Một trong những tư tưởng xuyên suốt trong Di chúc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh là vấn đề “phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ
quốc”. Đó là lý tưởng phụng sự suốt đời của Người và cũng là định hướng chỉ đạo
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.
Năm mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày công bố bản Di chúc
(tháng 9-1969), những căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về trách nhiệm “phục vụ
giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc” vẫn giữ nguyên giá trị; vẫn là
những định hướng cho sự nghiệp xây dựng Đảng, xây dựng đất nước của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế.
Khẳng định là lý tưởng phụng sự suốt đời của mình, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã ba lần nhắc đến vấn đề “phục vụ cách mạng, phục vụ Tổ quốc, phục
vụ nhân dân” ở ba đoạn khác nhau trong bản Di chúc. Ở phần nêu lý do
viết Di chúc, Người đặt vấn đề do tuổi tác, sức khỏe, nên “ai mà đoán biết
tôi còn phục vụ cách mạng, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân được bao lâu nữa”.
Người coi việc từ biệt thế giới này là “đi gặp cụ Các Mác, cụ Lê-nin và các vị
cách mạng đàn anh khác”. Điều đó khẳng định rằng: cho đến trước khi từ biệt thế
giới này, Bác vẫn là một người cộng sản, một người yêu nước chân chính; bằng cả
cuộc đời, Người dành để “phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ
quốc”. Khi nói về phong trào cộng sản thế giới, Người khẳng
định mình “Là một người suốt đời phục vụ cách mạng”. Đúng như vậy. Lúc sinh
thời, trên hành trình tìm đường cứu nước, Người đã đến với chủ nghĩa Mác –
Lê-nin và tìm thấy ở chủ nghĩa này con đường giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người. Từ đây, Người đã trở thành người cộng sản, cống
hiến cả cuộc đời mình cho mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đem lại
cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Người để lại trong bản Di chúc niềm
“tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế” và cũng
“đau lòng… vì sự bất hòa… giữa các đảng anh em”. Ở gần cuối bản Di chúc,
sau những lời căn dặn tỉ mỉ đối với công việc của đất nước và cuộc sống của
người dân, Người dành những dòng sau cùng để nói về mình, với sự tổng kết:
“Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân
dân”; nên “dù phải từ biệt thế giới này”, “chỉ tiếc là tiếc rằng không được
phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Ở đây, mỗi câu, mỗi chữ đều toát lên phẩm
chất, nhân cách của một con người vĩ đại, suốt đời chỉ có “một sự ham muốn, ham
muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn
toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”1.
Là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh không ngừng chăm lo xây dựng, rèn luyện Đảng ta thành một đảng mác-xít
chân chính, thật sự vững mạnh. Người đòi hỏi Đảng phải luôn hoàn thiện mình để
lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng cách mạng. Chính vì
thế, phần lớn những căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Di chúc là dành
cho Đảng, với mong muốn Đảng ta luôn là “đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam”2.
Người khái quát nguyên nhân Đảng “đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta
hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”, là do Đảng ta
“đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ
Tổ quốc”. Để tiếp tục phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc với
tư cách là Đảng cầm quyền, Người đã bốn lần dùng chữ “thật” và “thật sự” trong
một đoạn rất ngắn của bản Di chúc, để căn dặn toàn Đảng: “Mỗi đảng viên và cán
bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm, liêm chính, chí
công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh
đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Nhấn mạnh chữ “thật” và “thật
sự”, Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn căn dặn mọi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng
trong quá trình tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng
phải làm thực chất, làm đến nơi đến chốn, không được hình thức, qua loa. Đạo
đức cách mạng mà Người đòi hỏi mọi cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần chính là
sự tận trung với Đảng, với Tổ quốc, tận hiếu với nhân dân; suốt đời đấu tranh
cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cho hạnh phúc của nhân dân. Đó chính
là việc làm thiết thực, thể hiện trách nhiệm “phục vụ giai cấp, phục vụ nhân
dân, phục vụ Tổ quốc” của mỗi cán bộ, đảng viên. Người yêu cầu “phải giữ gìn
Đảng ta thật trong sạch”, vì chỉ khi đó, Đảng mới xứng đáng là người lãnh đạo,
tổ chức và dẫn dắt các tầng lớp nhân dân thực hiện thành công mục tiêu, lý
tưởng cách mạng. Khi đã trở thành Đảng cầm quyền, thì Đảng càng phải ý thức đầy
đủ, sâu sắc trách nhiệm xã hội của mình là phục vụ nhân dân; bởi, Đảng là “đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân
tộc”3; mục tiêu lãnh đạo của Đảng là vì độc lập và tự do của dân
tộc, ấm no và hạnh phúc của nhân dân. Trên ý nghĩa đó, sự lãnh đạo của Đảng
đồng nghĩa là “người đầy tớ” của nhân dân. Nếu không thật sự là “đầy tớ” của
nhân dân, thiếu sự gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng sẽ rơi vào trạng thái
quan liêu, do đó sẽ mất đi vai trò lãnh đạo. Sự sụp đổ của Đảng Cộng sản Liên
Xô trong những năm cuối thế kỷ XX đã cho thấy rõ điều đó.
