Chủ Nhật, 26 tháng 5, 2024

Những quan điểm sai trái, chống phá việc công nhận quy chế kinh tế thị trường ở Việt Nam

2-2.jpg -0 Đánh giá thiếu căn cứ, lợi dụng để xuyên tạc chống phá

 Những ngày qua, một số chính khách, học giả Hoa Kỳ thiếu thiện chí đã có đánh giá không đúng về nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. Phát biểu trên các trung tâm truyền thông phương Tây, hạ nghị sĩ Hoa Kỳ Chris Smith phản đối cấp quy chế KTTT đối với Việt Nam. Ông này cho rằng, Việt Nam hiện không đáp ứng được với những tiêu chuẩn căn bản về quyền của người lao động. Nghị sĩ này cũng viện dẫn tiêu chuẩn của tổ chức Lao động quốc tế về công nhận quyền của người lao động, vu cáo “kinh tế của Việt Nam không phải là KTTT, nó bị Đảng Cộng sản Việt Nam bóp méo và nếu Mỹ công nhận KTTT thì sẽ rất lố bịch; Việt Nam có thành tích thất bại và đó là vì sao Mỹ cần đứng về phía người dân hay vì Nhà nước”. Từ đó, ông này kêu gọi chính quyền không cấp quy chế KTTT đối với Việt Nam. Trước sự kiện này, các thế lực thù địch, phản động tập trung tung ra những luận điệu xuyên tạc, sai trái đối với nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.

Các đối tượng này cho rằng Việt Nam đang phụ thuộc nhiều vào đầu tư và nhập khẩu của Trung Quốc và nhiều nước khác, từ đó miệt thị kinh tế Việt Nam “ốm yếu, đứng không vững”! . Bên cạnh đó, họ còn chỉ trích đề nghị Mỹ và các nước không công nhận KTTT ở Việt Nam vì “không thể có nền KTTT định hướng XHCN mà Việt Nam đang thực hiện”!

Các quan điểm, đánh giá về KTTT của Việt Nam nêu trên là những nhận định không có cơ sở khoa học, thực tiễn và không có tính xây dựng. Các chính khách, học giả này vì động cơ nào đó hoặc do không có thông tin đầy đủ, tiếp cận thông tin từ các báo cáo sai lệch của nhiều cá nhân, tổ chức phi chính phủ vốn có cái nhìn phiến diện, chống phá Việt Nam như tổ chức Theo dõi nhân quyền (HRW), Ân xá quốc tế (AI), Freedom House (FH)… mà đánh giá không đúng thực tiễn nền KTTT ở Việt Nam.

Ngay sau sự kiện này, nhiều trung tâm truyền thông phương Tây như BBC, RFA, VOA... đã khai thác, tổ chức nhiều tuyến bài, chương trình dưới dạng hội luận, tập hợp nhiều thành phần là thành viên của các tổ chức phản động, học giả, luật sư chống đối để xuyên tạc về nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam, tung video, bài viết sai trái lên Internet. Với mục đích nhắm vào nền tảng tư tưởng, xuyên tạc sai trái chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước về KTTT, họ vu khống bản chất, xuyên tạc làm méo mó nền kinh tế, hình ảnh, đất nước, con người, thể chế chính trị, nền kinh tế Việt Nam trên trường quốc tế. Từ đó lấy cớ gây sức ép để Mỹ và các nước không công nhận nền KTTT ở Việt Nam, tác động nhằm kìm hãm sự phát triển kinh tế, xã hội đất nước.  

Tại cuộc họp báo thường kỳ chiều 9/5, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Thu Hằng nêu rõ: “Chúng tôi hoan nghênh Bộ Thương mại Mỹ đã tổ chức phiên điều trần ngày 8/5 vừa qua. Đây là một bước quan trọng trong quá trình xem xét hồ sơ công nhận quy chế KTTT của Việt Nam”. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao cho biết, tại phiên điều trần, phía Việt Nam đã nêu rõ các lập luận, thông tin, số liệu khẳng định nền kinh tế Việt Nam hoàn toàn đáp ứng các tiêu chí của quy chế KTTT, đồng thời nhấn mạnh việc nền kinh tế Việt Nam thậm chí còn làm tốt hơn so với nhiều nền kinh tế đã được công nhận quy chế KTTT.

“Việc Mỹ sớm công nhận quy chế KTTT của Việt Nam sẽ góp phần cụ thể hóa cam kết của lãnh đạo cấp cao 2 nước, tăng cường quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Mỹ, qua đó thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại mang lại lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp và người dân hai nước” - Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng nhấn mạnh.

Phản bác luận điệu sai trái, xuyên tạc về di sản Hồ Chí Minh

 Di sản Hồ Chí Minh mang tính phổ quát, bền vững, vượt thời đại và vẹn nguyên tính thời sự. Chính vì thế, các thế lực thù địch luôn xem di dản của Người là một mục tiêu, trọng tâm chống phá. Việc nhận diện bản chất, bóc trần các âm mưu, thủ đoạn, bác bỏ những luận điệu sai trái, xuyên tạc về di sản Hồ Chí Minh, qua đó góp phần giữ vững trận địa tư tưởng, củng cố địa vị chủ đạo hệ tư tưởng của Đảng ta trong đời sống tinh thần xã hội có vai trò quan trọng.

Nhận diện âm mưu, thủ đoạn chống phá

Số tổ chức, cá nhân chống phá thường khoác áo “khách quan khoa học”, đội lốt “phản biện xã hội”, thậm chí họ mượn danh nghĩa “nhà nghiên cứu lý luận” hay núp bóng “nhà dân chủ”, “nhà nhân quyền” để ngụy biện tuyên truyền, đánh tráo học thuật, xảo biện các vấn đề cốt lõi trong di sản Hồ Chí Minh. Họ chống phá di sản Hồ Chí Minh cả về tư tưởng, đạo đức, phong cách, thân thế, sự nghiệp cách mạng của Người. Về tư tưởng, họ coi những luận điểm về chính trị, cách mạng của Người chỉ là bản sao của chủ nghĩa Mác - Lênin, vay mượn, cộng gộp các tư tưởng Nho giáo, Phật giáo, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn. Về đạo đức, số đối tượng xấu coi đạo đức của Người chỉ là “chủ nghĩa khổ hạnh” không thể học tập, làm theo. Về phong cách, họ phớt lờ tác phong, lề lối, phương pháp cách mạng, khoa học của Hồ Chí Minh.                       

Về thân thế, các đối tượng xấu bịa đặt, tung tin sai lệch, thất thiệt, bôi nhọ đời tư của Người.

Họ ra sức phủ nhận sự tồn tại của tư tưởng Hồ Chí Minh, cho rằng Hồ Chí Minh chỉ là nhà hoạt động thực tiễn chứ không phải nhà tư tưởng để hạ thấp di sản của Người. Một số đối tượng chống phá lại giả vờ “tôn vinh”, “tuyệt đối hóa” di sản văn hóa Hồ Chí Minh bằng cách so sánh, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin và cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, lạc hậu, hiện chỉ có tư tưởng Hồ Chí Minh là có giá trị. Từ đó, đòi tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực chất đây chính là thủ đoạn vờ “đề cao” bên này để “hạ bệ” bên kia nhằm đả kích, chống phá bởi chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận chủ đạo làm nên bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Bên cạnh đó, các thế lực thù địch còn cố tình cắt xén những câu nói, phát biểu, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh ra khỏi bối cảnh lịch sử để làm sai lệch tư tưởng của Người. Họ đối lập giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các phần tử chống phá cũng phủ nhận sự cần thiết, tính hiệu quả của việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Ngoài ra, họ còn đưa ra yêu sách vô lý, trắng trợn đòi từ bỏ việc bảo tồn di tích, bảo tàng có liên quan đến Người.

Các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội chính trị triệt để lợi dụng các tính năng ưu việt của Internet, mạng xã hội với tốc độ chia sẻ nhanh, độ tương tác rộng hay sử dụng hệ thống phát thanh, báo chí, xuất bản ở nước ngoài biến thành công cụ đắc lực phục vụ cho mưu đồ chống phá. Tính chất nguy hiểm của những phương thức, thủ đoạn chống phá ở chỗ: các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị sử dụng chiêu bài “thao túng tâm lý”; tạo dựng nhận thức sai lệch, mơ hồ, hoài nghi về lãnh tụ của cách mạng Việt Nam hòng gây hoang mang, dao động, làm lung lay niềm tin, giảm sút tình cảm của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh; tìm cách triệt tiêu động lực, khí thế, quyết tâm của hệ thống chính trị, toàn xã hội trong đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Từ khi Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cũng là lúc các thế lực thù địch tập trung chống phá di sản văn hóa Hồ Chí Minh quyết liệt. Thấy rõ di sản văn hóa Hồ Chí Minh là linh hồn, là tài sản vô giá của Đảng, của dân tộc và nhân dân Việt Nam nên các các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị muốn phá hủy tận gốc rễ nền tảng tư tưởng của Đảng, xóa bỏ biểu tượng Hồ Chí Minh trong trái tim, khối óc của nhân dân Việt Nam. Nhưng dù có dùng mọi chiêu trò chống phá vẫn không thể phủ nhận giá trị to lớn, sức sống trường tồn của di sản Hồ Chí Minh.

Thế giới đổi thay nhưng di sản Hồ Chí Minh sống mãi

Thực tế thắng lợi của công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây, sự nghiệp đổi mới hiện nay là minh chứng sống động, rõ nét cho thấy những đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh cả về mặt thực tiễn và tư tưởng lý luận. Cuộc đời Hồ Chí Minh đã cống hiến hết mình cho dân tộc, như Người từng chia sẻ: “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào... Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Trước lúc đi xa, trong bản Di chúc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho đời sau, Người đã tâm sự: “Suốt đời tôi hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.

Trong suốt cuộc đời tận hiến cho cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chắt lọc những gì tốt đẹp nhất trong truyền thống văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại và cũng chính Người đã nâng tầm văn hóa dân tộc, đóng góp quan trọng vào dòng chảy lịch sử văn hóa thế giới. Điều này đã được Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: “Tiếp nhận những tinh hoa văn hóa của nhân loại, ngăn chặn mặt tiêu cực thâm nhập, đồng thời phát huy được những giá trị xã hội và truyền thống tốt đẹp mang bản sắc dân tộc mình, đó là bản lĩnh, ý thức tự chủ, cốt cách và tinh thần độc lập của dân tộc Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển một cách sâu sắc”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, là nhà văn hóa kiệt xuất bởi vai trò thúc đẩy của Người đối với sự phát triển của lịch sử, văn hóa dân tộc Việt Nam và đóng góp vào tiến trình lịch sử, văn hóa nhân loại. Người đã làm thay đổi vận mệnh dân tộc Việt Nam, từ thân phận nô lệ trở thành dân tộc tự do, độc lập. Đồng thời, Hồ Chí Minh còn truyền cảm hứng mạnh mẽ đối với nhân dân các dân tộc thuộc địa xóa đi sự nô dịch của chủ nghĩa thực dân trên thế giới. Người đã dẫn dắt dân tộc ta thực hiện mục tiêu hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh cho đất nước của mình, đồng thời cũng góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội. Do vậy, di sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ có giá trị đối với dân tộc Việt Nam mà còn có ý nghĩa đối với các dân tộc bị áp bức, bóc lột trên toàn thế giới.

Không phải đến bây giờ mà cách cách đây hơn 100 năm, nhà báo người Nga Osip Emilyevich Mandelstam đã viết bài mang tên “Thăm một chiến sĩ quốc tế cộng sản - Nguyễn Ái Quốc” đã đăng trên báo Ogoniok (Ngọn lửa nhỏ) của Liên Xô xuất bản ngày 23/12/1923. Bài báo có đoạn: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai”. Tuy hơn một thế kỷ đã trôi qua nhưng nhận định sâu sắc này của O. Mandelstam vẫn vẹn nguyên giá trị, dự báo “Hồ Chí Minh là nền văn hóa tương lai” xuất phát từ việc nhà báo người Nga đã cảm nhận được trong tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã kết hợp nhuần nhuyễn cả tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây, cả giá trị truyền thống và giá trị tiến bộ của văn minh nhân loại thời hiện đại.

Trong quá trình tiếp xúc cũng như nghiên cứu về Hồ Chí Minh, rất nhiều chính khách, học giả quốc tế bày tỏ sự khâm phục, ngưỡng mộ trước tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người. Trong đó, Chủ tịch Phiđen Caxtơrô - lãnh tụ đất nước Cuba viết: “Vinh quang đời đời thuộc về Chủ tịch Hồ Chí Minh - tấm gương lớn nhất của người cách mạng vĩ đại ngày càng được khâm phục, ngưỡng mộ và luôn luôn được mến yêu không chỉ bởi nhân dân Việt Nam mà còn bởi tất cả các dân tộc khác trên thế giới”.

Ông Miyamôtô Kêngi, nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Nhật Bản đã nhận định: “Đồng chí Hồ Chí Minh không những là lãnh tụ lỗi lạc của nhân dân Việt Nam mà còn là một chiến sĩ lỗi lạc, một nhà hoạt động tài năng của phong trào cộng sản quốc tế”.

Tiến sĩ M. Atmét, nguyên Giám đốc UNESCO khu vực châu Á - Thái Bình Dương đã khẳng định: “Chỉ có ít nhân vật trong lịch sử trở thành một bộ phận của huyền thoại ngay khi còn sống và rõ ràng Hồ Chí Minh là một trong số đó”. Những nhận xét trên hết sức khách quan, công tâm, dựa trên những đóng góp thực tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà còn đối với nhân loại.

HRW lại “tung hoả mù” về quyền của người lao động tại Việt Nam

 bao-hiem.jpg -0Thông cáo của HRW đưa ra khi Bộ Thương mại Hoa Kỳ vừa có phiên điều trần công khai về hiện trạng thương mại với Việt Nam vào ngày 8/5. Thông cáo này lộ rõ ý đồ "tung hoả mù", tác động xấu tới dư luận khi Bộ Thương mại Hoa Kỳ thực hiện phiên điều trần nói trên. Vì thế, trong thông cáo của HRW đã đưa ra những nhận định sai trái, thể hiện cách nhìn tiêu cực, xa rời thực tế. Ông John Sifton, Giám đốc vận động Ban Á Châu của HRW đã có những phát biểu rất lố bịch như: "Nói rằng người lao động Việt Nam có thể thành lập công đoàn hay mức lương của họ là kết quả của sự thỏa thuận tự nguyện giữa người lao động và người sử dụng lao động là lời tuyên bố sai lạc trắng trợn"; "Ở Việt Nam không hề tồn tại bất kỳ một công đoàn độc lập nào hay các khung pháp lý khả thi cho việc thành lập công đoàn hoặc cho người lao động có thể đòi thi hành các quyền của mình". 

Một số người dân tộc thiểu số nhẹ dạ, cả tin đã nghe theo lời lừa phỉnh, xúi giục của bọn phản động FULRO lưu vong, tham gia sinh hoạt cái gọi là "Tin lành Degar".

 tro ve 1.jpg -0Được cấp ủy, chính quyền, lực lượng Công an tỉnh Gia Lai, hệ thống chính trị cơ sở khuyên giải, thức tỉnh, những người lầm lỡ đã nhận thức được bản chất của bọn phản động FULRO, thấy được việc làm sai trái, xóa bỏ mặc cảm, tự ti, quay trở về sinh hoạt tôn giáo chính thống được pháp luật công nhận, được chính quyền tạo điều kiện để họ ổn định cuộc sống và lao động chân chính ngay trên mảnh đất quê hương.

Người uy tín đặc biệt

Nghe lời FULRO lưu vong về giấc mộng hão huyền thành lập "Nhà nước Degar tự trị", anh Kpă Bih (47 tuổi, trú làng Pang, xã Ia Glai, huyện Chư Sê) tỉnh Gia Lai từng thi hành án phạt tù 14 năm về tội phá hoại chính sách đoàn kết dân tộc. Anh hối tiếc khi nhớ lại quá khứ lầm lỗi của mình: "Suốt thời gian ở tù và ngay cả khi trở về, bọn chúng chưa một lần hỏi thăm tôi. Sau hơn chục năm trời, tôi không có gì trong tay, vợ và các con phải tự bươn chải kiếm sống".

An Giang: Triển khai thực hiện nghiêm túc công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

 

An Giang: Triển khai thực hiện nghiêm túc công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

5 năm qua, Đảng ủy Quân sự tỉnh An Giang và Ban Chỉ đạo 35 Đảng ủy Quân sự tỉnh đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy trong Đảng bộ và lực lượng vũ trang tỉnh quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc các văn bản của Ban Chỉ đạo 35 các cấp về công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm, sai trái, thù địch trong tình hình mới và Đề án của Bộ Quốc phòng “Quân đội tham gia phòng, chống diễn biến hòa bình trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa trong tình hình mới''.

Quá trình triển khai thực hiện luôn gắn với quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết các cấp về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, Kết luận số 21 của Ban chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 847 của Quân ủy Trung ương, Kết luận số 01 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Sự thật cái gọi là "Việt Nam vi phạm nhân quyền"

 Đánh tráo khái niệm, xuyên tạc thực tế

Cuối tháng 4 vừa qua, Bộ Ngoại giao Mỹ đã công bố Báo cáo nhân quyền năm 2023, trong đó tiếp tục đưa ra những thông tin sai lệch, thiếu khách quan về tình hình nhân quyền ở Việt Nam khi cho rằng “Việt Nam vi phạm nhân quyền”, “chính quyền Việt Nam vẫn không có tiến bộ về nhân quyền”... Để minh chứng cho nhận định phiến diện đó, cũng giống những năm trước, báo cáo nhấn mạnh rằng Việt Nam đã bắt, giam giữ những người vì hoạt động chính trị hoặc nhân quyền, vi phạm quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp và lập hội... Họ thống kê, tính đến ngày 31-10-2023, Việt Nam đã bắt giữ 25 cá nhân và kết án 23 người đang thực hiện các quyền con người được quốc tế công nhận như quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp ôn hòa và lập hội. Điều đáng nói là những “tù nhân chính trị”, “nhà hoạt động chính trị”, “nhà bảo vệ nhân quyền” được liệt kê trong báo cáo, như Bùi Tuấn Lâm, Ngụy Thị Khanh, Lê Anh Hùng, Phan Tất Thành, Châu Văn Khảm... đều là những đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật, phạm các tội danh theo quy định của Bộ luật Hình sự nên bị bắt giữ, điều tra; một số đối tượng đưa ra xét xử và tuyên phạt với những bản án hoàn toàn đúng người, đúng tội.

Ở đây, khái niệm “tù nhân chính trị” đã bị đánh tráo nhằm đánh lừa dư luận, hòng bảo vệ cho những đối tượng lợi dụng dân chủ, mượn danh nhân quyền để vi phạm pháp luật, gây mất ổn định xã hội. Bởi lẽ, lâu nay, khái niệm “tù nhân chính trị” thường được dùng để chỉ những chiến sĩ cách mạng dũng cảm đấu tranh vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân nhưng phải chịu cảnh tù đày do bị thực dân, đế quốc bắt giam. Trong cách mạng giải phóng dân tộc, nhiều tù nhân chính trị đã trở thành biểu tượng cho tinh thần anh dũng, sẵn sàng hy sinh tính mạng để bảo vệ Tổ quốc. Do đó, những đối tượng được nêu tên trong báo cáo nhân quyền nêu trên hoàn toàn không xứng đáng và không thể là “tù nhân chính trị” theo đúng nghĩa. Thực tế ở Việt Nam hiện nay không có ai là “tù nhân chính trị” như mô tả của Báo cáo nhân quyền năm 2023. Vì thế, mục đích việc đánh tráo khái niệm chính là nhằm bóp méo tình hình nhân quyền ở Việt Nam; tôn vinh, cổ xúy cho những đối tượng lợi dụng dân chủ, nhân quyền để vi phạm pháp luật.

Bên cạnh đó, Báo cáo nhân quyền năm 2023 còn xuyên tạc thực tế khi đưa ra đánh giá “Việt Nam hạn chế nghiêm trọng tự do internet” với minh chứng là cơ quan chức năng xử lý các trang Facebook cá nhân của một vài đối tượng hoạt động chống phá Nhà nước trên mạng xã hội.

Song, điều nực cười là báo cáo trên đã phớt lờ sự thật, rằng internet ở Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Internet có mặt ở mọi nơi, từ thành thị tới nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Số liệu của Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết, tính đến đầu năm 2023, nước ta có 77,93 triệu người dùng internet, chiếm 79,1% dân số; có 70 triệu người dùng mạng xã hội, tương đương 71% dân số. Tổng số kết nối di động đang hoạt động là 161,6 triệu (164,0% tổng dân số). Nhờ đó, sau gần 30 năm kết nối internet, Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng internet cao thứ 12 trên thế giới, đứng thứ 6 trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á. Trung bình người Việt Nam dành gần 7 giờ/ngày để sử dụng internet. Tỷ lệ người dùng sử dụng internet hằng ngày lên tới 94%.

Rõ ràng, internet ở Việt Nam đã “bùng nổ” mạnh mẽ, hoàn toàn không có việc “Việt Nam hạn chế nghiêm trọng tự do internet” như nội dung nêu trong Báo cáo nhân quyền năm 2023. Không thể đồng nhất việc xử lý các đối tượng lợi dụng internet, lợi dụng mạng xã hội để tán phát những thông tin sai trái, chống phá Nhà nước, xâm hại lợi ích của tổ chức, cá nhân, với cái gọi là “hạn chế nghiêm trọng tự do internet”. Bởi việc xử lý các đối tượng dùng internet vi phạm pháp luật là biện pháp đã và đang được tất cả quốc gia áp dụng nhằm lành mạnh hóa môi trường internet, bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng xã hội.

Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, khi trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị bình luận về Báo cáo nhân quyền năm 2023 của Bộ Ngoại giao Mỹ, trong đó có một số nội dung về Việt Nam vừa được công bố hôm 22-4 vừa qua, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nêu rõ: “Báo cáo nhân quyền thường niên của Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 22-4-2024 mặc dù đã phản ánh các thành tựu và bước tiến của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền con người, nhưng rất tiếc vẫn tiếp tục đưa ra một số nhận định không khách quan dựa trên những thông tin không chính xác về tình hình thực tế ở Việt Nam”.

Không thể phủ nhận nỗ lực bảo đảm quyền con người ở Việt Nam

Thực tế, các quyền con người cơ bản đã được ghi nhận trong Hiến pháp của Việt Nam; được bảo vệ, bảo đảm bởi hệ thống văn bản pháp luật cụ thể và được triển khai hiệu quả trên thực tiễn. Theo đó, nhiều năm gần đây, Việt Nam đã có những nỗ lực rất lớn nhằm bảo đảm quyền con người, nhất là hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người theo các công ước quốc tế về quyền con người, trong đó Việt Nam là thành viên. Từ năm 2019 đến nay, Quốc hội nước ta đã thông qua 44 luật, trong đó nhiều văn bản luật quan trọng liên quan đến quyền con người, quyền công dân. Việt Nam cũng đã và đang rà soát để sửa đổi, bổ sung một số luật phù hợp với các cam kết quốc tế; đồng thời, rà soát, gia nhập các công ước quốc tế về quyền con người cũng như triển khai các điều ước một cách nghiêm túc. Tính đến nay, Việt Nam đã tham gia 7/9 điều ước quốc tế cơ bản về quyền con người, 25 công ước quốc tế về quyền lao động của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO); đàm phán và chính thức tham gia Thỏa thuận toàn cầu về di cư hợp pháp, an toàn và trật tự (GCM).

Mặt khác, như Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã nhấn mạnh: “Nhân quyền lớn nhất ở Việt Nam là lo cho 100 triệu dân ấm no và hạnh phúc, dân chủ, cuộc sống bình yên, an ninh, an toàn, an dân, phát huy tối đa yếu tố con người”. Đến nay, sau gần 40 năm đổi mới, Đảng, Nhà nước ta đã luôn luôn nhất quán chính sách “tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền, quyền và nghĩa vụ của công dân”. Mọi quyết sách đều xuất phát từ con người; mọi thành quả phát triển đều hướng vào bảo đảm tốt nhất quyền con người. Chỉ tính từ năm 2019 đến nay, GDP bình quân ở Việt Nam đã tăng 25%, tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,5%/năm. Mạng lưới y tế dự phòng được tổ chức rộng khắp trên toàn quốc, gắn chặt với y tế cơ sở, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đã tăng từ hơn 81% năm 2016 lên mức 93,35% vào năm 2023; 85% người khuyết tật có hoàn cảnh khó khăn được trợ giúp xã hội, chăm sóc và phục hồi chức năng...

Đặc biệt, năm 2023, kinh tế Việt Nam đạt tăng trưởng trên 5%, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống 3%. Hằng năm, Việt Nam dành trung bình khoảng 3% GDP cho bảo đảm an sinh xã hội. Chỉ trong vòng hơn một thập kỷ gần đây, Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đã tăng gần 50%, thuộc nhóm quốc gia có tỷ lệ tăng cao nhất thế giới.

Những con số khái lược nêu trên đã chứng minh rõ quyết tâm và nỗ lực bảo đảm quyền con người ở Việt Nam. Những thành tựu không thể phủ nhận đó đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Điển hình cho sự ghi nhận ấy là việc ngày 11-10-2022, Việt Nam lần thứ hai trúng cử vào Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025 (lần đầu là nhiệm kỳ 2014-2016). Đây là sự công nhận vị thế của Việt Nam, thể hiện sự tín nhiệm, tin tưởng của cộng đồng quốc tế đối với vai trò và đóng góp của Việt Nam trong lĩnh vực quyền con người.

Phòng, chống "diễn biến hòa bình": Chuyện tưởng là nhỏ...

 

Phòng, chống "diễn biến hòa bình": Chuyện tưởng là nhỏ...

Sau khi nhờ Thủy Tiên chọn cho mình một bài hát, Phi say sưa thể hiện như đang đứng trên sân khấu thực thụ. Đợi Phi hát xong, ông Tiến là bố của Thủy Tiên lại gần, nói:

- Cháu có chất giọng tốt đấy! Bây giờ, hai bác cháu ra ngoài bàn đá uống nước, trò chuyện một lát nhé!

Phòng, chống "diễn biến hòa bình": Chuyện tưởng là nhỏ...

 

Phòng, chống "diễn biến hòa bình": Chuyện tưởng là nhỏ...

Sau khi nhờ Thủy Tiên chọn cho mình một bài hát, Phi say sưa thể hiện như đang đứng trên sân khấu thực thụ. Đợi Phi hát xong, ông Tiến là bố của Thủy Tiên lại gần, nói:

- Cháu có chất giọng tốt đấy! Bây giờ, hai bác cháu ra ngoài bàn đá uống nước, trò chuyện một lát nhé!

Sự thật cái gọi là "Việt Nam vi phạm nhân quyền"

 Đánh tráo khái niệm, xuyên tạc thực tế

Cuối tháng 4 vừa qua, Bộ Ngoại giao Mỹ đã công bố Báo cáo nhân quyền năm 2023, trong đó tiếp tục đưa ra những thông tin sai lệch, thiếu khách quan về tình hình nhân quyền ở Việt Nam khi cho rằng “Việt Nam vi phạm nhân quyền”, “chính quyền Việt Nam vẫn không có tiến bộ về nhân quyền”... Để minh chứng cho nhận định phiến diện đó, cũng giống những năm trước, báo cáo nhấn mạnh rằng Việt Nam đã bắt, giam giữ những người vì hoạt động chính trị hoặc nhân quyền, vi phạm quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp và lập hội... Họ thống kê, tính đến ngày 31-10-2023, Việt Nam đã bắt giữ 25 cá nhân và kết án 23 người đang thực hiện các quyền con người được quốc tế công nhận như quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp ôn hòa và lập hội. Điều đáng nói là những “tù nhân chính trị”, “nhà hoạt động chính trị”, “nhà bảo vệ nhân quyền” được liệt kê trong báo cáo, như Bùi Tuấn Lâm, Ngụy Thị Khanh, Lê Anh Hùng, Phan Tất Thành, Châu Văn Khảm... đều là những đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật, phạm các tội danh theo quy định của Bộ luật Hình sự nên bị bắt giữ, điều tra; một số đối tượng đưa ra xét xử và tuyên phạt với những bản án hoàn toàn đúng người, đúng tội.

Ở đây, khái niệm “tù nhân chính trị” đã bị đánh tráo nhằm đánh lừa dư luận, hòng bảo vệ cho những đối tượng lợi dụng dân chủ, mượn danh nhân quyền để vi phạm pháp luật, gây mất ổn định xã hội. Bởi lẽ, lâu nay, khái niệm “tù nhân chính trị” thường được dùng để chỉ những chiến sĩ cách mạng dũng cảm đấu tranh vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân nhưng phải chịu cảnh tù đày do bị thực dân, đế quốc bắt giam. Trong cách mạng giải phóng dân tộc, nhiều tù nhân chính trị đã trở thành biểu tượng cho tinh thần anh dũng, sẵn sàng hy sinh tính mạng để bảo vệ Tổ quốc. Do đó, những đối tượng được nêu tên trong báo cáo nhân quyền nêu trên hoàn toàn không xứng đáng và không thể là “tù nhân chính trị” theo đúng nghĩa. Thực tế ở Việt Nam hiện nay không có ai là “tù nhân chính trị” như mô tả của Báo cáo nhân quyền năm 2023. Vì thế, mục đích việc đánh tráo khái niệm chính là nhằm bóp méo tình hình nhân quyền ở Việt Nam; tôn vinh, cổ xúy cho những đối tượng lợi dụng dân chủ, nhân quyền để vi phạm pháp luật.

Bên cạnh đó, Báo cáo nhân quyền năm 2023 còn xuyên tạc thực tế khi đưa ra đánh giá “Việt Nam hạn chế nghiêm trọng tự do internet” với minh chứng là cơ quan chức năng xử lý các trang Facebook cá nhân của một vài đối tượng hoạt động chống phá Nhà nước trên mạng xã hội.

Song, điều nực cười là báo cáo trên đã phớt lờ sự thật, rằng internet ở Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Internet có mặt ở mọi nơi, từ thành thị tới nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Số liệu của Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết, tính đến đầu năm 2023, nước ta có 77,93 triệu người dùng internet, chiếm 79,1% dân số; có 70 triệu người dùng mạng xã hội, tương đương 71% dân số. Tổng số kết nối di động đang hoạt động là 161,6 triệu (164,0% tổng dân số). Nhờ đó, sau gần 30 năm kết nối internet, Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng internet cao thứ 12 trên thế giới, đứng thứ 6 trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á. Trung bình người Việt Nam dành gần 7 giờ/ngày để sử dụng internet. Tỷ lệ người dùng sử dụng internet hằng ngày lên tới 94%.

Rõ ràng, internet ở Việt Nam đã “bùng nổ” mạnh mẽ, hoàn toàn không có việc “Việt Nam hạn chế nghiêm trọng tự do internet” như nội dung nêu trong Báo cáo nhân quyền năm 2023. Không thể đồng nhất việc xử lý các đối tượng lợi dụng internet, lợi dụng mạng xã hội để tán phát những thông tin sai trái, chống phá Nhà nước, xâm hại lợi ích của tổ chức, cá nhân, với cái gọi là “hạn chế nghiêm trọng tự do internet”. Bởi việc xử lý các đối tượng dùng internet vi phạm pháp luật là biện pháp đã và đang được tất cả quốc gia áp dụng nhằm lành mạnh hóa môi trường internet, bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng xã hội.

Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, khi trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị bình luận về Báo cáo nhân quyền năm 2023 của Bộ Ngoại giao Mỹ, trong đó có một số nội dung về Việt Nam vừa được công bố hôm 22-4 vừa qua, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nêu rõ: “Báo cáo nhân quyền thường niên của Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 22-4-2024 mặc dù đã phản ánh các thành tựu và bước tiến của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền con người, nhưng rất tiếc vẫn tiếp tục đưa ra một số nhận định không khách quan dựa trên những thông tin không chính xác về tình hình thực tế ở Việt Nam”.

Không thể phủ nhận nỗ lực bảo đảm quyền con người ở Việt Nam

Thực tế, các quyền con người cơ bản đã được ghi nhận trong Hiến pháp của Việt Nam; được bảo vệ, bảo đảm bởi hệ thống văn bản pháp luật cụ thể và được triển khai hiệu quả trên thực tiễn. Theo đó, nhiều năm gần đây, Việt Nam đã có những nỗ lực rất lớn nhằm bảo đảm quyền con người, nhất là hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người theo các công ước quốc tế về quyền con người, trong đó Việt Nam là thành viên. Từ năm 2019 đến nay, Quốc hội nước ta đã thông qua 44 luật, trong đó nhiều văn bản luật quan trọng liên quan đến quyền con người, quyền công dân. Việt Nam cũng đã và đang rà soát để sửa đổi, bổ sung một số luật phù hợp với các cam kết quốc tế; đồng thời, rà soát, gia nhập các công ước quốc tế về quyền con người cũng như triển khai các điều ước một cách nghiêm túc. Tính đến nay, Việt Nam đã tham gia 7/9 điều ước quốc tế cơ bản về quyền con người, 25 công ước quốc tế về quyền lao động của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO); đàm phán và chính thức tham gia Thỏa thuận toàn cầu về di cư hợp pháp, an toàn và trật tự (GCM).

Mặt khác, như Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã nhấn mạnh: “Nhân quyền lớn nhất ở Việt Nam là lo cho 100 triệu dân ấm no và hạnh phúc, dân chủ, cuộc sống bình yên, an ninh, an toàn, an dân, phát huy tối đa yếu tố con người”. Đến nay, sau gần 40 năm đổi mới, Đảng, Nhà nước ta đã luôn luôn nhất quán chính sách “tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền, quyền và nghĩa vụ của công dân”. Mọi quyết sách đều xuất phát từ con người; mọi thành quả phát triển đều hướng vào bảo đảm tốt nhất quyền con người. Chỉ tính từ năm 2019 đến nay, GDP bình quân ở Việt Nam đã tăng 25%, tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,5%/năm. Mạng lưới y tế dự phòng được tổ chức rộng khắp trên toàn quốc, gắn chặt với y tế cơ sở, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đã tăng từ hơn 81% năm 2016 lên mức 93,35% vào năm 2023; 85% người khuyết tật có hoàn cảnh khó khăn được trợ giúp xã hội, chăm sóc và phục hồi chức năng...

Đặc biệt, năm 2023, kinh tế Việt Nam đạt tăng trưởng trên 5%, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống 3%. Hằng năm, Việt Nam dành trung bình khoảng 3% GDP cho bảo đảm an sinh xã hội. Chỉ trong vòng hơn một thập kỷ gần đây, Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đã tăng gần 50%, thuộc nhóm quốc gia có tỷ lệ tăng cao nhất thế giới.

Những con số khái lược nêu trên đã chứng minh rõ quyết tâm và nỗ lực bảo đảm quyền con người ở Việt Nam. Những thành tựu không thể phủ nhận đó đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Điển hình cho sự ghi nhận ấy là việc ngày 11-10-2022, Việt Nam lần thứ hai trúng cử vào Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025 (lần đầu là nhiệm kỳ 2014-2016). Đây là sự công nhận vị thế của Việt Nam, thể hiện sự tín nhiệm, tin tưởng của cộng đồng quốc tế đối với vai trò và đóng góp của Việt Nam trong lĩnh vực quyền con người.

VẠCH TRẦN LUẬN ĐIỆU KÍCH ĐỘNG, CHIA RẼ CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI VỚI TỔ QUỐC

 

Vừa qua trên trang “Radiodlsn”, có bài “Nói với Người CS: Đặc tính đa dạng của Cộng đồng VN Hải Ngoại” của Hoàn Ân và Tiến Văn. Trong đó đưa ra những luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ chính sách của Đảng, Nhà nước ta đối với người Việt Nam ở nước ngoài; kích động chống phá, gây chia rẽ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài với Tổ quốc. Xuất phát từ tư tưởng thù địch lòng hận thù mà xuyên tạc bản chất, ý nghĩa các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về đại đoàn kết toàn dân tộc, xác định cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời và là nguồn lực quan trọng của cộng đồng dân tộc Việt Nam, luôn là chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta.

Thứ nhất, với truyền thống yêu nước, hướng về Tổ quốc, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài luôn là một nguồn lực quan trọng, có nhiều đóng góp cho tiến trình xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước ta trong suốt chiều dài lịch sử. Hiện nay, với khoảng 6 triệu người sinh sống tại hơn 130 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó 80% ở các nước phát triển, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng lớn mạnh, khẳng định được vai trò, vị thế, uy tín, không những đóng góp tích cực vào phát triển của nước sở tại mà còn góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa Việt Nam với các nước cũng như công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

TỰ DO NGÔN LUẬN PHẢI THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT LÀ HOÀN TOÀN ĐÚNG ĐẮN

 

Gần đây, trên mạng “Vietnamthoibao” phát tán bài viết của Hoài Nguyễn với tựa đề: “Tự do ngôn luận ở Việt Nam”. Bài viết cho rằng Việt Nam “đã đặt ra các rào cản kỹ thuật trong việc thực hiện quyền tự do ngôn luận” – Đây là luận điệu hoàn toàn sai trái, sự cố tình xuyên tạc, bóp méo về quyền tự do ngôn luận tại Việt Nam, bởi lẽ:

Thứ nhất, quyền tự do ngôn luận không phải là quyền tự do tuyệt đối.

Quyền tự do ngôn luận là một trong những quyền cơ bản của con người được ghi nhận trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến” (Điều 19) và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận” (Điều 19).

CẢNH GIÁC TRƯỚC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC, CHỐNG PHÁ VỀ XÂY DỰNG Ý THỨC XÃ HỘI MỚI Ở VIỆT NAM

 

Ý thức xã hội là một bộ phận quan trọng trong đời sống tinh thần của cộng đồng dân tộc. Tuy nhiên, mượn cớ “quan tâm”, “phản biện” nhiều kẻ cơ hội, thù địch đưa ra những luận điệu sai trái, xuyên tạc, nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và lợi ích của nhân dân ta. Chúng thường xuyên tung những bài viết xuyên tạc về chủ trương, chính sách của Đảng, đơn cử như bài viết “Đảng Cộng sản Việt Nam có ý thức xã hội gì ?” của đối tượng Phạm Trần đăng tại trên trang thongluan-rdp.org. Bài viết đã xuyên tạc, phủ nhận tính đúng đắn, khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội của dân tộc ta. Chẳng hạn như: “chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh không thể cấu thành “ý thức xã hội mới” cho Việt Nam, chúng là xiềng xích kéo dân tộc và đất nước xuống tận đáy của tụt hậu và thua kém”… Phải khẳng định rằng, những kẻ ở bên kia bán cầu không ngừng tung ra những bài viết xuyên tạc về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ở Việt Nam lại không có kiến thức cơ bản về chính trị, xã hội, đặc biệt là những kiến thức cơ bản về học thuyết Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Với nhiều cách thức, các thế lực thù địch phủ nhận tính đúng đắn của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Chúng cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là lỗi thời, lạc hậu, chỉ phù hợp với thế kỷ XIX, XX;  bảo thủ duy trì con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là trái với quy luật, không phù hợp với thời đại mới. Những luận điệu xuyên tạc đó cho thấy tính chất nguy hiểm trong âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Để hiểu rõ về bản chất của “ý thức xã hội” và “ý thức xã hội mới” ở Việt Nam, chúng ta cần nắm vững những vấn đề cốt lõi của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó, đấu tranh, phản bác lại những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch.

Thứ Hai, 20 tháng 5, 2024

Sự thật cái gọi là "Việt Nam vi phạm nhân quyền"

 Đánh tráo khái niệm, xuyên tạc thực tế

Cuối tháng 4 vừa qua, Bộ Ngoại giao Mỹ đã công bố Báo cáo nhân quyền năm 2023, trong đó tiếp tục đưa ra những thông tin sai lệch, thiếu khách quan về tình hình nhân quyền ở Việt Nam khi cho rằng “Việt Nam vi phạm nhân quyền”, “chính quyền Việt Nam vẫn không có tiến bộ về nhân quyền”... Để minh chứng cho nhận định phiến diện đó, cũng giống những năm trước, báo cáo nhấn mạnh rằng Việt Nam đã bắt, giam giữ những người vì hoạt động chính trị hoặc nhân quyền, vi phạm quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp và lập hội... Họ thống kê, tính đến ngày 31-10-2023, Việt Nam đã bắt giữ 25 cá nhân và kết án 23 người đang thực hiện các quyền con người được quốc tế công nhận như quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp ôn hòa và lập hội. Điều đáng nói là những “tù nhân chính trị”, “nhà hoạt động chính trị”, “nhà bảo vệ nhân quyền” được liệt kê trong báo cáo, như Bùi Tuấn Lâm, Ngụy Thị Khanh, Lê Anh Hùng, Phan Tất Thành, Châu Văn Khảm... đều là những đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật, phạm các tội danh theo quy định của Bộ luật Hình sự nên bị bắt giữ, điều tra; một số đối tượng đưa ra xét xử và tuyên phạt với những bản án hoàn toàn đúng người, đúng tội.

Ở đây, khái niệm “tù nhân chính trị” đã bị đánh tráo nhằm đánh lừa dư luận, hòng bảo vệ cho những đối tượng lợi dụng dân chủ, mượn danh nhân quyền để vi phạm pháp luật, gây mất ổn định xã hội. Bởi lẽ, lâu nay, khái niệm “tù nhân chính trị” thường được dùng để chỉ những chiến sĩ cách mạng dũng cảm đấu tranh vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân nhưng phải chịu cảnh tù đày do bị thực dân, đế quốc bắt giam. Trong cách mạng giải phóng dân tộc, nhiều tù nhân chính trị đã trở thành biểu tượng cho tinh thần anh dũng, sẵn sàng hy sinh tính mạng để bảo vệ Tổ quốc. Do đó, những đối tượng được nêu tên trong báo cáo nhân quyền nêu trên hoàn toàn không xứng đáng và không thể là “tù nhân chính trị” theo đúng nghĩa. Thực tế ở Việt Nam hiện nay không có ai là “tù nhân chính trị” như mô tả của Báo cáo nhân quyền năm 2023. Vì thế, mục đích việc đánh tráo khái niệm chính là nhằm bóp méo tình hình nhân quyền ở Việt Nam; tôn vinh, cổ xúy cho những đối tượng lợi dụng dân chủ, nhân quyền để vi phạm pháp luật.

Bóc mẽ thủ đoạn xuyên tạc tên tuổi Hồ Chí Minh

 

Bóc mẽ thủ đoạn xuyên tạc tên tuổi Hồ Chí Minh

Họ cho rằng sở dĩ chế độ cộng sản ở Việt Nam còn tồn tại là nhờ núp vào cái bóng thần tượng Hồ Chí Minh, nên phải xóa bỏ bằng được thần tượng ấy. Vì vậy, bóc mẽ thủ đoạn xuyên tạc của các thế lực chống phá tư tưởng Hồ Chí Minh bằng những lý lẽ khoa học, căn cứ thực tiễn là việc làm rất cần thiết hiện nay.

1. Một trong những thủ đoạn nham hiểm ấy là thời gian gần đây, một số đối tượng xuyên tạc rất trắng trợn: “Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc”. Nghệ thuật viết tuồng truyền thống thường dựa vào tích cũ để soạn những bổn mới, mang chủ đề, ý nghĩa mới. Cách này đang được một số đối tượng sử dụng, nhưng là lấy tích cũ thật/giả để biến thành bổn mới giả, có cả “bổn cũ soạn lại”.

Theo lịch sử ghi lại, từ ngày 6-6-1931 đến ngày 22-1-1933, Tống Văn Sơ (tức Nguyễn Ái Quốc) bị bắt giam ở Hồng Công và được luật sư Francis Henry Loseby bào chữa trắng án. Thực dân Pháp rất muốn được phía Anh trục xuất về Đông Dương để bắt Nguyễn Ái Quốc thực thi án tử hình. Có thể là cố ý đánh lạc hướng mật thám Pháp mà Quốc tế Cộng sản cho loan tin Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bệnh lao phổi trong nhà tù Hồng Công, đăng trên cả báo nước ngoài (The Daily Worker (Anh) ngày 11-8-1932, L’Humanité (Pháp) ngày 9-8-1932) và cả báo trong nước (Đông Pháp thời báo ngày 3-7-1932, Đuốc Nhà Nam ngày 23-7-1932). Sau khi Nguyễn Ái Quốc được thả (ngày 28-12-1932), để đảm bảo an toàn cho thân chủ, chính luật sư Loseby cũng loan tin Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bệnh phổi(1).

Phản bác một số quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận chống phá Đại hội XIV của Đảng

 

Phản bác một số quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận chống phá Đại hội XIV của Đảng

Kiên quyết vạch trần âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch

Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, nhân loại cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức cần phải hợp tác giải quyết.

Trong nước, kinh tế có nhiều khởi sắc song còn khó khăn về nhiều mặt, chưa thể kịp thời tháo gỡ. Hạn chế, yếu kém cũ chưa được khắc phục triệt để. Khó khăn mới nảy sinh; công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, nhóm lợi ích, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.

Tuy nhiên, cuộc đấu tranh chống “giặc nội xâm” vẫn còn diễn biến rất phức tạp, ngày càng tinh vi, khó nhận diện hơn; nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc đứng trước nhiều thách thức mới… Các thế lực phản động, cơ hội chính trị đã lợi dụng những khó khăn, yếu kém còn tồn tại để đẩy mạnh thực hiện âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta trên tất cả các lĩnh vực, nhất là thời điểm từ nay cho đến đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội XIV của Đảng. 

Karl Marx đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội và những vấn đề đặt ra hiện nay

 

Karl Marx đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội và những vấn đề đặt ra hiện nay

Do vậy, Karl Marx và những người đồng chí của mình đã phải tiến hành cuộc đấu tranh quyết liệt chống lại các chủ nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc. Cuộc đấu tranh đó có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, đồng thời đã để lại những bài học kinh nghiệm quý báu cho Đảng ta trong cuộc đấu tranh chống lại những biểu hiện cơ hội chủ nghĩa hiện nay.

Cuộc "đấu tranh sống mái"

Chủ nghĩa cơ hội ra đời đã gây ra những tác hại rất lớn đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân. Chính những tác động tiêu cực của chủ nghĩa cơ hội nên Karl Marx và những người đồng chí của mình đã phải tiến hành cuộc “đấu tranh sống mái”(1) chống lại chủ nghĩa cơ hội dưới nhiều màu sắc khác nhau như: Chủ nghĩa Proudhon, Lassalle, Bakunin... để phong trào công nhân quốc tế mau chóng hồi phục và phát triển.

Thứ nhất, đấu tranh chống Chủ nghĩa Proudhon. Chủ nghĩa Proudhon là chủ nghĩa cải lương và trào lưu vô chính phủ lưu hành trong phong trào công nhân Pháp từ những năm 40 đến những năm 90 của thế kỷ 19, đại biểu là P.J.Proudhon. Đứng trên lập trường của tầng lớp tiểu tư sản, Proudhon kịch liệt phản đối các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại chế độ tư bản. Ông đã ảo tưởng cải tạo xã hội một cách hòa bình và đưa ra tư tưởng cải cách dần dần từ bên trên. Với những quan điểm của mình, Chủ nghĩa Proudhon đã gây trở ngại nghiêm trọng cho sự truyền bá chủ nghĩa xã hội khoa học trong phong trào cộng sản, công nhân quốc tế lúc bấy giờ. Trước tình hình đó, Karl Marx đã viết nhiều tác phẩm: "Bản thảo kinh tế-triết học" (1844), "Hệ tư tưởng Đức" (1846), "Sự khốn cùng của triết học" (1847), "Bàn về Proudhon" (1865)... phê phán nghiêm khắc lý luận vô sách lược của Chủ nghĩa Proudhon. Karl Marx  trình bày những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học, phê phán lý luận “cách mạng xã hội” của Chủ nghĩa Proudhon. Karl Marx  đã chỉ ra sự ảo tưởng trong việc cải tạo xã hội một cách hòa bình và chứa đầy mâu thuẫn về mặt lý luận của Proudhon. Trong khi phê phán Proudhon, Karl Marx đã lập luận học thuyết đấu tranh giải phóng giai cấp vô sản, đó là sự thống nhất giữa đấu tranh kinh tế và đấu tranh chính trị nhằm cải thiện đời sống sinh hoạt vật chất tiến tới giải phóng bản thân, lật đổ nền thống trị của giai cấp tư sản. Cuộc đấu tranh của những người sáng lập Chủ nghĩa Mác chống chủ nghĩa vô chính phủ của Proudhon kéo dài suốt mấy chục năm, tới khi Công xã Paris thất bại mới triệt để xóa bỏ được nó. Và từ đây, chủ nghĩa cơ hội Proudhon đã không còn ảnh hưởng gì trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

Phản bác luận điệu xuyên tạc của Lê Quốc Quân

 

Lợi dụng việc Quốc hội Việt Nam họp bất thường vào ngày 2/5/2024 để bỏ phiếu kín miễn nhiệm chức vụ chủ tịch Quốc hội đối với đồng chí Vương Đình Huệ vừa qua, trên trang “Voatiengviet”, Lê Quốc Quân có bài viết: “Quốc hội, nhân dân và những võ sỹ giác đấu”. Y cho rằng, Quốc hội Việt Nam không phải là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, mà đang trở thành bù nhìn, là công cụ để Đảng Cộng sản, hợp thức hoá quyết định công tác cán bộ, trường hợp Ông Vương Đình Huệ là một ví dụ điển hình. Thực tế, Lê Quốc Quân đang cố tình xuyên tạc vai trò của Quốc hội và quan điểm của Đảng ta về công tác cán bộ.

1. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, ở nước ta, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước. Quốc hội do nhân dân bầu ra, là cơ quan nhà nước cao nhất thực hiện quyền lực của nhân dân. Quốc hội quy định các vấn đề cơ bản nhất, quan trọng nhất về hình thức và bản chất của Nhà nước; ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; quy định các nội dung cơ bản về chế độ kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, môi trường, bảo vệ Tổ quốc và tổ chức bộ máy Nhà nước. Quốc hội điều chỉnh các quan hệ xã hội trong từng lĩnh vực của đời sống xã hội. Bên cạnh đó, Quốc hội là cơ quan có quyền quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, đó là những chủ trương lớn, những vấn đề quốc kế dân sinh, những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Không một cơ quan nào đứng trên Quốc hội trong xem xét, đánh giá việc thi hành Hiến pháp, luật – những văn bản mà chỉ Quốc hội mới có quyền ban hành. Người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu, phê chuẩn phải chịu trách nhiệm, báo cáo công tác trước Quốc hội và chịu sự giám sát của Quốc hội. Nếu các chức danh do Quốc hội bầu và phê chuẩn không đủ phẩm chất năng lực, Quốc hội sẽ bỏ phiếu miễn nhiệm.