Các phương tiện truyền
thông xã hội là địa hạt mới trên mặt trận tư tưởng, nơi các thế lực thù
địch xem không gian mạng như một thứ “quyền lực thứ năm”, bên cạnh “quyền lực
thứ tư” là báo chí, để ráo riết và triệt để lợi dụng phát tán trên diện rộng
các luận điệu xuyên tạc trắng trợn hoặc núp bóng tinh vi dưới vỏ bọc “khách
quan” của cái gọi là “phản biện”, “góc nhìn độc lập”…, hòng gây rối, nhiễu, bóp
méo và làm sai lệch thông tin, nhằm phục vụ cho những mưu đồ đen tối rắp tâm
chống phá công cuộc phòng, chống tham nhũng đang được Đảng ta đẩy mạnh. Việc
đấu tranh phản bác các luận điệu ngụy tuyên truyền về phòng, chống tham nhũng
trên các phương tiện truyền thông xã hội, góp phần vạch trần những âm mưu, thủ
đoạn nham hiểm của các thế lực thù địch là yêu cầu cấp thiết hiện nay.
Nhận diện ngụy tuyên truyền và những kẻ chơi lá bài hai mặt
Trước
nay, trong chính giới và học giả phương Tây, nhiều người vẫn “rao giảng” về
một thứ truyền thông đại chúng, biểu hiện tập trung nhất ở báo chí, là tự do,
khách quan tuyệt đối, phi chính trị, đứng ngoài cuộc đấu tranh tư tưởng. Với
xảo biện rằng, báo chí thuần túy là phương tiện giao tiếp, họ “lập lờ đánh lận
con đen” tuyệt đối hóa chức năng thông tin, song hành với phủ nhận chức năng tư
tưởng và bóp méo khái niệm tuyên truyền của báo chí.
Những
xảo biện đó không che giấu được sự thật là, báo chí thuộc thể chế chính
trị nào cũng đều mang bản chất chính trị - xã hội. Trong bất kỳ xã hội có giai
cấp và còn sự khác biệt về lợi ích, báo chí với tư cách là công cụ đấu tranh
giai cấp, luôn thuộc về một giai cấp nhất định, thường là giai cấp thống trị xã
hội - giai cấp này sử dụng báo chí như một công cụ đắc lực để giành và giữ
quyền lực chính trị, đồng thời tuyên truyền hệ tư tưởng, chủ thuyết chính trị
của mình để chính thống hóa và duy trì nó ở vị trí chủ đạo trong đời sống tinh
thần của xã hội. Báo chí thuộc giai cấp, nhóm xã hội nào thì bảo vệ cho
quyền, lợi ích của giai cấp, nhóm xã hội đó.
Chức
năng thông tin là chức năng cơ bản, nguyên thủy và khởi nguồn của báo chí.
Tuy nhiên, đặt chức năng thông tin lên hàng đầu không đồng nghĩa với tuyệt đối
hóa nó và cho rằng, thông tin sự kiện là khách quan tuyệt đối, là thông tin sự
kiện bản thể nguyên dạng, ngoài ra không vì bất cứ mục đích nào khác. Báo chí
thông tin chân thực, khách quan, song được tái tạo và soi chiếu qua lăng kính
chủ quan của nhà báo, bao giờ cũng mang tính khuynh hướng rõ nét - do địa vị xã
hội và lợi ích của tổ chức xã hội hay lực lượng chính trị mà nhà báo đại
diện phát ngôn chi phối. Tính khuynh hướng chính trị của báo chí là nguyên tắc
phổ biến, tồn tại khách quan, ngoài ý muốn chủ quan, không thể chối bỏ. Do đó,
không thể và không bao giờ có thứ báo chí đứng ngoài, đứng trên chính trị hay
không can dự vào đấu tranh giai cấp, đấu tranh tư tưởng, ở bất kỳ một nền báo
chí nào, như sự rêu rao của nhiều học giả hay giới chức phương Tây.
Trong
thực tiễn, thông tin (information) và tuyên truyền (propaganda) là hai mặt của
một vấn đề. Không ai thông tin mà không nhằm mục đích nào đó, tức là tuyên
truyền; ngược lại, nếu chỉ nhấn mạnh, tuyệt đối hóa tuyên truyền mà không đẩy
mạnh thông tin những sự kiện, vấn đề cụ thể, sinh động từ cuộc sống thì trở
thành tuyên truyền suông, thiếu thuyết phục và hiệu quả. Như vậy, tuyên truyền
là sự biểu hiện tập trung tính mục đích của báo chí, trước hết là mục đích
chính trị. Tuyên truyền mang tính phổ quát ở mọi nền báo chí và là công việc
được thực hiện bởi bất kỳ đảng phái chính trị hay chính phủ ở thể chế chính trị
nào, dù trực tiếp hay gián tiếp, dù thừa nhận hay không thừa nhận. Tuyên
truyền mang nghĩa tốt hay xấu không do nội hàm khái niệm, mà hoàn toàn do mục
đích của chủ thể sử dụng nó.
Nền
báo chí của giai cấp vô sản mang bản chất cách mạng, công khai tuyên bố và thực
hành chức năng tư tưởng, bên cạnh chức năng thông tin. Với chức năng này, theo
quan điểm của Đảng ta, báo chí cách mạng Việt Nam vừa là diễn đàn của đông đảo
nhân dân, vừa là công cụ, phương tiện quan trọng để tuyên truyền hệ tư tưởng
của Đảng, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và làm cho hệ
tư tưởng này trở thành chủ đạo, nền tảng tư tưởng trong đời sống tinh thần của
xã hội. Báo chí tuyên truyền để tạo dựng niềm tin vững chắc vào con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng ta; bảo vệ lợi ích quốc gia -
dân tộc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, vì sự phát triển bền vững của đất nước
và chấn hưng dân tộc; tự nguyện phục tùng, vì lợi ích chính đáng của đông đảo
nhân dân lao động. Công tác tuyên truyền luôn đứng về phía tiến bộ, ủng hộ
những nhân tố tích cực, làm cho các giá trị nhân văn, nhân bản lan tỏa trong xã
hội, đồng thời đấu tranh không khoan nhượng với những thói hư, tật xấu
trong xã hội, trong Đảng, nhất là với “giặc nội xâm” tham ô, tham nhũng; đấu
tranh với các luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, góp phần
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng...
Khi
thực hành nhiệm vụ tuyên truyền, nền báo chí nước ta đặt lên hàng đầu tính
chân thực, tính khách quan. Như V.I. Lê-nin khẳng định, tuyên truyền là đem
chân lý đến cho người nghe. Và, đông đảo quần chúng nhân dân tin tưởng, đi theo
những người cộng sản không phải vì những người cộng sản khéo nói, mà chính bởi
người cộng sản nói đúng sự thật. V.I. Lê-nin đặc biệt nhấn mạnh tính thực tiễn,
tính khách quan, xác thực của hoạt động tuyên truyền, đặc biệt phát hiện và lấy
những sáng tạo của quần chúng nhân dân để thuyết phục nhân dân.
Trong
khi đó, nhiều học giả và chính giới phương Tây vẫn thích chơi “lá bài hai
mặt”. Một mặt, họ phê phán và đánh đồng tuyên truyền với sự giả
dối, tha hóa, là sự “nhồi sọ thông tin”, cùng luận điệu tráo trở “chỉ có cộng
sản mới sử dụng tuyên truyền” (?!); mặt khác, chính họ lại tung ra
thứ ngụy tuyên truyền đó - tức tuyên truyền những luận điệu
giả trá, lừa phỉnh để phục vụ cho các mưu đồ, thủ đoạn chính trị của
mình.
Sống
giữa trung tâm của thế giới phương Tây và nằm lòng những thủ thuật của nền
chính trị tư bản, Giáo sư nổi tiếng tại Viện Công nghệ Ma-xơ-chu-xét (MIT) của
Mỹ, Nô-am Chôm-xki (Noam Chomsky), người được tờ New York Times gọi
là “nhà trí thức quan trọng nhất hiện đang còn sống”, trong các cuốn “Tham
vọng bá quyền”và “Nhận diện quyền lực” (đã được dịch ra
tiếng Việt), cho rằng, truyền thông đại chúng phương Tây bị thiên kiến nặng nề
và luôn đứng về phía các thiết chế quyền lực đương thời. Ròng rã hơn một thế kỷ
vừa qua, “tuyên truyền” trở thành một “kỹ nghệ có tổ chức” ở nhiều nước phương
Tây. Giáo sư N. Chôm-xki cho biết, ngay từ Chiến tranh thế giới thứ nhất, nước
Anh đã tổ chức cơ quan cấp bộ đầu tiên điều phối công việc tuyên truyền là Bộ
Thông tin; tiếp đó, cơ quan tuyên truyền đầu tiên của Chính phủ Mỹ là Ủy ban
Thông tin công cộng cũng được thành lập... Nhiều cơ quan kiểu này có nhiệm vụ
“kiểm soát đầu óc của dân chúng”, lừa phỉnh công luận để “chế tạo ra tâm trạng
đồng tình” và sẵn sàng bán rẻ, chà đạp lên lợi ích của đông đảo người dân để
bảo vệ lợi ích cho một nhóm nhỏ các nhà tư bản. Việc ngụy tuyên truyền trên
được hà hơi, tiếp sức bởi “các thế lực tài phiệt tư nhân - tức là các hệ thống
công ty - đóng vai trò kiểm soát dư luận và thái độ của quần chúng. Những công
ty này không nhận lệnh của chính phủ nhưng liên hệ chặt chẽ với chính
phủ”(1).
Hiện
nay, dù rằng về danh nghĩa, tại nhiều nước phương Tây, báo chí không thuộc
chính phủ hay các đảng phái chính trị, song trên thực tế, giai cấp tư sản tiếp
tục tìm mọi cách chi phối hoạt động báo chí, chủ yếu bằng quyền lực chính trị
và sức mạnh của đồng tiền, sử dụng báo chí hiện đại như bộ máy trung gian để
củng cố địa vị cầm quyền của giai cấp tư sản và là “cỗ máy” dọn đường dư luận
cho việc thực hiện những âm mưu chính trị, điển hình như việc một số tập đoàn
truyền thông phương Tây sẵn sàng “đổi trắng thay đen” bịa đặt thông tin hay
thông tin không hề được kiểm chứng về tình hình một số nước tại Trung Đông,
trong suốt vài thập niên trở lại đây, đi ngược lại nguyên tắc tối thiểu
về tính chân thực, khách quan của báo chí, tạo cớ để một số cường quốc
bất chấp luật pháp quốc tế trắng trợn tấn công những nước có chủ quyền, bản
chất là phục vụ cho dã tâm bá quyền và âm mưu “đổi máu lấy dầu” nhằm thu
những món hời khổng lồ từ việc kiểm soát nguồn dầu mỏ ở Trung Đông và buôn bán
vũ khí, của giới chính trị chóp bu và tài phiệt kếch sù phương Tây...
Nhà
nghiên cứu truyền thông hàng đầu của Mỹ là Rô-be Mac Che-xnây (Robert W.
McChesney) phải thốt lên rằng: “Báo chí của chúng ta (Mỹ - tác giả)
đang trở thành thiên đường cho những kẻ lừa dối, ở đó, giá của sự xuyên tạc,
bóp méo đã xuống quá thấp”(2).
Cùng
với các phương tiện truyền thông đại chúng truyền thống như báo chí..., các
phương tiện truyền thông mới (New media), trong đó có các phương tiện truyền
thông xã hội (Social media), hiện cũng được chính giới phương Tây triệt
để lợi dụng để củng cố quyền lực chính trị và thúc đẩy đấu tranh
ý thức hệ, trong kỷ nguyên số. Bước chuyển đầy toan tính
này càng cho thấy, các phương tiện truyền thông xã hội không thuần
túy là vật trung gian công nghệ và giao tiếp cá nhân chỉ mang bản
chất vật lý kỹ thuật và bản chất xã hội (kết nối xã hội) như phát
ngôn ru ngủ công luận của chủ các hãng công nghệ hàng đầu thế giới
và nhiều chính trị gia phương Tây, mà ngày càng hội đủ và bộc lộ rõ bản
chất thông tin, bản chất kinh tế... và nhất là bản chất chính trị.
“Cơn
ác mộng” về chính trị tại các nước ở khu vực Bắc Phi, Trung Đông trong các
năm 2010 - 2011 là điển hình cho việc các phương tiện truyền thông xã hội
trở thành công cụ chính trị đắc lực ra sao, khi dưới sự hậu thuẫn của
một số nước phương Tây, lần đầu tiên, các nhóm xã hội đối lập thuộc nhiều thành
phần xã hội, chính trị khác nhau và các thành viên của tổ chức “Huynh đệ Hồi
giáo” phối hợp hoạt động, tập hợp hàng triệu người ủng hộ thông qua các trang
mạng xã hội và điện thoại di động để tiến hành biểu tình, mượn danh nghĩa
chống tham nhũng và sự đàn áp dân chủ, để lật đổ các chính phủ đương
nhiệm. Mới đây, vụ việc Facebook, mạng xã hội lớn nhất thế giới, bị
cáo buộc làm lộ lọt thông tin cá nhân, để Cambridge Analytica, công ty
phân tích dữ liệu chính trị, tiếp cận trái phép và “đầu độc thông tin chính
trị” tới 87 triệu người dùng, mục đích tác động làm thay đổi kết quả
cuộc tranh cử Tổng thống Mỹ năm 2016, cũng cho thấy sự tham gia những thương
vụ chính trị hết sức tinh vi của các tập đoàn truyền thông xã hội,
một cách chủ động hay bị dắt dây bởi các thế lực chính trị, đi
ngược lại hoàn toàn tuyên bố về tính khách quan tuyệt đối và bảo mật thông tin
của Facebook, vốn luôn khẳng định mình đơn thuần chỉ là hãng công nghệ thuần
túy (?!).
Những
minh chứng trên chỉ là số ít trong rất nhiều thủ đoạn chính trị mà
chính giới phương Tây đã sử dụng để điều khiển, chi phối, khống chế hệ
thống báo chí truyền thống và các phương tiện truyền thông xã hội, một
cách vừa tinh vi, vừa trắng trợn, không chỉ ở quy mô một quốc gia, mà còn trên
quy mô toàn cầu; không chỉ tự ra tay, mà còn “tá đao sát nhân”, o bế và
dung túng các thế lực tay sai để can thiệp thô bạo vào an ninh và công
việc nội bộ của nước khác, nhất là các quốc gia có sự khác biệt về ý
thức hệ.
Lật tẩy “con át chủ bài” các phương tiện truyền thông xã
hội và những chiêu trò ngụy tuyên truyền về chống tham nhũng
Các
phương tiện truyền thông xã hội là các công cụ, ứng dụng giao tiếp đại
chúng dựa vào không gian trực tuyến trên nền tảng in-tơ-nét và các công
nghệ truyền thông hiện đại khác nhằm chuyển tải thông tin, kết nối mọi
người với tốc độ truyền dẫn, lan tỏa nhanh chóng, trên diện rộng, cùng tính
tương tác cao, sự chủ động của người dùng, hình thành nên các mối quan
hệ xã hội, cộng đồng tương tác xã hội đa dạng, có tác động sâu rộng vào mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội và đời sống cá nhân của người dùng. Các phương
tiện truyền thông xã hội rất đa dạng, bao gồm nhiều loại hình, tính năng ứng
dụng, như Mạng xã hội (Social network): Facebook, MySpace,
Google+, Zing.Me...; trang chia sẻ link và tin tức xã hội (Social
bookmarking và Social news): Delicious, Digg, Reddit, Loantin...; trang
chia sẻ hình ảnh, video (Social sharing): YouTube, Instagram, Flickr, Clip.vn...; các
tiểu blog hay blog vi mô (Microblogging): Twitter, Friendfeed, Tumblr,
Me2day...; diễn đàn (Forums): Sitepoint.com, startups.co.uk,
webtretho, Otofun...; dịch vụ thoại, nhắn tin trên nền in-tơ-nét (OTT):
Viber, Zalo, WeChat, Facebook Messenger...; phương tiện tìm kiếm xã hội
và tìm kiếm tri thức (Social search and Social knowledge): Bing,
Wikiedia, Wikia, Yahoo Ask...; thực tế ảo và trò chơi tương tác cộng
đồng (Virtual reality và Social game): PlayStation VR, Augmented
Reality, Rise of the Kings, “Trang trại @”...; mạng xã hội âm nhạc (Social
music sites): Pandora, 8Tracks, Nhacso.net..., trong đó mạng xã hội có
diện phủ rộng nhất.
Không
thể phủ nhận, các phương tiện truyền thông xã hội là một thành tựu vĩ đại của
nhân loại, mang đến nguồn tài nguyên thông tin - tri thức vô hạn, những tiện
ích trong kết nối - giao tiếp xã hội chưa bao giờ có trước đây. Nếu được sử
dụng vào những mục đích tích cực, thì chúng sẽ tạo nên những giá trị vô cùng
to lớn. Tuy nhiên, với sự tham gia đa dạng của người dùng, trong môi trường khó
kiểm soát, các phương tiện này cũng là “con dao hai lưỡi”, khi những tác động
nghịch rất dễ xảy ra, tạo nên nhiều hệ lụy tiêu cực tới đời sống chính trị -
xã hội, thậm chí khôn lường, nhất là với một quốc gia có số lượng
người dùng in-tơ-nét gắn với các phương tiện truyền thông xã hội cao
hàng đầu thế giới như Việt Nam (tính đến ngày 30-6-2017, Việt Nam có 64
triệu người sử dụng in-tơ-nét, đứng thứ 12 trên thế giới).
Chiếm
lĩnh môi trường không gian mạng, thông qua các phương tiện truyền thông xã hội
để ngụy tuyên truyền nhằm chống phá, tạo bất đồng, xung đột về tư tưởng trong
nội bộ Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội, trong xã hội và nhân dân, từ đó
kích động biểu tình, chống đối, bạo loạn, khủng bố, lật đổ... là âm mưu,
thủ đoạn mới đầy nham hiểm của các thế lực thù địch. Trong kỷ nguyên
số, môi trường mạng đang ngày càng trở thành mặt trận chính trong cuộc
đấu tranh ý thức hệ.
Trong
“ván bài chính trị” chống phá ta, các thế lực thù địch sử dụng
các phương tiện truyền thông xã hội như một “con át chủ bài” và thông
qua đó, chúng xảo quyệt tập trung ngụy tuyên truyền về tham
nhũng, vốn là vấn đề xã hội hết sức nhức nhối; vấn đề nhạy
cảm gắn liền với sự tha hóa về quyền lực chính trị, từ đó dễ
dàng bôi đen, thổi phồng các khuyết điểm, xuyên tạc về Đảng, Nhà nước ta,
âm mưu chuyển hóa từ tuyên truyền về chống tham nhũng sang kích động chống phá
về chính trị. Chúng không từ bất cứ thủ đoạn nào để tung hỏa mù, bủa
vây không gian mạng hòng gây nhiễu thông tin bằng những màn lừa bịp
tráo trở, biến hóa khó lường, song tập trung nhất vẫn là xuyên tạc,
khoét sâu một số nội dung chủ yếu sau:
Một là, trên không gian mạng,
các thế lực thù địch xảo biện và quy chụp tham nhũng chỉ tồn tại và “nở rộ” ở
chế độ một đảng cầm quyền như tại Việt Nam. Chúng cho rằng, đây là vấn đề
thuộc về “bản chất thể chế”, không thể thay đổi được hoặc dù tham nhũng
có ở các thể chế chính trị khác, nhưng nghiêm trọng hơn ở chế độ một đảng.
Rằng, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiệu quả thấp do
thiếu vắng sự kiềm chế và đối trọng giữa các nhánh quyền lực như cơ chế “tam
quyền phân lập” (?!).
Sự thật là,
tham nhũng là khuyết tật “bẩm sinh” của quyền lực, một hiện tượng xã hội
gắn liền với sự xuất hiện chế độ tư hữu, sự hình thành giai cấp
và sự ra đời, phát triển của nhà nước. Nó là căn bệnh đồng hành
và tồn tại ở mọi nhà nước, không phân biệt chế độ chính trị. Khi
còn nhà nước và quyền lực chính trị thì tất yếu còn tham nhũng.
Thể chế chính trị khác hay giống nhau không thể là lằn ranh ngăn cản
sự xuất hiện của tham nhũng hay quyết định tham nhũng nhiều hay ít.
Đặc
biệt, tham nhũng xuất hiện và tồn tại được nhờ môi sinh là chế độ tư
hữu. Trong khi đó, chế độ tư bản chủ nghĩa được xây dựng trên nền
tảng của chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất. Do đó, từ trong bản chất của nó, chế độ chiếm hữu tư bản tư nhân về
tư liệu sản xuất là môi trường lý tưởng hơn hết để tham nhũng xuất
hiện và phát triển. C. Mác viết, chế độ tư hữu khiến cho con người bị tha
hóa (tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844) và ở đó,
giai cấp tư sản với “lòng tham vô đáy” công nhiên tư lợi, biến mọi mối
quan hệ giữa người với người trong xã hội tư bản thành một mối quan
hệ duy nhất là lợi ích trần trụi và lối “tiền trao cháo múc” (tác
phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản), nơi nhà tư bản sẵn sàng
chà đạp lên mọi thứ, thậm chí không còn tội ác nào là nó không dám phạm
(tác phẩm Tư bản). Ngày nay, thực tiễn chính trường và xã
hội tư bản vẫn đầy rẫy những vụ, việc tham nhũng đình đám, không
khó để điểm mặt chỉ tên những vụ, việc này ở Mỹ, Anh, Pháp, Đức...,
dù chúng biến tướng ngày càng phức tạp, được chính giới và tài
phiệt tư bản cấu kết che đậy hết sức tinh vi. Tham nhũng là “khối u
ác tính” không thể cắt bỏ trong xã hội tư bản và nó đẩy các mâu
thuẫn bản chất không thể hóa giải trong xã hội tư bản lên càng cao,
dù rằng nhà nước tư bản có gắng gượng cải tổ đến đâu. Sự thực
nhãn tiền đó khiến cho những kẻ vẫn lu loa luận điệu rằng, chỉ ở
chế độ chính trị một đảng mới có tham nhũng, trở nên hết sức lố
bịch! Càng lố bịch hơn khi họ lớn tiếng ca ngợi sự mẫu mực của các
nước tư bản trong chống tham nhũng và cho rằng, chỉ nhà nước pháp
quyền tư bản và cơ chế “tam quyền phân lập” mới chống tham nhũng hiệu
quả từ gốc hay thể chế dân chủ tư sản đã là một cơ chế tự thân để phòng và
chống tham nhũng. Và rằng, hoàn toàn có thể tích hợp cơ chế “tam
quyền phân lập” trong chế độ xã hội chủ nghĩa (?!)...
Tại
Hàn Quốc, đất nước tiêu biểu cho chế độ đa đảng và “tam quyền phân
lập”, tình trạng tham nhũng hiện nay vẫn diễn ra hết sức nhức nhối.
Theo Ủy ban Phòng, chống tham nhũng và Quyền công dân Hàn Quốc (ACRC),
trong vòng 10 năm (từ năm 2008 đến 2017), ACRC đã tiếp nhận tới 32.306
tố cáo tham nhũng, chuyển cơ quan điều tra, thẩm tra 1.615 vụ. Tháng
3-2017, bà Park Geun Hye trở thành Tổng thống dân cử đầu tiên của Hàn
Quốc bị phế truất vì cáo buộc tham nhũng 55,2 triệu USD liên quan tới
các tập đoàn kinh tế hàng đầu của nước này, như Samsung, Lotte... và
đang phải thụ mức án 24 năm tù. Rõ ràng, cơ chế “tam quyền phân lập” không
phải là phương thuốc thần diệu kiểm soát quyền lực và chống tham nhũng được
triệt để!
Cuộc
đấu tranh chống tham nhũng hiện nay đã trở thành một trong những vấn
đề toàn cầu. Sự tham khảo kinh nghiệm chống tham nhũng giữa các quốc
gia và xây dựng cơ chế phối hợp chống tham nhũng ở tầm quốc tế là
hết sức cần thiết, trên cơ sở sự vận dụng sáng tạo, linh hoạt, phù
hợp với điều kiện và thể chế chính trị từng nước. Tuy nhiên, trong
mỗi chế độ nhà nước khác nhau, thì tính chất, mức độ và cách xử lý
với tham nhũng cũng khác nhau, phụ thuộc vào bản chất giai cấp, phương
thức tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, vào năng lực đạo đức
của đội ngũ công chức của nhà nước đó. Việc tham khảo, tiếp thu về
kinh nghiệm chống tham nhũng không hề đồng nghĩa phải bê nguyên xi hay
áp dụng cả hệ thống chính trị của quốc gia khác.
Rõ
ràng, mớ xảo biện hổ lốn ngụy tuyên truyền trên của các thế lực thù địch
chẳng có gì khác ngoài chiêu trò lợi dụng và mượn “con bài” chống
tham nhũng để chuyển sang chống phá về tư tưởng và chính trị!
Đảng
ta lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với hệ
thống pháp luật ngày càng hoàn bị để phòng, chống tham nhũng hiệu
quả, với những bước đi chắc chắn, bài bản và lâu dài. Chúng ta tiếp
thu tinh hoa của văn minh nhân loại - các chế định pháp lý được thừa nhận chung
của cộng đồng quốc tế, như tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, sự tôn
trọng và bảo vệ các quyền con người, tính tối cao của pháp luật trong hoạt động
của nhà nước và trong điều chỉnh các quan hệ xã hội, sự kiểm soát quyền lực...
Tuy nhiên, trong việc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, chúng ta không chấp
nhận “tam quyền phân lập” gắn với chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.
Trái lại, ở nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối
hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp, có sự hài hòa hóa nguyên tắc tập quyền và phân
công, phân cấp, vừa tập trung quyền lực để quyết định và thực thi quyền lực nhà
nước nhanh chóng, thống nhất, vừa có sự kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan
nhà nước ngày càng chặt chẽ hơn, hạn chế sự lạm quyền và tha hóa quyền lực.
Dùng kỷ luật đảng, sức mạnh của pháp chế xã hội chủ nghĩa kết hợp với sự giám
sát xã hội, phản biện xã hội và sức mạnh của dư luận rộng rãi để đấu tranh
chống tham nhũng.
Nhà
nước ngày càng tiến hóa và văn minh hơn nên cơ chế phòng ngừa, phát
hiện, đấu tranh với tham nhũng ngày càng hiệu quả hơn. Sự ra đời của
nhà nước pháp quyền chính là thành quả của văn minh hóa tổ chức và
hoạt động của nhà nước, chống sự tha hóa quyền lực nhà nước và là
một phương thức quan trọng chống nạn tham nhũng. Tuy vậy, nhà nước
pháp quyền cũng có những thất bại của nó, cho nên không thể ảo
tưởng rằng chỉ xây dựng nhà nước pháp quyền thì tự nhiên tham nhũng
bị đẩy lùi hay xóa bỏ.
Đương
nhiên, tham nhũng không phải là một hiện tượng tất yếu, mang tính vĩnh cửu, tồn
tại và phát triển cùng với xã hội loài người. Nhà nước chỉ ra đời và tồn tại ở
một giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội. C. Mác cho rằng, đích cuối của lịch
sử nhân loại là chủ nghĩa cộng sản, cùng với sự thiết lập xã hội không giai
cấp, nhà nước “tự tiêu vong”, theo đó là sự tiêu vong của tham nhũng. Đó là lý
tưởng cao đẹp chủ nghĩa cộng sản hướng đến. Tuy nhiên, thực tiễn xây dựng xã
hội mới theo lý tưởng cộng sản, phải trải qua những bước quá độ, nhất là trong
điều kiện phải sử dụng một số yếu tố tư bản chủ nghĩa để xây dựng chủ nghĩa xã
hội trong thời kỳ quá độ, nên tất yếu khiến cho quá trình khắc phục hiện tượng
tham nhũng còn là một cuộc đấu tranh hết sức lâu dài, cam go, phức tạp.
Hai là, các thế lực thù địch
xuyên tạc trên các phương tiện truyền thông xã hội rằng, cuộc chiến chống tham
nhũng ở Việt Nam thực chất chỉ là cuộc thanh trừng, đấu đá nội bộ giữa các phe
nhóm tranh giành lợi ích, là chính “ta đánh ta”. Chúng vu cáo Đảng ta chống
tham nhũng vượt trên pháp luật; kích động sự trừng phạt, trừng trị, chúng cố
tình lấp liếm đi tính nhân văn trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật
đảng.
Sự thật là,
chống tham nhũng là công việc được Đảng ta coi trọng và thực hiện thường xuyên,
nhất là từ khi Đảng trở thành đảng cầm quyền. Trong điều kiện một đảng cầm
quyền, không có đảng đối lập, không có nghĩa Đảng có thể tự bằng lòng, chủ
quan, duy ý chí, chuyên quyền, độc đoán, không có khả năng nhận ra và sửa chữa
những sai lầm, khuyết điểm của mình... Ngược lại, chiến thắng chính bản thân
mình bao giờ cũng là cuộc chiến khó khăn nhất! Và, một đảng “ngày hôm qua là vĩ
đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người
yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá
nhân”(3), nên Đảng ta thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn chính mình,
đặc biệt tránh tha hóa về quyền lực bởi quan liêu, tham nhũng - một trong bốn
nguy cơ ảnh hưởng tới sự tồn vong của chế độ. Nếu dung túng những cán
bộ, đảng viên, dù là cán bộ cấp cao, nhưng suy thoái về đạo đức, biến chất,
tham ô, tham nhũng thì sẽ làm Đảng suy yếu từ bên trong, làm xói mòn lòng tin
của nhân dân. Năm 1950, khi chuẩn y tử hình Đại tá Trần Dụ Châu, Cục trưởng Cục
Quân nhu, do biển thủ, ăn chặn của công, dù hết sức đau xót, nhưng Chủ tịch Hồ
Chí Minh cho rằng: “Một cái ung nhọt, dẫu có đau cũng phải cắt bỏ, không để nó
lây lan, nguy hiểm”. Do đó, Đảng ta chống tham nhũng là để thanh lọc,
sàng lọc cán bộ, làm trong sạch bộ máy, góp phần giữ sự xác tín chính trị,
tính chính đáng và xứng đáng với vai trò lãnh đạo và địa vị cầm quyền của mình,
tuyệt nhiên không phải là “thanh trừng nội bộ”, càng không phải là “cuộc đấu đá
phe phái”, như luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Mặt
khác, Đảng ta là một khối thống nhất ý chí và hành động. Hệ thống chính trị ở
nước ta mang bản chất thống nhất không có đối trọng, đặt dưới sự lãnh đạo duy
nhất của Đảng - đại biểu trung thành cho ý chí và lợi ích thống nhất của giai
cấp công nhân và của cả dân tộc. Đảng lãnh đạo Nhà nước để bảo đảm nhân dân là
chủ thể của quyền lực nhà nước, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Mọi quyết sách của Đảng, trong đó có việc chống tham nhũng, đều vì lợi ích của
nhân dân, của dân tộc. Càng tuyệt nhiên không có các “phe nhóm” hay “phe phái”
bên trong, bên ngoài Đảng hay trong hệ thống chính trị của ta, có lợi ích khác
đối trọng, kìm hãm, phong tỏa hay cạnh tranh lẫn nhau, làm xé lẻ hay phân rã
quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, từ đó loại trừ hoàn toàn nguy cơ xung
đột cấu trúc (structural conflict) cố hữu như ở các nước tư bản. Do đó, luận
điệu cho rằng, tham nhũng là “chất xúc tác” làm xung đột giữa các phe phái, làm
đảo lộn trật tự quyền lực và chống tham nhũng chỉ vì lợi ích của riêng Đảng,
chặn xu hướng ly khai khỏi quyền lực hệ thống, quyền lực trung tâm của Đảng, là
hoàn toàn phi lý và vô căn cứ, chỉ là sản phẩm của “trí tưởng tượng phong phú”
của những kẻ mang thâm thù với chế độ xã hội chủ nghĩa.
Đồng
thời, mọi hành vi tham nhũng đều phải được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp
thời, nghiêm minh, công bằng, khách quan theo tinh thần thượng tôn pháp luật.
Kỷ luật của Đảng phải nghiêm hơn pháp luật, nhưng kỷ luật của Đảng không thay
thế kỷ luật hành chính, kỷ luật đoàn thể và các hình thức xử lý của pháp luật.
Quan điểm lấy kỷ luật đảng thay pháp luật là sự sai lệch và làm tổn thương uy
tín của Đảng. “Bất cứ ai cũng không có quyền lực tuyệt đối ngoài pháp luật, bất
kỳ ai sử dụng quyền lực đều phải phục vụ nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân
dân và tự giác chịu sự giám sát của nhân dân”, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
nhấn mạnh tại Hội nghị toàn quốc về công tác phòng, chống tham nhũng được tổ
chức vào ngày 25-6-2018. Do đó, không thể có các quy định chống tham nhũng của
Đảng đứng trên pháp luật, “có sự can thiệp chính trị”, “xử ép” hay “vi phạm
nhân quyền”, “vi hiến” và càng không thể mượn cớ chống tham nhũng để xảo biện phải
có cái gọi là “luật về đảng”(?!), vì mọi hoạt động của các tổ chức đảng, đảng
viên và vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với Nhà nước và xã hội đều đã được quy
định tại Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - đạo luật gốc có
hiệu lực pháp lý tối cao.
Ở
góc độ khác, công tác kiểm tra, giám sát, phát hiện tiêu cực, tham nhũng là
“thanh bảo kiếm” giữ nghiêm kỷ luật đảng, vừa thể hiện tính nghiêm minh và
tự giác cao độ, vừa thể hiện tính dân chủ, nhân đạo sâu sắc. Nó không
phải chỉ cốt “vạch lá tìm sâu”, “bới lông tìm vết”, truy tìm bằng được
khuyết điểm, sai lầm để xử phạt, trừng trị, mà là “trị bệnh cứu người”,
lấy xây dựng và cải tạo để chủ động phòng ngừa, cảnh tỉnh, răn đe,
ngăn chặn, uốn nắn, giáo dục, sửa chữa, khơi dậy sự tự giác là
chính. “Thà chặt một cành sâu để cho cây xanh tốt”, như lời Chủ tịch Hồ Chí
Minh, xử lý một người để cứu muôn người, nên công tác kiểm tra, giám sát và kỷ
luật của Đảng ta thể hiện bản chất nhân văn cao độ.
Ba là, các thế lực thù địch
tung thông tin trên không gian mạng hòng lung lạc niềm tin của cán bộ, đảng
viên và nhân dân vào cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng ta, với
những rêu rao rằng, chống tham nhũng ở nước ta như “con thuyền không bến”, là
“cuộc chiến nửa vời”, vẫn còn “nhiều vùng cấm”; và rằng, càng kỷ luật, xử lý
nhiều cán bộ tham nhũng thì càng làm nhụt đi ý chí của đội ngũ cán bộ, đảng
viên, cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thủ
đoạn này nhằm cố tình bôi đen, phủ nhận những kết quả hết sức tích cực, mang
tính bước ngoặt từ công cuộc phòng, chống tham nhũng của Đảng ta vừa qua, reo
rắc tâm trạng hoài nghi, bi quan, nhất là sự thiếu tin tưởng trong dư luận xã
hội, âm mưu chặt đứt cơ sở quan trọng bậc nhất để cuộc đấu tranh chống tham
nhũng thành công, đó là niềm tin, sự ủng hộ và cùng vào cuộc của đông đảo cán
bộ, đảng viên và nhân dân.
Người
xưa có nói: “Giặc ngoài dễ chống, giặc trong khó phòng”. Chống tham nhũng là
công việc khó khăn muôn phần vì đụng chạm tới lợi ích, đến quyền lực, có sự câu
kết, tiếp tay, che đậy hết sức tinh vi, phức tạp. Phải thẳng thắn nhìn nhận, có
những giai đoạn, chúng ta chống tham nhũng chưa như mong muốn, hiệu quả còn
thấp. Nhưng, với quyết tâm chính trị cao, chưa khi nào, công cuộc phòng, chống
tham nhũng ở nước ta được thực hiện ráo riết, quyết liệt như hiện nay. Chống
tham nhũng không có “vùng cấm”, không có đặc quyền, không có ngoại lệ, bất luận
là ai, kể cả những người bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng hay can
thiệp, ngăn cản việc chống tham nhũng. Chúng ta tiến hành chống tham nhũng toàn
diện, gắn liền với tăng cường chỉnh đốn Đảng, đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám
sát, thanh tra, kiểm toán và đã xử lý nhiều cán bộ cao cấp, tổ chức đảng vi
phạm, trong đó có cả các đồng chí là Ủy viên Trung ương Đảng; kỷ luật cả cán bộ
đương chức và đã nghỉ hưu, cả trong lực lượng vũ trang; làm nghiêm từ trên
xuống dưới, từ trong ra ngoài... Lần đầu trong lịch sử tố tụng Việt Nam, một
người từng là Ủy viên Bộ Chính trị đã bị cơ quan tiến hành tố tụng truy tố và
đưa ra xét xử về tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây
hậu quả nghiêm trọng. Đây là việc chưa từng có trước đây. Sau hơn 2 năm thực
hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi
hành kỷ luật 35.000 đảng viên vi phạm, trong đó có gần 1.300 đảng viên bị thi
hành kỷ luật do tham nhũng, cố ý làm trái; số vụ án lớn được đưa ra xử lý, số
cán bộ trung, cao cấp bị xử lý trong 2 năm vừa qua nhiều gấp 3 lần trong 20 năm
trước đó; số tiền thu lại được trong 2 năm qua nhiều gấp 40 lần trong 20 năm
trước đó. Đây là những con số, minh chứng cho thấy Đảng ta “quyết tâm làm đến
cùng”(4) trong cuộc chiến chống tham nhũng, đập tan những luận điệu xuyên tạc
rằng ta làm “nửa vời” hay “vẫn còn vùng cấm”.
Chống
tham nhũng cũng không hề làm thối chí hay rã đám tinh thần như luận điệu xuyên
tạc của các thế lực thù địch. Ngược lại, cuộc đấu tranh chống “giặc nội xâm”
đang được Đảng ta đẩy mạnh, vì lương tâm và trách nhiệm trước vận mệnh dân tộc,
vì lợi ích của nhân dân, vì sự trong sạch và thanh danh của Đảng, đang thực sự
truyền cảm hứng mạnh mẽ và làm nức lòng cán bộ, đảng viên, nhân dân. Khi những
tiêu cực bị đẩy lùi, chính nghĩa và sự thanh liêm được bảo vệ, sẽ thực sự dấy
lên niềm tin và khí thế mới trong cả hệ thống chính trị, chuyển biến thành
những kết quả tích cực trong công tác xây dựng Đảng và những tín hiệu tích cực
của nền kinh tế đất nước. GDP 6 tháng đầu năm 2018 tăng 7,08%, cao nhất từ 7
năm qua... Chống tham nhũng đang thực sự là một động lực mới cho sự phát triển
của đất nước.
Rõ
ràng, cam kết danh dự và quyết tâm chính trị mạnh mẽ của Đảng ta, cùng những
kết quả phòng, chống tham nhũng quan trọng đạt được trong thực tiễn tự nó là
những minh chứng sống động và đầy sức thuyết phục đanh thép bác bỏ những luận
điệu xuyên tạc, ngụy tuyên truyền của các thế lực thù địch về phòng, chống tham
nhũng trên các phương tiện truyền thông xã hội.
------------------------------------------------
(1)
Noam Chomsky: Tham vọng bá quyền, Nxb. Tri thức, Hà Nội,
2006, tr. 35
(2) Nichols - J. & McChesney - R. W., Tragedy & Farce: How the American Media Sell Wars, Spin Election, and Destroy Democracy, the New Press, New York, 2005, p.12
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 672
(4) Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Hội nghị Đại biểu Quốc hội tiếp xúc cử tri Hà Nội trước kỳ họp thứ năm Quốc hội khóa XIV, ngày 13-5-2018
(2) Nichols - J. & McChesney - R. W., Tragedy & Farce: How the American Media Sell Wars, Spin Election, and Destroy Democracy, the New Press, New York, 2005, p.12
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 672
(4) Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Hội nghị Đại biểu Quốc hội tiếp xúc cử tri Hà Nội trước kỳ họp thứ năm Quốc hội khóa XIV, ngày 13-5-2018
http://www.tapchicongsan.org.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét