hay áp dụng cả hệ thống chính trị của quốc gia khác.
Rõ ràng, mớ xảo biện hổ lốn ngụy tuyên truyền trên của các thế lực thù địch chẳng có gì khác ngoài chiêu trò lợi dụng và mượn “con bài” chống tham nhũng để chuyển sang chống phá về tư tưởng và chính trị! 
Đảng ta lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với hệ thống pháp luật ngày càng hoàn bị để phòng, chống tham nhũng hiệu quả, với những bước đi chắc chắn, bài bản và lâu dài. Chúng ta tiếp thu tinh hoa của văn minh nhân loại - các chế định pháp lý được thừa nhận chung của cộng đồng quốc tế, như tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, sự tôn trọng và bảo vệ các quyền con người, tính tối cao của pháp luật trong hoạt động của nhà nước và trong điều chỉnh các quan hệ xã hội, sự kiểm soát quyền lực... Tuy nhiên, trong việc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, chúng ta không chấp nhận “tam quyền phân lập” gắn với chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Trái lại, ở nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, có sự hài hòa hóa nguyên tắc tập quyền và phân công, phân cấp, vừa tập trung quyền lực để quyết định và thực thi quyền lực nhà nước nhanh chóng, thống nhất, vừa có sự kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước ngày càng chặt chẽ hơn, hạn chế sự lạm quyền và tha hóa quyền lực. Dùng kỷ luật đảng, sức mạnh của pháp chế xã hội chủ nghĩa kết hợp với sự giám sát xã hội, phản biện xã hội và sức mạnh của dư luận rộng rãi để đấu tranh chống tham nhũng.
Nhà nước ngày càng tiến hóa và văn minh hơn nên cơ chế phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh với tham nhũng ngày càng hiệu quả hơn. Sự ra đời của nhà nước pháp quyền chính là thành quả của văn minh hóa tổ chức và hoạt động của nhà nước, chống sự tha hóa quyền lực nhà nước và là một phương thức quan trọng chống nạn tham nhũng. Tuy vậy, nhà nước pháp quyền cũng có những thất bại của nó, cho nên không thể ảo tưởng rằng chỉ xây dựng nhà nước pháp quyền thì tự nhiên tham nhũng bị đẩy lùi hay xóa bỏ. 
Đương nhiên, tham nhũng không phải là một hiện tượng tất yếu, mang tính vĩnh cửu, tồn tại và phát triển cùng với xã hội loài người. Nhà nước chỉ ra đời và tồn tại ở một giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội. C. Mác cho rằng, đích cuối của lịch sử nhân loại là chủ nghĩa cộng sản, cùng với sự thiết lập xã hội không giai cấp, nhà nước “tự tiêu vong”, theo đó là sự tiêu vong của tham nhũng. Đó là lý tưởng cao đẹp chủ nghĩa cộng sản hướng đến. Tuy nhiên, thực tiễn xây dựng xã hội mới theo lý tưởng cộng sản, phải trải qua những bước quá độ, nhất là trong điều kiện phải sử dụng một số yếu tố tư bản chủ nghĩa để xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ, nên tất yếu khiến cho quá trình khắc phục hiện tượng tham nhũng còn là một cuộc đấu tranh hết sức lâu dài, cam go, phức tạp. 
Hai là, các thế lực thù địch xuyên tạc trên các phương tiện truyền thông xã hội rằng, cuộc chiến chống tham nhũng ở Việt Nam thực chất chỉ là cuộc thanh trừng, đấu đá nội bộ giữa các phe nhóm tranh giành lợi ích, là chính “ta đánh ta”. Chúng vu cáo Đảng ta chống tham nhũng vượt trên pháp luật; kích động sự trừng phạt, trừng trị, chúng cố tình lấp liếm đi tính nhân văn trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. 
Sự thật là, chống tham nhũng là công việc được Đảng ta coi trọng và thực hiện thường xuyên, nhất là từ khi Đảng trở thành đảng cầm quyền. Trong điều kiện một đảng cầm quyền, không có đảng đối lập, không có nghĩa Đảng có thể tự bằng lòng, chủ quan, duy ý chí, chuyên quyền, độc đoán, không có khả năng nhận ra và sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm của mình... Ngược lại, chiến thắng chính bản thân mình bao giờ cũng là cuộc chiến khó khăn nhất! Và, một đảng “ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”(3), nên Đảng ta thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn chính mình, đặc biệt tránh tha hóa về quyền lực bởi quan liêu, tham nhũng - một trong bốn nguy cơ ảnh hưởng tới sự tồn vong của chế độ. Nếu dung túng những cán bộ, đảng viên, dù là cán bộ cấp cao, nhưng suy thoái về đạo đức, biến chất, tham ô, tham nhũng thì sẽ làm Đảng suy yếu từ bên trong, làm xói mòn lòng tin của nhân dân. Năm 1950, khi chuẩn y tử hình Đại tá Trần Dụ Châu, Cục trưởng Cục Quân nhu, do biển thủ, ăn chặn của công, dù hết sức đau xót, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Một cái ung nhọt, dẫu có đau cũng phải cắt bỏ, không để nó lây lan, nguy hiểm”. Do đó, Đảng ta chống tham nhũng là để thanh lọc, sàng lọc cán bộ, làm trong sạch bộ máy, góp phần giữ sự xác tín chính trị, tính chính đáng và xứng đáng với vai trò lãnh đạo và địa vị cầm quyền của mình, tuyệt nhiên không phải là “thanh trừng nội bộ”, càng không phải là “cuộc đấu đá phe phái”, như luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Mặt khác, Đảng ta là một khối thống nhất ý chí và hành động. Hệ thống chính trị ở nước ta mang bản chất thống nhất không có đối trọng, đặt dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng - đại biểu trung thành cho ý chí và lợi ích thống nhất của giai cấp công nhân và của cả dân tộc. Đảng lãnh đạo Nhà nước để bảo đảm nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi quyết sách của Đảng, trong đó có việc chống tham nhũng, đều vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc. Càng tuyệt nhiên không có các “phe nhóm” hay “phe phái” bên trong, bên ngoài Đảng hay trong hệ thống chính trị của ta, có lợi ích khác đối trọng, kìm hãm, phong tỏa hay cạnh tranh lẫn nhau, làm xé lẻ hay phân rã quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, từ đó loại trừ hoàn toàn nguy cơ xung đột cấu trúc (structural conflict) cố hữu như ở các nước tư bản. Do đó, luận điệu cho rằng, tham nhũng là “chất xúc tác” làm xung đột giữa các phe phái, làm đảo lộn trật tự quyền lực và chống tham nhũng chỉ vì lợi ích của riêng Đảng, chặn xu hướng ly khai khỏi quyền lực hệ thống, quyền lực trung tâm của Đảng, là hoàn toàn phi lý và vô căn cứ, chỉ là sản phẩm của “trí tưởng tượng phong phú” của những kẻ mang thâm thù với chế độ xã hội chủ nghĩa.
Đồng thời, mọi hành vi tham nhũng đều phải được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh, công bằng, khách quan theo tinh thần thượng tôn pháp luật. Kỷ luật của Đảng phải nghiêm hơn pháp luật, nhưng kỷ luật của Đảng không thay thế kỷ luật hành chính, kỷ luật đoàn thể và các hình thức xử lý của pháp luật. Quan điểm lấy kỷ luật đảng thay pháp luật là sự sai lệch và làm tổn thương uy tín của Đảng. “Bất cứ ai cũng không có quyền lực tuyệt đối ngoài pháp luật, bất kỳ ai sử dụng quyền lực đều phải phục vụ nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân và tự giác chịu sự giám sát của nhân dân”, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh tại Hội nghị toàn quốc về công tác phòng, chống tham nhũng được tổ chức vào ngày 25-6-2018. Do đó, không thể có các quy định chống tham nhũng của Đảng đứng trên pháp luật, “có sự can thiệp chính trị”, “xử ép” hay “vi phạm nhân quyền”, “vi hiến” và càng không thể mượn cớ chống tham nhũng để xảo biện phải có cái gọi là “luật về đảng”(?!), vì mọi hoạt động của các tổ chức đảng, đảng viên và vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với Nhà nước và xã hội đều đã được quy định tại Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - đạo luật gốc có hiệu lực pháp lý tối cao.
Ở góc độ khác, công tác kiểm tra, giám sát, phát hiện tiêu cực, tham nhũng là “thanh bảo kiếm” giữ nghiêm kỷ luật đảng, vừa thể hiện tính nghiêm minh và tự giác cao độ, vừa thể hiện tính dân chủ, nhân đạo sâu sắc. Nó không phải chỉ cốt “vạch lá tìm sâu”, “bới lông tìm vết”, truy tìm bằng được khuyết điểm, sai lầm để xử phạt, trừng trị, mà là “trị bệnh cứu người”, lấy xây dựng và cải tạo để chủ động phòng ngừa, cảnh tỉnh, răn đe, ngăn chặn, uốn nắn, giáo dục, sửa chữa, khơi dậy sự tự giác là chính. “Thà chặt một cành sâu để cho cây xanh tốt”, như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh, xử lý một người để cứu muôn người, nên công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng ta thể hiện bản chất nhân văn cao độ. 
Ba là, các thế lực thù địch tung thông tin trên không gian mạng hòng lung lạc niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng ta, với những rêu rao rằng, chống tham nhũng ở nước ta như “con thuyền không bến”, là “cuộc chiến nửa vời”, vẫn còn “nhiều vùng cấm”; và rằng, càng kỷ luật, xử lý nhiều cán bộ tham nhũng thì càng làm nhụt đi ý chí của đội ngũ cán bộ, đảng viên, cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thủ đoạn này nhằm cố tình bôi đen, phủ nhận những kết quả hết sức tích cực, mang tính bước ngoặt từ công cuộc phòng, chống tham nhũng của Đảng ta vừa qua, reo rắc tâm trạng hoài nghi, bi quan, nhất là sự thiếu tin tưởng trong dư luận xã hội, âm mưu chặt đứt cơ sở quan trọng bậc nhất để cuộc đấu tranh chống tham nhũng thành công, đó là niềm tin, sự ủng hộ và cùng vào cuộc của đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân. 
Người xưa có nói: “Giặc ngoài dễ chống, giặc trong khó phòng”. Chống tham nhũng là công việc khó khăn muôn phần vì đụng chạm tới lợi ích, đến quyền lực, có sự câu kết, tiếp tay, che đậy hết sức tinh vi, phức tạp. Phải thẳng thắn nhìn nhận, có những giai đoạn, chúng ta chống tham nhũng chưa như mong muốn, hiệu quả còn thấp. Nhưng, với quyết tâm chính trị cao, chưa khi nào, công cuộc phòng, chống tham nhũng ở nước ta được thực hiện ráo riết, quyết liệt như hiện nay. Chống tham nhũng không có “vùng cấm”, không có đặc quyền, không có ngoại lệ, bất luận là ai, kể cả những người bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng hay can thiệp, ngăn cản việc chống tham nhũng. Chúng ta tiến hành chống tham nhũng toàn diện, gắn liền với tăng cường chỉnh đốn Đảng, đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán và đã xử lý nhiều cán bộ cao cấp, tổ chức đảng vi phạm, trong đó có cả các đồng chí là Ủy viên Trung ương Đảng; kỷ luật cả cán bộ đương chức và đã nghỉ hưu, cả trong lực lượng vũ trang; làm nghiêm từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài... Lần đầu trong lịch sử tố tụng Việt Nam, một người từng là Ủy viên Bộ Chính trị đã bị cơ quan tiến hành tố tụng truy tố và đưa ra xét xử về tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Đây là việc chưa từng có trước đây. Sau hơn 2 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 35.000 đảng viên vi phạm, trong đó có gần 1.300 đảng viên bị thi hành kỷ luật do tham nhũng, cố ý làm trái; số vụ án lớn được đưa ra xử lý, số cán bộ trung, cao cấp bị xử lý trong 2 năm vừa qua nhiều gấp 3 lần trong 20 năm trước đó; số tiền thu lại được trong 2 năm qua nhiều gấp 40 lần trong 20 năm trước đó. Đây là những con số, minh chứng cho thấy Đảng ta “quyết tâm làm đến cùng”(4) trong cuộc chiến chống tham nhũng, đập tan những luận điệu xuyên tạc rằng ta làm “nửa vời” hay “vẫn còn vùng cấm”. 
Chống tham nhũng cũng không hề làm thối chí hay rã đám tinh thần như luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Ngược lại, cuộc đấu tranh chống “giặc nội xâm” đang được Đảng ta đẩy mạnh, vì lương tâm và trách nhiệm trước vận mệnh dân tộc, vì lợi ích của nhân dân, vì sự trong sạch và thanh danh của Đảng, đang thực sự truyền cảm hứng mạnh mẽ và làm nức lòng cán bộ, đảng viên, nhân dân. Khi những tiêu cực bị đẩy lùi, chính nghĩa và sự thanh liêm được bảo vệ, sẽ thực sự dấy lên niềm tin và khí thế mới trong cả hệ thống chính trị, chuyển biến thành những kết quả tích cực trong công tác xây dựng Đảng và những tín hiệu tích cực của nền kinh tế đất nước. GDP 6 tháng đầu năm 2018 tăng 7,08%, cao nhất từ 7 năm qua... Chống tham nhũng đang thực sự là một động lực mới cho sự phát triển của đất nước. 
Rõ ràng, cam kết danh dự và quyết tâm chính trị mạnh mẽ của Đảng ta, cùng những kết quả phòng, chống tham nhũng quan trọng đạt được trong thực tiễn tự nó là những minh chứng sống động và đầy sức thuyết phục đanh thép bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, ngụy tuyên truyền của các thế lực thù địch về phòng, chống tham nhũng trên các phương tiện truyền thông xã hội.
------------------------------------------------
(1) Noam Chomsky: Tham vọng bá quyền, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2006, tr. 35
(2) Nichols - J. & McChesney - R. W., Tragedy & Farce: How the American Media Sell Wars, Spin Election, and Destroy Democracy, the New Press, New York, 2005, p.12
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 672
(4) Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Hội nghị Đại biểu Quốc hội tiếp xúc cử tri Hà Nội trước kỳ họp thứ năm Quốc hội khóa XIV, ngày 13-5-2018
http://www.tapchicongsan.org.vn

Cảnh giác với những phương thức, thủ đoạn xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh


Nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam, những năm qua, các thế lực thù địch ra sức tuyên truyền, xuyên tạc nhằm xóa bỏ nền tảng lý luận trong đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam. Đặc biệt, chúng triệt để xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh, bôi lem thân thế, sự nghiệp của Người, hòng đưa tư tưởng Hồ Chí Minh ra khỏi nền tảng lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Các thế lực thù địch tìm cách đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với Chủ nghĩa Mác-Lênin, chúng coi Hồ Chí Minh chỉ là người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không phải là người cộng sản. Chúng cho rằng việc Hồ Chí Minh vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam là sai lầm, là nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của đất nước. Chúng dựng chuyện phi thực tế về thân thế, đời tư của Hồ Chí Minh hòng bôi nhọ lãnh tụ; triệt để lợi dụng, khoét sâu những thiếu sót trong thực hiện quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước, những suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và các vụ việc tiêu cực, tham nhũng xảy ra để xuyên tạc rằng, Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã lỗi thời, không còn phù hợp với xu thế của thời đại. Với những thủ đoạn đó, chúng hy vọng một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân dao động, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, về thành tựu đổi mới của đất nước, về mục tiêu, con đường đi lên xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam. Từ đó, lôi kéo, kích động nhân dân vào các hoạt động biểu tình, gây mất ổn định chính trị, xã hội.
Nhằm tuyên truyền, xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh, các thế lực thù địch ráo riết sử dụng nhiều phương thức, thủ đoạn, trong đó, tập trung vào một số phương thức hoạt động cơ bản, như: Thông qua internet, mạng xã hội để tuyên truyền, xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh. Các tổ chức phản động lưu vong, như: “Việt Tân”, “chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời”… đã lập hơn 400 trang web, blog, hàng chục tạp chí, báo, nhà xuất bản, hơn 60 đài phát thanh có chương trình tiếng Việt, như VPR, VOA, RFI... lập ra các diễn đàn để tuyên truyền, xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh.  
Chúng cũng tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm, diễn đàn quốc tế xuyên tạc tư tưởng và thân thế, đời tư của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đặc biệt triệt để tổ chức các diễn đàn, tọa đàm, hội thảo ở các nước có đông đảo bà con Việt kiều đang sinh sống, làm việc, như: Australia, Mỹ, Canada... rồi gửi thư ngỏ, tài liệu truyền bá tư tưởng phản động, xuyên tạc Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh tới lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam và các cơ quan chức năng trong nước, đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài; thông qua tiếp xúc gặp gỡ các đoàn ra nước ngoài làm việc, tham quan. Qua đó, chúng ra sức rêu rao rằng tư tưởng Hồ Chí Minh đã lỗi thời, lạc hậu, đề nghị Đảng, Nhà nước Việt Nam cần thay đổi bằng hệ tư tưởng mới.
Cùng những việc làm trên, chúng tìm cách tác động các chính khách cực đoan trong Quốc hội Mỹ và các nước phương Tây gắn vấn đề viện trợ, hợp tác kinh tế với điều kiện thay đổi cải cách chính trị, pháp luật theo kiểu phương Tây, trong đó có thay đổi Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh bằng hệ tư tưởng dân chủ tư sản; đồng thời tìm cách móc nối, mua chuộc cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất trong Đảng, Nhà nước viết bài, tung tin tuyên truyền, xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh; kích động tâm lý hoài nghi của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng từ bên trong xã hội.
Cần khẳng định rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh là một khoa học, bao gồm hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam; là kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam; là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH). Một tư tưởng, hệ tư tưởng được đánh giá là cách mạng, khoa học khi và chỉ khi xuất phát và phản ánh đúng thực tiễn, soi đường cho hoạt động thực tiễn, thúc đẩy thực tiễn phát triển, điều này luôn đúng với tư tưởng Hồ Chí Minh. Với thế giới quan, phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin và với một trí tuệ sắc sảo, khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, Hồ Chí Minh đã tiếp thu tinh hoa của dân tộc và của nhân loại để hình thành nên hệ thống tư tưởng của mình. Tư tưởng đó là sự thống nhất, quan hệ biện chứng với Chủ nghĩa Mác-Lênin, không chỉ giải quyết vấn đề lý luận, mà cao hơn là tư duy hành động, giải quyết những vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Cùng với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành ngọn đuốc soi đường đưa cách mạng Việt Nam giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều đó chứng minh rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh đã thấm sâu vào phong trào cách mạng Việt Nam, phù hợp với quy luật phát triển của thời đại, để kiến tạo nên một thời đại mới cho dân tộc Việt Nam, là thời đại Hồ Chí Minh, là một mốc son sáng ngời trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Đó là một chân lý không ai có thể phủ nhận được. Hồ Chí Minh, Người là biểu tượng sáng ngời của tình đoàn kết quốc tế, đấu tranh không biết mỏi mệt cho hòa bình và tiến bộ của nhân loại; là hiện thân của chủ nghĩa nhân văn cao cả, đã cống hiến cả cuộc đời mình để đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, mang lại độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân. Với những cống hiến vĩ đại cho dân tộc và cho nhân loại, với tấm gương đạo đức sáng ngời, Người đã được cả dân tộc Việt Nam, cộng đồng quốc tế và nhân dân tiến bộ trên thế giới tôn vinh, ngưỡng vọng. Chính vì lẽ đó, những luận điệu xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh, bôi lem, xuyên tạc thân thế, sự nghiệp của Người chỉ là những luận điệu phi lịch sử, phản khoa học cũ rích, vô giá trị mà thôi.  
Với sự chỉ đạo sát sao của Đảng, Nhà nước, thời gian qua công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh đã đạt được những kết quả quan trọng. Đặc biệt, các cơ quan chức năng đã tăng cường công tác quản lý an ninh thông tin mạng; triển khai biện pháp phát hiện, đấu tranh với các đối tượng tuyên truyền, xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh, bắt giữ, xử lý nghiêm minh nhiều đối tượng vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác tuyên truyền và đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh còn tồn tại những hạn chế nhất định, như: Sự phối hợp giữa các cơ quan ban, ngành trong tuyên truyền và đấu tranh, phản bác còn hạn chế, chưa phát huy sức mạnh tổng hợp trong công tác này; công tác phòng ngừa, đấu tranh chưa gắn kết, phối hợp nhịp nhàng, có lúc, có nơi còn mang tính hình thức, thụ động; nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên về tầm quan trọng của công tác phòng ngừa, đấu tranh chống hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh và thân thế, sự nghiệp của Người còn hạn chế...
Những năm tới, các thế lực thù địch vẫn sẽ tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh và thân thế, sự nghiệp của Người hòng phủ nhận hệ tư tưởng lý luận của Đảng ta và toàn xã hội, thúc đẩy “tự diễn biến”,“tự chuyển hóa” trong nội bộ ta. Để góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh chống hoạt động này, cần tập trung vào một số công tác trọng tâm như sau:
Một là, công tác phòng ngừa, đấu tranh chống hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh và thân thế, sự nghiệp của Người luôn phải được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng và Nhà nước nhằm phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong triển khai công tác này một cách thực chất, thường xuyên, liên tục với quyết tâm chính trị lớn, có sức thuyết phục cao, sức lan tỏa sâu rộng. Đặc biệt, cần huy động được rộng rãi trí tuệ, tâm huyết của các nhân sĩ, trí thức và nhân dân tiến bộ trên thế giới tham gia công tác phòng ngừa, đấu tranh.
Hai là, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền đối nội và đối ngoại nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, nhân dân trong và ngoài nước về bản chất cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh bằng minh chứng cụ thể từ những thắng lợi trong lịch sử dân tộc và trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay; về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng lý luận của Đảng, âm mưu, thủ đoạn tuyên truyền, xuyên tạc Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm chống phá Việt Nam, để từ đó thúc đẩy mọi người tự giác tham gia công tác phòng ngừa, đấu tranh. Tiếp tục phát huy thế mạnh của các kênh thông tin, đặc biệt là tăng cường xây dựng các trang web, các blog, diễn đàn trên mạng xã hội để đăng tải các tin, bài viết phong phú, đa dạng nhằm tuyên truyền về vị trí, tầm quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước hiện nay. Qua đó, góp phần đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh và thân thế, sự nghiệp của Người.
Ba là, tiếp tục đẩy mạnh công tác nghiên cứu tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, khẳng định vị thế, vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạch định đường lối xây dựng và phát triển đất nước; làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh có sức sống mãnh liệt trong đời sống, giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần, tư tưởng của xã hội ta. Qua đó nhằm cung cấp luận cứ khoa học cho cuộc đấu tranh, phê phán quan điểm, tư tưởng xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh. Gắn kết chặt chẽ cuộc đấu tranh bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh; nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu.
Bốn là, tiếp tục tăng cường công tác quản lý Nhà nước về báo chí, truyền thông, internet và thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trên lĩnh vực này. Qua đó chủ động phát hiện những hành vi sai phạm, xu hướng lệch lạc của số phóng viên thoái hóa, biến chất; phát hiện các tài liệu, bài viết xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh và thân thế, sự nghiệp của Người để có biện pháp xử lý kịp thời. Chủ động phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn kịp thời các trang mạng độc hại, các blog “đen” thường đăng tải các tin, bài, phim có nội dung xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh.     
Năm là, tiếp tục thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, làm cho các tầng lớp nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc; không ngừng nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế nhằm khẳng định sự thắng lợi của XHCN ở nước ta. Đó là minh chứng sinh động nhất nhằm bảo vệ vị thế, vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh trong nền tảng tư tưởng của Đảng ta, đập tan luận điệu xuyên tạc, chống phá tư tưởng Hồ Chí Minh của các thế lực thù địch.        
                        Nguồn: www.qdnd.vn