Là Đảng cầm quyền, trách nhiệm “phục vụ giai cấp, phục vụ
nhân dân, phục vụ Tổ quốc” của Đảng được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc đến nhiều
lần trong Di chúc. Đối với đoàn viên thanh niên, Người dặn dò: “Đảng cần phải
chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành
những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng vừa chuyên”. Đối với
nhân dân lao động, Người yêu cầu: “Đảng cần phải có kế hoạch thật
tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời
sống của nhân dân”. Đối với phong trào cộng sản thế giới, Người “mong rằng
Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn
kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê-nin và chủ nghĩa quốc
tế vô sản, có lý, có tình”.
Thực hiện Di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 50 năm qua,
trung thành với lý tưởng cách mạng “phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ
Tổ quốc”, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua bao khó khăn,
thử thách của thời cuộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa
cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng
trong hơn 30 năm qua đã mang lại những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Nước ta đã thoát ra khỏi tình trạng nước kém phát triển, trở thành nước đang
phát triển có thu nhập trung bình, với mức tăng trưởng kinh tế khá cao trong
nhiều năm. “An sinh xã hội cơ bản được bảo đảm, phúc lợi xã hội và đời sống của
nhân dân tiếp tục được cải thiện”4. Quy mô và tiềm lực kinh tế của
đất nước không ngừng tăng lên, đạt hơn 240 tỷ USD vào năm 2018; GDP bình quân
đầu người từ vị trí của nước nghèo, kém phát triển đã đạt 2.590 USD vào năm
2018. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển khá nhanh với nhiều công trình
hiện đại, góp phần làm thay đổi diện mạo của đất nước trong xu thế hội nhập.
Tiến bộ và công bằng xã hội đạt được nhiều kết quả tích cực; tỷ lệ hộ nghèo
giảm nhanh từ 58,1% (năm 1993) xuống còn 5,35% (theo chuẩn nghèo đa chiều) vào
cuối năm 2018.
Đối với lĩnh vực xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện Di huấn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình đổi mới, Đảng ta luôn coi phát
triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Với
quyết tâm xây dựng “Đảng ta thật trong sạch”, tại Đại hội XII, Đảng ta đã bổ
sung thêm nhiệm vụ xây dựng Đảng về đạo đức; đặt nhiệm vụ xây dựng Đảng về đạo
đức ngang hàng với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đảng đặc
biệt coi trọng cuộc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong
nội bộ. Các nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI, XII) đang được triển
khai thực hiện một cách kiên trì, kiên quyết đã làm bùng cháy ngọn lửa đấu
tranh chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Chỉ tính từ sau Đại hội
XII của Đảng (tháng 01-2016) đến hết năm 2018, hơn 60 cán bộ cấp cao thuộc diện
Trung ương quản lý đã bị xử lý kỷ luật, trong đó có 05 Ủy viên Trung ương Đảng
đương nhiệm và 03 trong số đó đã bị đưa ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương, thậm
chí có một Ủy viên Bộ Chính trị bị khai trừ ra khỏi Đảng và lĩnh án tù 30 năm.
Nhiều cán bộ cấp cao, kể cả cán bộ nghỉ hưu, cán bộ trong các cơ quan bảo vệ,
thực thi pháp luật, sĩ quan cấp tướng thuộc lực lượng vũ trang bị thi hành kỷ
luật, có trường hợp bị tước các danh hiệu, xử lý hình sự. Đó là chưa kể hàng
nghìn cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức ở các cấp bị xử lý. Kết quả đấu
tranh chống tham nhũng, tiêu cực, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đã góp phần củng cố
niềm tin của nhân dân đối với Đảng; đồng thời, là minh chứng cho việc Đảng ta
luôn khắc sâu và kiên trì thực hiện Di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là suốt
đời “phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc”.
Trong thời gian tới, để tiếp tục thực hiện có hiệu quả Di
huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về trách nhiệm “phục vụ giai cấp, phục vụ nhân
dân, phục vụ Tổ quốc”, chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng,
tổ chức và đạo đức. Theo đó, cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ. Mọi cán bộ, đảng viên của Đảng cần thực hiện nghiêm túc Quy
định 08-QĐi/TW, ngày 25-10-2018 của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu
gương của cán bộ, đảng viên; coi đó là việc làm tự giác, thường xuyên, gắn với
việc thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh việc
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đó là việc
làm cần thiết để củng cố lòng tin của nhân dân vào Đảng; đồng thời, cũng là
việc làm thiết thực để kỷ niệm 129 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh
(19-5-2019) và 50 năm toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực hiện Di chúc
thiêng liêng của Người.
Nguồn: http://tapchiqptd.vn
_________
1 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H.
2000, tr. 161.
2 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 88.
3 - Sđd, tr. 88.
4 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H. 2016, tr. 58-
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét