Thứ Tư, 19 tháng 6, 2019

Bản chất cái gọi là “Học bổng xã hội dân sự VOICE”


Những ngày gần đây, trên một số trang truyền thông của các tổ chức phản động, chống đối đang tích cực lan truyền cái gọi là “Học bổng xã hội dân sự VOICE” lần thứ 10.
Theo đó, các đối tượng mời gọi thanh niên tham gia và cam kết “giúp các học viên trở thành những công dân tích cực, giàu tinh thần cộng đồng, và được trang bị các kiến thức nền tảng để có thể tham gia vào các hoạt động xã hội”. 
Bản chất cái gọi là “Học bổng xã hội dân sự VOICE”
Trước hết, bàn về tổ chức VOICE (Vietnamese Overseas Initiative for Conscience Empowerment), hay còn gọi là “Sáng kiến vì lương tâm người Việt hải ngoại”, có thể khẳng định đây chính là tổ chức ngoại vi của Việt Tân. 
Tổ chức này manh nha hoạt động từ năm 1997, do Trịnh Hội – một kẻ có nhiều hành vi chống phá Việt Nam - đứng đầu. Đến năm 2007, VOICE chính thức được thành lập như một tổ chức phi chính phủ (NGO).
Theo tuyên bố, mục tiêu hoạt động của VOICE là “thúc đẩy xã hội dân sự Việt Nam phát triển, vận động các chính sách và nhân quyền, và giúp tái định cư những người Việt tị nạn”. Tuy nhiên, bản chất chính của tổ chức này là chống phá chính quyền Việt Nam, truyền bá tư tưởng về xã hội dân sự, kích động người dân chống đối chính quyền.
Một trong những hoạt động được tổ chức VOICE thực hiện thường xuyên là cung cấp các học bổng về xã hội dân sự. Thực chất, đây là lớp huấn luyện, đào tạo, trang bị các kiến thức đấu tranh chống đối và tập trung lực lượng.
Về cái gọi là “học bổng xã hội dân sự VOICE”, các đối tượng rêu rao “Sứ mệnh của Khóa đào tạo này là giúp các học viên trở thành những công dân tích cực, giàu tinh thần cộng đồng, và được trang bị các kiến thức nền tảng để có thể trở thành nhà hoạt động xã hội dân sự chuyên nghiệp”.
Đi liền với đó là những hứa hẹn như “Những học viên tốt nghiệp xuất sắc khóa đào tạo sẽ được VOICE gửi sang các tổ chức quốc tế ở các quốc gia Đông Nam Á, Đông Á, châu Âu, Úc, và Mỹ để thực tập trong vòng 3-6 tháng sau đó”.
Vậy nhưng đằng sau những lời tuyên bố đầy tốt đẹp lại là những hoạt động chống đối nguy hiểm. Trong khoá đào tạo của mình, trước hết VOICE truyền bá những cách nhìn nhận sai lệch về tình hình chính trị, xã hội tại Việt Nam, hình thành tư tưởng chống đối chính quyền cho học viên. 
Sau đó, VOICE tiến hành tập huấn, trang bị, huấn luyện cho học viên các nội dung về đấu tranh bất bạo động đối với chính quyền, đặc biệt là việc sử dụng chiêu bài tự do, nhân quyền để tiến hành chống phá.
Ngoài ra, VOICE còn tổ chức cho học viên tiếp xúc với các đối tượng chống đối, cơ hội chính trị để học hỏi phương thức hoạt động, thậm chí là cả cách ứng phó với cơ quan chức năng. Các “sản phẩm” sau đào tạo được tung về nước, trở thành hạt nhân tập trung lực lượng tiến hành chống phá chính quyền.
Cẩn trọng dưới chiêu trò “xã hội dân sự”
Thời gian vừa qua, “xã hội dân sự” được sử dụng như một chiêu bài để thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình”.
Một cách đơn giản, xã hội dân sự được định nghĩa là xã hội tự lập, phi nhà nước, được hình thành và vận hành trong không gian công cộng và tư nhân, nằm ngoài vùng ảnh hưởng trực tiếp của yếu tố nhà nước. Đó có thể là các tổ chức, hội, nhóm, cộng đồng v.v… được thành lập trên cơ sở tự nguyện, tự chủ và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật Việt Nam.
Xét về bản chất, xã hội dân sự không hề xấu. Nếu các tổ chức xã hội dân sự hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích đã đăng ký với cơ quan chức năng, tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật quốc gia thì nó sẽ thúc đẩy tính dân chủ, trở thành cầu nối giữa Nhà nước và người dân, góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
Tuy nhiên, từ thực tiễn trong nước và quốc tế thời gian qua, có thể thấy xã hội dân sự đang bị một số đối tượng lợi dụng để chống phá chính quyền. Với Việt Nam, các đối tượng triệt để sử dụng chiêu bài “xã hội dân sự” để thúc đẩy “tự diễn biến, tự chuyển hoá”, tác động thay đổi tình hình chính trị của nước ta.
Thứ nhất, các đối tượng núp bóng xã hội dân sự để thành lập các tổ chức chính trị đối lập, tiến tới đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Hoạt động đầu tiên được các đối tượng sử dụng là tuyệt đối hoá sự độc lập của xã hội dân sự. Bằng các lập luận của mình, các đối tượng truyền bá luận điệu giữa xã hội dân sự và chính quyền có sự tách bạch riêng rẽ với nhau. Xã hội dân sự được ca ngợi là tiến bộ, dân chủ, coi trọng quyền con người; ngược lại, các đối tượng rêu rao chính quyền là bó buộc, bảo thủ, không phù hợp với thực tiễn.
Thậm chí, các đối tượng còn truyền bá thông tin xã hội dân sự là đối trọng với chính quyền, chỉ khi nào xã hội dân sự “độc lập” một cách tuyệt đối thì nó mới có thể phát huy quyền lực của mình, bảo đảm tính tự do, dân chủ của đất nước. Từ đây, các đối tượng hình thành ở người dân tư tưởng chống đối với chính quyền.
Dưới vỏ bọc xã hội dân sự, các đối tượng tiến hành tập hợp lực lượng, truyền bá, rao giảng các thông tin sai lệch, từ đó hình thành nên các tổ chức chính trị đối lập với chính quyền. Với Việt Nam, cái đích cuối cùng được hướng đến là xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, hình thành xã hội đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, hướng lái, chuyển hoá chế độ.
Thứ hai, qua hoạt động của các tổ chức xã hội dân sự, các đối tượng tạo sức ép cho chính quyền, can thiệp vào công việc nội bộ đất nước. Không khó để nhận thấy thời gian vừa qua, với chiêu bài xã hội dân sự, các đối tượng phản động, chống đối trong và ngoài nước đã câu móc với nhau, xây dựng các hội, nhóm chống đối. Lợi dụng các sự kiện nóng, đặc biệt là các sự kiện liên quan đến vấn đề khiếu kiện đất đai, ô nhiễm môi trường, dân tộc, tôn giáo v.v…, các đối tượng tụ tập, hình thành nên các tổ chức mang tính tự phát.
Những cái tên như “Hội dân oan”, “Hội phản đối BOT”, “Hội tù nhân lương tâm” v.v… được các đối tượng sử dụng để tiến hành tập trung lực lượng. Thông qua hoạt động của các hội nhóm này, các đối tượng đòi hỏi nhà nước phải bảo đảm cho chúng một thứ tự do vô giới hạn. 
Cùng với đó, các hội nhóm trong nước tiến hành móc nối với các tổ chức phản động, chống đối bên ngoài và các thế lực thù địch với Việt Nam để tiến hành hoạt động gây sức ép nhằm cam thiệp vào công việc nội bộ đất nước ta.
Từ học bổng “xã hội dân sự VOICE” đến những nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia
Như đã phân tích ở trên, cái gọi là “học bổng xã hội dân sự VOICE” thực chất chính là một khoá đào tạo chống phá chính quyền Việt Nam. Núp dưới danh nghĩa học bổng, núp dưới vỏ bọc xã hội dân sự, các đối tượng tiến hành tập trung các phần tử có tư tưởng lệch lạc, biến chất người Việt để từ đó huấn luyện, đào tạo thành các hạt nhân chống đối.
Sau khoá đào tạo, các đối tượng tiến hành tung “học viên” về nước để hoạt động. Đây là một nguy cơ lớn đe dọa đến an ninh quốc gia của Việt Nam. Qua quá trình đào tạo, phương thức, thủ đoạn chống phá Đảng, nhà nước của các đối tượng trở nên tinh vi hơn, khó phát hiện hơn. 
Cùng với đó, do có sự móc nối giữa đối tượng trong nước và ngoài nước, do các hoạt động chống phá được lên kế hoạch bài bản nên tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi chống phá sẽ tăng lên gấp bội.
Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta phải đẩy mạnh công tác nắm tình hình, kịp thời phát hiện các âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, chống đối, từ đó có biện pháp ứng phó kịp thời, hiệu quả. Đặc biệt, hoạt động đào tạo lực lượng núp dưới học bổng xã hội dân sự của Tổ chức VOICE cần được cơ quan chức năng giám sát một cách chặt chẽ để chủ động ứng phó.    

Người dân cần cảnh giác, tránh mắc mưu bọn phản động


Với ý đồ tổ chức, phát triển lực lượng để tiến hành các hoạt động khủng bố, phá hoại, các đối tượng trong tổ chức “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” đẩy mạnh các hoạt động chống phá.
Cùng với các hoạt động khủng bố, phá hoại là việc tuyên truyền, phá hoại về tư tưởng. Những chương trình mị dân được đưa ra nhằm khiến những người nhẹ dạ cả tin bị lôi kéo... Đây là hoạt động rất nguy hiểm, đòi hỏi mỗi người dân phải cảnh giác, có ý thức tự bảo vệ mình.
Để thực hiện hành vi chống phá, Đào Minh Quân thường xuyên livestream trên facebook để tuyên truyền, khuếch trương thanh thế cho tổ chức nhằm củng cố niềm tin cho số trong nước. 
Đối tượng Lisa Phạm thực hiện chương trình “Khai dân trí” hằng ngày với thời lượng từ 40-50 phút để tuyên truyền, xuyên tạc tình hình an ninh, chính trị trong nước..., kích động thực hiện các chương trình chống phá. 
Ý đồ của số đối tượng cầm đầu “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” là từng bước lôi kéo, hình thành lực lượng đối kháng với Đảng Cộng sản Việt Nam ngay trong nước. Để thực hiện ý đồ này, các đối tượng sử dụng nhiều phương thức nhằm móc nối, lôi kéo người tham gia tổ chức.
Một trong số đó là việc tiếp tục thực hiện Chiến dịch “Trưng cầu dân ý” giai đoạn 2 nhằm tạo vành đai thân hữu, qua đó phát triển lực lượng cho tổ chức, đây là một trong những thủ đoạn mà tổ chức khủng bố “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” đã và đang thực hiện. 
Tổ chức này đã thành lập 4 trang web, các trang facebook để tuyên truyền về Chiến dịch “Trưng cầu dân ý” và hướng dẫn cách thức tham gia theo những cách khác nhau: Các đối tượng có thể tham gia trực tuyến trên các trang web của “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời”; tải mẫu tham gia sau đó điền thông tin cá nhân và chụp ảnh gửi qua tin nhắn cho các đối tượng cầm đầu tổ chức “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” ở bên ngoài hoặc gọi điện hoặc nhắn tin đến “Văn phòng thủ tướng Đào Minh Quân” để điền thông tin tham gia...
Với thủ đoạn trên, các đối tượng đã nhằm vào những người có nhận thức chính trị hạn chế, có tư tưởng bất mãn với những tiêu cực xảy ra trong đời sống xã hội, thường xuyên truy cập vào các trang mạng có nội dung chống Đảng, Nhà nước để tìm hiểu. Sau đó hứa hẹn sẽ cho tiền, vị trí quan trọng trong tổ chức nếu tham gia “Trưng cầu dân ý”. 
Bằng chiêu trò này, đến nay, bọn phản động đã tổ chức lôi kéo được hơn 1.000 trường hợp ở trong và ngoài nước tham gia. Tuy nhiên, trên thực tế, đây chủ yếu là danh sách ảo do một số đối tượng lập khống để lấy tiền hoặc báo cáo thành tích với số bên ngoài. Đáng chú ý, nhiều đối tượng đã lấy tên của cả gia đình, người quen hoặc hàng xóm để đăng ký “Trưng cầu dân ý”. Vì thế, nhiều người có tên trong danh sách nhưng khi được hỏi đến đều không biết gì.
Trường hợp của VTM (ở tại quận Hoàng Mai, Hà Nội) là một ví dụ. Do không có nghề nghiệp ổn định, lại bị bệnh tâm thần phân liệt thể hoang tưởng, thường xuyên truy cập mạng xã hội nên bị số đối tượng cầm đầu “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” lợi dụng, lôi kéo tham gia vào hoạt động “Trưng cầu dân ý”. 
Hay trường hợp khác của LDH và HNV (trú tại Quảng Ninh). Trong quá trình lên mạng xã hội, H và V quen biết Kelly Triệu Thanh Hoa, thành viên cốt cán của tổ chức “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời”. Hoa giới thiệu với H và V về tổ chức và hứa hẹn sẽ cho tiền nếu tham gia “Trưng cầu dân ý”. Do không có việc làm ổn định và vì hám lời, H và V đã tham gia làm các thủ tục theo yêu cầu của bọn chúng. Khi hỏi về quan điểm  chính trị, cả hai đều khai rằng họ không hiểu gì về tổ chức này mà tham gia chỉ vì được hứa hẹn cho tiền... 
Để lôi kéo người tham gia, các đối tượng cốt cán trong tổ chức “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” như Đào Minh Quân, Kelly Triệu Thanh Hoa, Lâm Ái Huệ..., còn thường xuyên tìm kiếm trên mạng xã hội facebook những người hay theo dõi, bình luận, chia sẻ các trang facebook, bài viết, video, clip của tổ chức “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời”, mời số này tham gia.
Không dừng lại ở đó, lợi dụng tâm lý hám lợi, lòng tham, hoàn cảnh khó khăn và sự nhận thức hạn chế của một bộ phận người dân, tổ chức “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời còn thực hiện Chương trình “Cấp phát nhà miễn phí”. Chúng tuyên truyền, đây là chương trình được tài trợ bởi các tổ chức nước ngoài. 
Bọn chúng yêu cầu những người muốn được “Cấp nhà miễn phí” phải tham gia Chiến dịch “Trưng cầu dân ý”; thể hiện quan điểm chống đối, lên án chính sách của Đảng, Nhà nước, mong muốn thay đổi chế độ và công khai ủng hộ “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” và Đào Minh Quân làm tổng thống “Đệ tam Việt Nam Cộng Hòa”....
Từ tháng 3-2019, các đối tượng đã lôi kéo được một số trường hợp ở 41 tỉnh, thành phố đăng ký xin “Cấp nhà miễn phí”. Nhưng trên thực tế, số đăng ký “Cấp phát nhà miễn phí” ngoài thành viên của tổ chức này thì đều là những hộ dân có cuộc sống khó khăn, nhận thức chính trị còn hạn chế. Vì thế, khi nghe thông tin được một tổ chức nước ngoài hỗ trợ xây nhà thì họ không cần biết đó là tổ chức nào và sẵn sàng làm theo yêu cầu của tổ chức này. 
Điển hình như trường hợp của NTA (SN 1969, trú tại Nghệ An), hiện đang điều trị ung thư máu tại TP Hồ Chí Minh. Do hoàn cảnh khó khăn, cần tiền để chữa bệnh hiểm nghèo nên quá trình truy cập mạng Internet, tiếp cận thông tin về chương trình “Cấp phát nhà miễn phí” của “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” đã chủ động tham gia. 
Trường hợp của PVB (SN 1989, ở tại Lâm Đồng) cũng tương tự. Sau khi vợ chết, một mình phải nuôi con nhỏ, hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên PVB đã bị các đối tượng trong tổ chức lôi kéo tham gia “Trưng cầu dân ý”... Trên thực tế, cả hai trường hợp này chỉ muốn được hưởng lợi về vật chất chứ không biết gì về tổ chức khủng bố này. 
Với bản chất phản động, Đào Minh Quân và đồng bọn vẫn chưa từ bỏ ý định chống Đảng và Nhà nước ta. Đặc biệt, chúng bày ra chương trình với chiếc mũ an sinh xã hội như trên cùng những hứa hẹn hỗ trợ tài chính, các đối tượng tiếp tục đánh vào lòng tham, tâm lý hám lợi của người dân có cuộc sống khó khăn. Vì thể để ngăn chặn tình trạng trên, cùng với sự vào cuộc của cơ quan chức năng thì mỗi người dân cần phải nâng cao ý thức cảnh giác. 
Mỗi người dân, mỗi người sử dụng mạng xã hội phải hiểu rõ bản chất của các đối tượng trong tổ chức và nhận thức được miếng bánh vẽ mà các đối tượng đưa ra. Có như vậy, mới tránh bị các đối tượng lợi dụng, lôi kéo tham gia thực hiện hành vi vi phạm. “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” là tổ chức khủng bố. 
Do đó, người nào có hành vi tham gia, tuyên truyền, lôi kéo, xúi giục người khác tham gia, tài trợ, nhận tài trợ của “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời”; tham gia các khóa đào tạo, huấn luyện do “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” tổ chức; hoạt động theo chỉ đạo của “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời”… là phạm tội “Khủng bố”, “Tài trợ khủng bố” và sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Mọi hành động lợi dụng danh nghĩa tôn giáo làm tổn hại tới lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc đều sẽ bị lên án


Ủy Hội quốc tế Hoa Kỳ về tôn giáo (USCIRF) vừa qua đã đưa ra những nội dung về vấn đề tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam nhưng hoàn toàn phản ánh sai lệch, xuyên tạc với tình hình thực tế. Vấn đề tôn giáo ở Việt Nam được nhìn nhận và đánh giá dựa trên các yếu tố pháp luật, bảo đảm quyền tự do tôn giáo, được xây dựng dựa trên quan điểm cơ bản của học thuyết Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo.
Bảo đảm các quyền tự do về tôn giáo, khẳng định vị thế của một quốc gia đa sắc tộc và tôn giáo
Trong Văn kiện Đại hội X, Đảng ta chỉ ra rằng, chúng ta thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. 
Văn kiện Đại hội XI tiếp tục khẳng định: “Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”.
Trong Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2011-2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2016-2020 tại Đại hội lần thứ XII của Đảng, khẳng định: “Tự do tín ngưỡng, tôn giáo được bảo đảm” http://ictvietnam.vn/danh-gia-va-trao-doi/ly-luan/quan-diem-cua-dang-cong-san-viet-nam-ve-ton-giao-trong-van-kien-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xii-va-mot-so-van-de-dat-ra.htm - _ftn3 và  “Thực hiện tốt các chính sách về dân tộc, tôn giáo và bảo đảm tự do tín ngưỡng, tôn giáo”. Hiến pháp năm 2013 cũng đã kế thừa và sửa đổi, bổ sung quy định của các bản Hiến pháp trước đó về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được thông qua tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XI ngày 18-11-2016, có hiệu lực từ ngày 1-1-2018, thể chế Hiến pháp về quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Những giá trị về tinh thần được ghi nhận trong Luật Tín ngưỡng, tôn giáo tiếp tục khẳng định Việt Nam là một trong những nước tiên phong bảo đảm các quyền tự do về tôn giáo, khẳng định vị thế của một quốc gia đa sắc tộc và tôn giáo. Đặc biệt lần đầu tiên ghi nhận người bị buộc tội, người bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác được quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tín ngưỡng, tôn giáo. Đây chính là giá trị nhân văn của Nhà nước XHCN, nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
Nhà nước không chỉ quy định cho mọi người có quyền tự do về tín ngưỡng, tôn giáo mà có tự nhận trách nhiệm của mình trong việc bảo đảm quyền đó, đồng thời quy định các biện pháp nhằm bảo đảm quyền được thực thi trong đời sống thực tiễn. 
Trong đó, đối với bất kỳ vi phạm nào làm ảnh hưởng tới quyền bình đẳng giữa các tôn giáo, quyền bảo hộ của Nhà nước đối với cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo và tài sản hợp pháp của tổ chức tôn giáo có thể bị truy cứu trách nhiệm, tùy theo mức độ vi phạm mà truy cứu trách nhiệm vật chất và trách nhiệm hành chính, trách nhiệm hình sự. Điều 164 Bộ luật Hình sự 2015 quy định hình phạt đối với tội “Xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người khác” gồm cải tạo không giam giữ đến 1 năm, phạt tù từ 1 năm đến 3 năm.
Thực thi bảo đảm quyền tự do về tôn giáo ở Việt Nam
Các tôn giáo ở Việt Nam chung sống hòa hợp trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Hiện nay, có 42 tổ chức thuộc 15 tôn giáo được công nhận tư cách pháp nhân. Năm 2016, Ban đại diện Giáo hội các thánh hữu ngày sau của Chúa Giê-su Kitô (Mormon) đã được công nhận và Phật giáo Hiếu nghĩa Tà Lơn đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo. Tháng 8-2018, Hội thánh Phúc âm Toàn vẹn Việt Nam được cấp đăng ký hoạt động. Hai tổ chức Tin lành đang được hướng dẫn làm hồ sơ đăng ký.
Ngoài ra, hàng ngàn điểm nhóm Tin lành được bảo đảm sinh hoạt tôn giáo tại các địa điểm hợp pháp. Theo số liệu được thống kê từ Ban tôn giáo của Chính phủ, Việt Nam có 60 cơ sở đào tạo tôn giáo, thuộc Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo. Từ năm 2015-2017, Việt Nam đã cho thành lập mới năm cơ sở đào tạo tôn giáo gồm: Học viện Công giáo, Đại Chủng viện Đức Mẹ Vô nhiễm Bùi Chu, Học viện Truyền giáo Cao Đài, Trung cấp Phật giáo Hòa Hảo, Trường Thánh kinh Thần học Cơ đốc.
Tính đến năm 2017, tổng diện tích đất do các cơ sở tôn giáo sử dụng là 14.850ha, thuộc 7.102 tổ chức, cơ sở tôn giáo. Thành phố Hồ Chí Minh đã giao 7.500m2 cho Tổng Liên hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) xây dựng Viện Thánh kinh thần học, tỉnh Thừa Thiên-Huế giao 20ha đất cho Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế sử dụng... Các tổ chức tôn giáo tích cực tham gia các hoạt động xã hội, thành lập trên 450 cơ sở y tế, 270 trường mầm non, 1.000 nhóm, lớp mầm non; hỗ trợ chăm sóc 11.800 đối tượng bảo trợ xã hội.
Với sự hỗ trợ của Nhà nước, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã triển khai xây dựng Học viện Phật giáo Nam tông Khmer tại thành phố Cần Thơ (năm 2017). Tại các tỉnh Tây Nguyên và Bình Phước, 33 tổ chức, hệ phái, nhóm Tin lành đang sinh hoạt tại 304 chi hội và hơn 1.300 điểm nhóm. Tính đến hết ngày 30-6-2018, tại Tây Bắc, 693 điểm nhóm Tin lành và tám Hội thánh cơ sở đã được thành lập. Ngoài ra, các địa phương còn có nhiều điểm nhóm đăng ký sinh hoạt tập trung của người dân tộc thiểu số như Hội Liên hữu Baptist Việt Nam, Hội thánh Lutheran, Liên đoàn Truyền giáo Phúc âm Việt Nam và Hội thánh Truyền giảng Phúc âm Việt Nam...
Với phương châm, hành động của Chính phủ trong năm 2019 là: “Kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, bứt phá, hiệu quả” và từ yêu cầu, nhiệm vụ của công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình đề nghị ngành Quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo cần đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; nâng cao chất lượng thực hiện công tác nghiệp vụ tôn giáo trong tình hình mới. 
Ngành chủ động phối hợp thống nhất giữa các bộ, ngành và địa phương trong tham mưu đề xuất Chính phủ chỉ đạo giải quyết những vấn đề tôn giáo phức tạp. Tăng cường công tác đối ngoại tôn giáo, chủ động hướng dẫn các tổ chức tôn giáo tham gia các cơ chế diễn đàn tôn giáo thế giới và khu vực phù hợp với đường lối ngoại giao của Đảng, Nhà nước.
Chúng ta hãy lắng nghe những lời thoại, những bài phát biểu của các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các vị chức sắc tôn giáo để phủ định một hành động thiếu căn cứ của Ủy hội quốc tế Hoa Kỳ về tôn giáo (USCIRF) đã công bố bản phúc trình có tính xuyên tạc về quyền tự do tôn giáo của Việt Nam vào ngày 29-4-2019 tại Washington DC sau đây:
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tại Đại lễ VESAK năm 2019 khẳng định rằng Phật giáo là tôn giáo có lịch sử từ lâu đời, gắn bó sâu sắc với văn hóa truyền thống và đồng hành cùng dân tộc Việt Nam, với tấm gương sáng của Phật hoàng Trần Nhân Tông. Từ hào quang của ngôi vương cao quý, niềm kiêu hãnh anh dũng chiến thắng ngoại xâm, Ngài đã đến với chân lý anh minh, từ bi, hỷ xả của giáo lý Phật giáo và hành đạo cứu giúp muôn dân. Nối tiếp truyền thống, trong nhiều năm qua, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã không ngừng phát triển và lớn mạnh, thể hiện rõ ý chí hòa hợp, đoàn kết và thống nhất, khẳng định ví trí, vai trò, góp phần xây dựng đất nước.
Còn linh mục Tôma Vũ Quang Trung, SJ đang giữ trách vụ Đại diện Giám mục Đặc trách Tu sĩ Tổng Giáo phận Sài Gòn cho biết: Khoảng 15 năm nay, nhiều dòng tu từ nước ngoài tìm đến Việt Nam. TP Hồ Chí Minh hầu như là nơi các hội dòng đặt chân đến đầu tiên. Có nhiều lý do để các dòng tu chọn đến thành phố này. Trước hết, đây là trung tâm lớn nhất so với cả nước về kinh tế, xã hội, giáo dục, văn hóa và là nơi tập trung đủ mọi loại hình hoạt động và phục vụ đa dạng nhất nước. 
Đây cũng là nơi có nhiều hoạt động mang tính quốc tế nên có bầu khí cởi mở và đối thoại, gặp gỡ giao lưu với nhiều nền văn hóa khác trên thế giới. Tương quan giữa Giáo hội địa phương và chính quyền thành phố cũng diễn ra trong bầu khí hiểu biết, tôn trọng đối thoại và cộng tác lẫn nhau nên các hội dòng mới đến cũng được chính quyền dễ dàng đón nhận và cho phép hoạt động.
So với 5 năm trước đây, con số các hội dòng tại Tổng giáp phận (TGP) Sài Gòn tăng từ 193 lên đến 262 hội dòng, nghĩa là tăng thêm 69 hội dòng mới. Số tu sĩ tăng từ 6.304 lên đến 8.804, trong đó, số linh mục dòng tăng từ 463 lên đến 602 vị. 
Các tu sĩ có đặc sủng và linh đạo riêng theo các vị sáng lập nên có rất nhiều hoạt động tông đồ đa dạng. Phần nhiều các hội dòng mới là các dòng có linh đạo truyền giáo ngang qua các hoạt động phục vụ xã hội, y tế và giáo dục, chăm lo cho người nghèo, khuyết tật, bệnh nhân, trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, trẻ em mồ côi, phụ nữ lỡ lầm, người già neo đơn, người nhiễm HIV-AIDS…
Hòa thượng Phra Brahmapundit, Chủ tịch sáng lập Ủy ban tổ chức Quốc tế Vesak LHQ cho rằng Phật giáo Việt Nam ngày càng phát triển, góp phần vào sự phát triển của Phật giáo thế giới. Chủ đề Vesak năm nay đã thể hiện sự đóng góp của Phật giáo với sự phát triển của thế giới. Chúng ta cùng nhau hội tụ ở đây để nêu lên những vấn đề quan ngại và ý kiến theo quan niệm của Phật giáo để mang lại hòa bình, phát triển cho thế giới.
Còn Hòa thượng Thích Thanh Nhiễu, Phó Chủ tịch thường trực HĐTS GHPGVN, Trưởng ban thường trực BTC Đại lễ Vesak 2019 nói rằng, tiếp nối truyền thống 2000 năm, Phật giáo Việt Nam hôm nay đã làm được nhiều việc lợi đạo, ích đời thực hiện cứu khổ độ sinh. Không chỉ bằng những buổi thuyết pháp đạo Phật, GHPGVN đã, đang và sẽ luôn tích cực tham gia hoạt động từ thiện để lan tỏa tình yêu thương, từ bi, bác ái đến chúng sinh… Cũng chính từ việc làm đã chạm vào trái tim hướng thiện, lan tỏa thông điệp từ bi hỷ xả của Phật giáo đến con người.
Như vậy, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền của tất cả mọi người và quyền này không bị giới hạn bởi quốc tịch, giới tính, độ tuổi. Khả năng bảo đảm quyền tự do tôn giáo của các quốc gia không giống nhau. Mỗi quốc gia lựa chọn phương thức bảo đảm sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội cũng như pháp luật, truyền thống của mỗi dân tộc. Việt Nam luôn sẵn sàng đối thoại nếu có sự khác biệt về nhận thức, chính kiến tư tưởng tôn giáo và Việt Nam luôn là đất nước tôn trọng sự phát triển của các tôn giáo về tổ chức, cơ sở vật chất, giáo lý.
Một điều khẳng định rằng, bất kỳ hành động nào lợi dụng danh nghĩa tôn giáo để phương hại đến lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc và lợi ích cộng đồng đều bị ngăn chặn, lên án, nếu mức độ nghiêm trọng sẽ bị xử lý theo pháp luật.

Nhận diện sự thật những “bản phúc trình” về tự do tôn giáo ở Việt Nam


Trong bản phúc trình về tự do tôn giáo được đưa ra gần đây, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tiếp tục đưa thông tin sai lệch tình hình tôn giáo của Việt Nam. Trong đó, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho rằng: “Vấn đề tự do tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam vẫn bị xuống cấp nghiêm trọng; chính phủ Việt Nam tiếp tục đàn áp mọi tôn giáo, thường bắt giữ những người biểu tình ôn hòa để đòi hỏi tự do tín ngưỡng và tự do thờ phụng, trong đó có những nhà hoạt động cho tôn giáo và nhân quyền; nhiều tổ chức tôn giáo không được chính phủ công nhận…”.
Nhận diện hoạt động lợi dụng tôn giáo chống đối chính quyền
Lợi dụng những ràng buộc về giáo lý, giáo luật cũng như các vấn đề liên quan đến thần quyền, nhiều đối tượng xấu đã tiến hành khống chế tín đồ, tuyên truyền, rao giảng các thông tin sai lệch về tình hình đất nước, từ đó kích động người dân đấu tranh chống đối với chính quyền. Thẳng thắn đánh giá, tôn giáo là một mũi nhọn trong chiến lược “diễn biến hoà bình” của các thể lực thù địch.
Thông qua con đường tôn giáo, các thế lực thù địch, chống đối với Việt Nam một mặt tập trung lực lượng trong nước, hình thành nên các tổ chức chính trị đối lập núp dưới bóng tổ chức tôn giáo; mặt khác, các đối tượng xuyên tạc, bôi nhọ, làm sai lệch tình hình tôn giáo của Việt Nam, vu cáo chính quyền Việt Nam vi phạm quy định pháp luật quốc tế.
Hiện nay, việc lợi dụng tôn giáo để chống phá chính quyền, xâm hại an ninh quốc gia của Việt Nam được các thế lực thù địch, phản động thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong đó, các phương thức chính thường được sử dụng gồm:
Thứ nhất, các đối tượng thù địch, chống đối thường đưa ra các báo cáo, phúc trình có nội dung sai lệch về tình hình tôn giáo ở Việt Nam.
Thời gian qua, một số cơ quan, tổ chức như Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Mỹ, Nghị viện châu Âu, Tổ chức theo dõi nhân quyền (HRW), Ân xá Quốc tế (AI)... đã đưa ra nhiều phúc trình có nội dung sai lệch về tình hình Việt Nam. Gần đây nhất, ngày 29-4, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã đưa ra bản phúc trình về tự do tôn giáo. Khi nói về tình hình tôn giáo ở Việt Nam, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa ra các nhận định, đánh giá chủ quan, phiến diện, không đúng sự thật.
Và vẫn như thường lệ, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa ra những nhận định, đánh giá sai lệch như nêu trên. Qua việc nghiên cứu các bản phúc trình, báo cáo về tình hình tôn giáo ở Việt Nam của các tổ chức trên, không khó để chúng ta nhận thấy sự kỳ thị, thù địch của những người soạn thảo. Đặc biệt, nhiều nội dung trong đó vu khống, bóp méo vấn đề tôn giáo của nước ta.
Suy cho cùng, đằng sau ngọn cờ tôn giáo vẫn là các mưu đồ về chính trị. Tôn giáo đã bị biến thành công cụ, phương tiện, thậm chí, nó còn được coi là một “đòn hiểm” để can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác. Với Việt Nam, các thế lực chống đối luôn tìm mọi cách để tách tôn giáo ra khỏi sự quản lý của nhà nước, từ đó dễ dàng khống chế và sử dụng tôn giáo vào mục đích chống phá.
Thực tế cho thấy, việc Bộ Ngoại giao Mỹ và nhiều quốc gia phương tây thường xuyên tiến hành các cuộc điều trần về tình hình tôn giáo ở Việt Nam, cũng như xếp Việt Nam vào nhóm quốc gia “không có tự do tôn giáo” cũng chỉ để tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của ta, từ đó làm thay đổi bản chất của chế độ, đưa Việt Nam đi vào sự lệ thuộc.
Thứ hai, lợi dụng vỏ bọc tôn giáo, các đối tượng mưu đồ hình thành các tổ chức chính trị đối lập.
Dưới bóng tổ chức tôn giáo, các đối tượng thù địch âm mưu tiến hành thành lập, xây dựng lực lượng, hình thành nên tổ chức chống đối. Đây là một con đường đang được kẻ địch triệt để lợi dụng. Tôn giáo được lấy ra làm cái cớ để tập hợp, thu hút mọi người tham gia. Đồng thời, vỏ bọc tôn giáo cũng như một tấm bùa “hộ mệnh” cho các tổ chức này. Âm mưu của các tổ chức phản động dưới vỏ bọc tôn giáo có thể thấy đang diễn biến phức tạp.
Thông qua sự quản lý, điều hành của các đối tượng chống đối, một số cơ sở tôn giáo nếu không quản lý tốt sẽ bị biến thành nơi để các đối tượng hội họp, bàn luận, chỉ đạo các hoạt động chống phá, rao giảng những luận điệu sai trái.  
Mặt khác, thông qua vỏ bọc tôn giáo, các đối tượng muốn “hợp pháp hoá” hoạt động của mình. Khi cơ quan chức năng phát hiện bản chất phía sau và không công nhận hoạt động, các đối tượng lại tiếp tục rêu rao, vu khống Việt Nam “vi phạm dân chủ, nhân quyền, không có tự do tôn giáo”.
Thứ ba, tiến hành tuyên truyền, xuyên tạc các vấn đề sai lệch về tình hình đất nước.
Trong hàng ngũ chức sắc tôn giáo ở Việt Nam, bên cạnh đa số đồng hành cùng sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước thì có những cá nhân “nuôi” cái nhìn sai lệch về chế độ, thậm chí mang trong mình tư tưởng thù địch, chống đối với chính quyền.
Thông qua các buổi rao giảng giáo lý, giáo luật, các đối tượng núp dưới vỏ bọc tôn giáo, lồng ghép các tư tưởng, thông tin sai lệch, xuyên tạc vấn đề, kích động các tín đồ chống đối với chính quyền, chia rẽ mối đoàn kết dân tộc. Lướt qua các trang truyền thông, không khó để bắt gặp các video giảng đạo có nội dung đi ngược chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đi ngược giáo lý, giáo luật.
Tôn giáo là hệ thống niềm tin của con người. Nó tác động đến nhận thức, suy nghĩ, cách nhìn nhận của con người. Chính vì vậy, việc lợi dụng tôn giáo để chống phá vô cùng nguy hiểm. Từ việc nhận thức sai lầm, sẽ có những hành động sai lệch, xâm hại đến tình hình an ninh, trật tự cũng như lợi ích của xã hội.
Bảo đảm an ninh tôn giáo
Trong thời kỳ chiến tranh, thực dân đế quốc tìm cách  lợi dụng tuyên truyền tôn giáo vào các vùng dân cư của ta để ''ru ngủ'' quần chúng cũng như phá hoại khối đoàn kết dân tộc. Hiện nay, chiêu bài này tiếp tục được sử dụng với nhiều hình thức tinh vi để phá hoại sự ổn định của xã hội.
Trong mối quan hệ với an ninh quốc gia, tôn giáo giữ một vai trò vô cùng quan trọng. Để giải quyết tốt các vấn đề liên quan, Đảng, Nhà nước ta đã quy định rõ vấn đề tự do tôn giáo, tín ngưỡng trong Hiến pháp và các luật liên quan. Đồng thời, xác định rõ giữa hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo với các hành vi lợi dụng, vi phạm pháp luật.
Để ngăn chặn hoạt động lợi dụng chống phá, ở cấp cơ sở, chúng ta phải quan tâm đến đời sống của bà con, nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Đặc biệt, phải tập trung phát hiện các đối tượng lợi dụng tôn giáo để chống đối, nhanh chóng thu thập chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của đối tượng để đưa ra xử lý trước pháp luật. Mặt khác, tiếp tục củng cố mối quan hệ với các tổ chức tôn giáo trên thế giới, vì sự phát triển lành mạnh, hài hoà giữa đời sống tôn giáo và các lợi ích quốc gia, công cộng.


Vạch trần bản chất phản động của Chiến dịch “Trưng cầu dân ý” và Chương trình “Cấp phát nhà miễn phí”


Bài 1: Tiếng nói người trong cuộc phơi bày bản chất của tổ chức khủng bố
Với thủ đoạn hứa hẹn về quyền lợi vật chất, danh vọng, các đối tượng trong tổ chức khủng bố “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” đã đánh vào tâm lý của một bộ phận người dân có tư tưởng bất mãn tiêu cực trong nước, đánh vào lòng tham của người dân có cuộc sống khó khăn nhằm thu hút họ tham gia và hoạt động theo sự chỉ đạo của bọn chúng.

Nhận diện và đấu tranh với âm mưu, hoạt động lợi dụng vấn đề “xã hội dân sự” để chống phá Đảng, Nhà nước, hòng chuyển hóa chế độ chính trị ở Việt Nam


Những năm gần đây, khái niệm “xã hội dân sự” xuất hiện trên các diễn đàn, báo chí, truyền thông xã hội với tần suất ngày càng nhiều hơn. Sở dĩ được thảo luận nhiều, vì trong vòng hơn hai thập niên qua, “xã hội dân sự” được các thế lực thù địch, cơ hội chính trị triệt để lợi dụng nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá Đảng, Nhà nước ta.
Âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lợi dụng vấn đề “xã hội dân sự” để chống phá Đảng, Nhà nước ta
Hiện nay, vấn đề “xã hội dân sự” (XHDS) đã và đang được các thế lực thù địch triệt để lợi dụng nhằm thực hiện mưu đồ chuyển hóa chế độ chính trị ở Việt Nam. Sau thất bại trong hoạt động chống phá Việt Nam ở các giai đoạn trước, hiện nay, các thế lực thù địch xem việc củng cố, thúc đẩy “XHDS” theo mô hình phương Tây là một hướng đi mới, là một trong những phương thức tác động cơ bản của chiến lược “diễn biến hòa bình” với mưu đồ xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, thay đổi thể chế chính trị tại Việt Nam. Mục tiêu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề “XHDS” là tìm cách thúc đẩy sự xuất hiện các lực lượng, tổ chức chính trị đối lập, làm suy yếu sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các thế lực thù địch cho rằng, hình thành “XHDS độc lập về chính trị” là một “lối thoát” cho sự ra đời công khai, hợp pháp của các tổ chức, lực lượng chính trị đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam, buộc Việt Nam phải chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Chúng ra sức cổ vũ cho hình thành ở Việt Nam một mô hình “XHDS độc lập về chính trị” kiểu phương Tây, nằm ngoài sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thoát ly khỏi sự quản lý của Nhà nước. 
Hòng thực hiện âm mưu đó, các thế lực thù địch đã và đang triệt để lợi dụng tính chất chính trị, xã hội phức tạp của “XHDS” để tác động vào hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân bằng nhiều phương thức khác nhau, từ tuyên truyền lừa bịp, thổi phồng, cường điệu hóa vai trò của XHDS, cung cấp tài chính, phương tiện hoạt động đến gây sức ép với Đảng, Nhà nước ta trong quan hệ đối ngoại. Các đối tượng chống đối nhân danh chiêu bài “XHDS”, “dân chủ”, “nhân quyền”... để tập hợp lực lượng, lập hội, nhóm với tên gọi, khẩu hiệu, tôn chỉ, mục đích dễ gây “ấn tượng” với thị hiếu của từng nhóm xã hội nhất định, như “Diễn đàn xã hội dân sự”, “Hội tù nhân lương tâm”, “Hội phụ nữ nhân quyền”, “Hội bầu bí tương thân”, “Hội nhà báo độc lập”, “Hội anh em dân chủ”,... 
Thủ đoạn mà các đối tượng chống đối sử dụng phổ biến hiện nay là thông qua các trang web, diễn đàn trực tuyến, nhất là mạng xã hội để công khai tổ chức, tuyên truyền, lừa bịp, lôi kéo quần chúng tham gia; sử dụng các phần mềm bảo mật để liên lạc, tổ chức huấn luyện, đào tạo trực tuyến cho thành viên; công khai viết “đơn kiến nghị” đòi thành lập đảng chính trị đối lập, tự do thành lập hội mà không tuân theo quy định pháp luật, đòi khởi kiện, vu cáo, xuyên tạc Nhà nước ta vi phạm các điều ước quốc tế về quyền dân sự... Ngoài ra, các đối tượng này còn tìm cách chia rẽ nội bộ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, lợi dụng các khuyết điểm trong quản lý đất đai, môi trường... để kích động khiếu kiện, tụ tập đông người, biểu tình, xuyên tạc tình hình, hạ uy tín cán bộ; thông qua các hoạt động này để tập hợp lực lượng, gây thanh thế, từng bước nhen nhóm và thành lập tổ chức chính trị đối lập... Tại các địa bàn chiến lược, các đối tượng chống đối đẩy mạnh xuyên tạc chính sách dân tộc, tôn giáo; kích động tư tưởng ly khai, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, khơi gợi, khoét sâu mâu thuẫn dân tộc, tuyên truyền phát triển các tổ chức tôn giáo phi pháp, tụ tập “xưng vua”... 
Bên cạnh đó, dưới danh nghĩa đại diện các tổ chức “XHDS”, một số đối tượng chống đối đã tham gia các buổi điều trần ở nước ngoài, vu cáo Việt Nam vi phạm “dân chủ”, “nhân quyền”, đề nghị can thiệp trả tự do cho các đối tượng chống đối trong nước bị bắt do vi phạm pháp luật... Đặc biệt, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị triệt để lợi dụng tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống đang diễn ra trong một bộ phận đảng viên, tình trạng yếu kém, sai phạm của một số cán bộ để thổi phồng, cường điệu hóa khuyết điểm, “hạ bệ” uy tín chính trị của Đảng, lôi kéo người dân tham gia các tổ chức mang danh nghĩa “XHDS” để tiến hành các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước. Thực tế những năm qua cho thấy, một số tổ chức phi chính phủ (NGO) nước ngoài rất quan tâm đến các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội ở nước ta và tìm cách xâm nhập, tác động, hướng lái hoạt động, chuyển hóa dần các tổ chức này khi chưa đủ điều kiện, thời cơ thành lập tổ chức đối lập. Thông qua các hoạt động, như triển khai dự án, tài trợ tài chính, tổ chức hội thảo với các NGO Việt Nam, một số tổ chức nước ngoài đã đi sâu xâm nhập, tìm hiểu nội bộ, xu hướng quan điểm của các NGO Việt Nam, kích động các tổ chức này thoát ly vai trò lãnh đạo của Ðảng và sự quản lý của Nhà nước, cổ vũ quyền “tự do lập hội” theo tiêu chí phương Tây. Ngoài ra, một số tổ chức nước ngoài còn hỗ trợ tài chính cho một số NGO Việt Nam để xuất bản, phát hành tài liệu nghiên cứu, văn bản luật nước ngoài nhằm tuyên truyền quan điểm, pháp luật phương Tây đến với công chúng Việt Nam một cách công khai.
Các tổ chức phản động nước ngoài cũng tìm cách thúc đẩy hình thành “XHDS” tại Việt Nam với mục đích chống phá từ bên trong. Tổ chức “Bảo vệ người lao động” (tại Ba Lan) gia tăng hoạt động với ý đồ chuyển hướng xâm nhập vào trong nước, thúc đẩy hình thành các tổ chức “công đoàn tự do”. Tổ chức “Mạng lưới tuổi trẻ Việt Nam lên đường” đã tiến hành “Đại hội thanh niên sinh viên Việt Nam trên thế giới lần thứ V” vào tháng 1-2008 tại Ma-lai-xi-a. Tại “đại hội” này, các đối tượng tham gia cho rằng để tiến hành “cuộc cách mạng hòa bình” tại Việt Nam thì phải xây dựng được một “XHDS bền vững” và muốn thay đổi xã hội thì không chỉ trên phương diện chính trị, mà còn trên các phương diện kinh tế, luật pháp, trong mỗi cộng đồng dân cư. Qua đây cho thấy, các thế lực thù địch bên ngoài đặc biệt quan tâm đến việc lợi dụng “XHDS” để thực hiện âm mưu lật đổ Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Ðáng chú ý là, một số đối tượng cơ hội chính trị có quan điểm cực đoan đã lợi dụng một số tổ chức quần chúng hợp pháp để tổ chức các hội thảo, tọa đàm, diễn đàn có nội dung đòi “trưng cầu ý dân” về Ðiều 4 của Hiến pháp cũng như sửa đổi toàn bộ Hiến pháp, thúc đẩy hình thành “XHDS” và thực hiện các quyền tự do dân chủ, tự do ngôn luận, báo chí, lập hội theo tiêu chí phương Tây, tư hữu hóa đất đai... Ðây là phương thức chống đối công khai rất nguy hiểm, nếu thiếu cảnh giác có thể tạo môi trường để các thế lực thù địch lợi dụng các tổ chức “XHDS” đưa ra những kiến nghị thay đổi thể chế, chuyển đổi hệ thống luật pháp XHCN bằng luật pháp tư sản.
Vì sao các thế lực thù địch, cơ hội chính trị gia tăng hoạt động lợi dụng vấn đề “xã hội dân sự” để chống phá?
Một số học giả trên thế giới có quan điểm chống cộng rất đề cao vai trò của “XHDS” trong các cuộc “cách mạng sắc màu” lật đổ chế độ XHCN. Giữa những năm 80 của thế kỷ XX, ngay sau khi khởi xướng cải tổ với việc M. Goóc-ba-chốp chủ trương “công khai hóa” và “dân chủ hóa”, các tổ chức đoàn thể phi chính thức và các ấn phẩm tuyên truyền cho tự do hóa tư sản dưới nhiều hình thức đã mọc lên “như nấm sau mưa” ở Liên Xô. Ngày 28-12-1987, xã luận đăng trên báo Sự thật cho biết, Liên Xô khi đó đã có hơn 30.000 tổ chức, đoàn thể phi chính thức. Do thái độ ủng hộ của M. Goóc-ba-chốp, ngày càng có nhiều tổ chức đoàn thể xã hội chống đối Đảng, chính quyền Xô-viết được công khai hóa, hợp pháp hóa. M. Goóc-ba-chốp không những cho phép các đoàn thể phi chính thức tồn tại mà còn cổ vũ thành lập các đảng phái, từng bước thực hiện chế độ đa đảng. Các đảng đối lập ra đời và sau đó đã giành được chính quyền tại một loạt địa phương dưới cái gọi là “bầu cử tự do” là hệ quả trực tiếp của chính sách nêu trên. Những tổ chức này trắng trợn xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ, hạ bệ các nhà lãnh đạo Liên Xô trước đây, phủ nhận thành tựu của chủ nghĩa xã hội, ngang nhiên hô hào chống chế độ và Nhà nước Xô-viết. Đây là một trong những nhân tố trực tiếp dẫn đến sự tan rã của Liên Xô. 
Tại Ðông Âu ngay từ những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, ở một số nước đã hình thành các công đoàn, hội có xu hướng tách khỏi quản lý của nhà nước, đối lập với chính quyền, hoạt động với danh nghĩa là “tổ chức XHDS” nhân danh bảo vệ công nhân, bảo vệ các quyền dân sự. Thông qua việc lôi kéo quần chúng, với sự hỗ trợ từ nước ngoài, một số tổ chức Công giáo, được kích hoạt thêm bởi các chính sách “công khai hóa”, “dân chủ hóa” và chính sách đối ngoại với đồng minh của M. Goóc-ba-chốp, những tổ chức này nhanh chóng chuyển hóa thành tổ chức chính trị đối lập, đóng vai trò trọng yếu trong việc hạ bệ uy tín của nhà nước, thúc đẩy hình thành chế độ đa đảng và giành chính quyền thông qua cái gọi là “bầu cử dân chủ”. Các cuộc “cách mạng đường phố” tại các nước khu vực Trung Ðông - Bắc Phi hay “cách mạng nhung”, “cách mạng màu” ở một số nước thuộc không gian hậu Xô-viết thời gian qua cũng cho thấy vai trò của các cơ quan đặc biệt nước ngoài, các NGO trong việc hỗ trợ các tổ chức XHDS trong nước lôi kéo, kích động quần chúng lật đổ các chính thể hợp pháp, gây nên tình trạng khủng hoảng chính trị, thậm chí có nước còn lâm vào cảnh chia rẽ, xung đột triền miên, lãnh thổ bị chia cắt lâu dài.
Chúng ta không phủ nhận vai trò nhất định của các tổ chức xã hội, hiệp hội, quỹ, diễn đàn,... nhất là khả năng tham gia giải quyết một số vấn đề xã hội tại cộng đồng hay nhóm xã hội cụ thể; tập hợp nguyện vọng đa dạng của các tầng lớp trong xã hội phản ánh đến Đảng và Nhà nước; trực tiếp đứng ra cung ứng một số dịch vụ xã hội do Nhà nước ủy quyền, hoạt động trong khuôn khổ quy định pháp luật. Trên thực tế, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng thiết lập các tổ chức xã hội đa dạng theo ngành nghề, lợi ích, nhu cầu, nhân đạo, hữu nghị, sở thích... và không ngừng hoàn thiện quy định pháp luật để phát huy vai trò của các tổ chức này thật sự có ích cho xã hội, cho người dân. Các tổ chức NGO nước ngoài hoạt động tại nước ta thật sự có đóng góp cho cộng đồng, phát triển xã hội, tôn trọng pháp luật Việt Nam đều được tôn trọng, khuyến khích. 
Nhưng cần thấy rõ rằng, ở nhiều quốc gia, nhất là những nước đang phát triển, sự hình thành các tổ chức của “XHDS” thường chịu sự tác động của nhiều nhân tố, trong đó có các lực lượng chính trị từ bên ngoài thông qua nhiều hình thức và con đường khác nhau. Vậy chúng ta cần nhận thức về “XHDS” như thế nào?
Cùng với thực tế tồn tại và phát triển ngày càng phong phú của các tổ chức hội quần chúng, thuật ngữ “XHDS”, “tổ chức XHDS” được thảo luận, bàn luận khá sôi nổi ở nước ta. Tuy nhiên, đây là vấn đề chính trị, xã hội rất phức tạp, còn nhiều nhận thức khác biệt, thậm chí đối lập nhau, tùy thuộc vào góc độ tiếp cận. Hiện nay, đang tồn tại hai khuynh hướng nhận thức phổ biến về vấn đề XHDS: Một là, tuyệt đối hóa, đề cao quá mức vai trò của “XHDS”, cho rằng cần đẩy nhanh sự phát triển của “XHDS” ở Việt Nam, đồng nhất quá trình này với thực hiện dân chủ hóa, xem đây là “liều thuốc vạn năng” cho khắc phục những giới hạn của quản lý nhà nước và giải quyết tiêu cực trong đời sống xã hội phát sinh từ cơ chế thị trường; hai là, coi “XHDS” mang tính tiêu cực, “đối lập” với Nhà nước XHCN, là vấn đề nhạy cảm, nên né tránh, ngại đề cập và không khuyến khích nghiên cứu, tìm hiểu, thậm chí dựa vào các tổ chức xã hội hoạt động theo kiểu “bất tuân dân sự”, gây nên tình trạng vô chính phủ, bất ổn chính trị - xã hội ở nhiều nước trên thế giới rồi bài xích, phủ nhận sạch trơn vai trò các hội, quỹ, diễn đàn trong tham gia quản lý phát triển xã hội. Việc chưa thống nhất nhận thức khiến cho cách tiếp cận, ứng xử đối với vấn đề XHDS hiện nay của các cơ quan chức năng đang khá lúng túng. 
Bản chất và những đặc điểm của “xã hội dân sự” mà các thế lực thù địch, cơ hội chính trị thường lợi dụng để chống phá
Khái niệm “xã hội dân sự” gây nên nhiều tranh cãi tại Việt Nam, có người đặt nó đối nghĩa với “xã hội chính trị”, có người lại xem nó đối lập với “xã hội quân sự”. Nhiều người không thừa nhận khái niệm này vì nội hàm và ngoại diên không tường minh, bởi khó có thể định nghĩa một “xã hội” (dân sự) trong “xã hội” (tổng thể) mà nhân loại lâu nay đã phân định thành các phân hệ - lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường. Có người xem các hiệp hội, tổ chức xã hội chính, quỹ, diễn đàn... là những biểu hiện cụ thể của “XHDS”, nhưng người khác lại cho rằng đó chính là các thiết chế xã hội gắn với các thể chế tương ứng, đâu phải là một “xã hội”. Một định nghĩa về XHDS được chia sẻ rộng rãi: “XHDS là không gian xã hội công cộng nằm ngoài nhà nước, thị trường và lĩnh vực riêng tư của cá nhân, bao gồm tổng thể các định chế xã hội độc lập tương đối với nhà nước và hoạt động tự nguyện trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, truyền thông đại chúng, tôn giáo, xã hội...”. 
Điều đó cho thấy, không có định nghĩa thống nhất về “XHDS” mà nó thường bị giải thích một cách chủ quan bởi ý chí của người muốn sử dụng khái niệm này. Các thế lực thù địch và cơ hội chính trị lợi dụng tính không rõ ràng, thiếu tính lịch sử - cụ thể của khái niệm này để giải thích nội hàm “XHDS” theo tiêu chí của các nước phương Tây. Trong các nền dân chủ đa đảng, ranh giới giữa một tổ chức của XHDS và đảng chính trị rất mong manh. Một tổ chức xã hội khi đủ điều kiện và đăng ký tham gia tranh cử vào nghị viện, nếu giành được một tỷ lệ phiếu nhất định trong các cuộc bầu cử (theo quy định của các nước rất khác nhau), thì được xếp vào đảng chính trị và nhận được hỗ trợ tài chính từ phía nhà nước để hoạt động. Thậm chí nếu giành được số phiếu cao có thể trở thành đảng chính trị có vị thế trong đời sống chính trị đất nước. Còn các tổ chức xã hội không hội đủ số phiếu cần thiết, cùng với các hiệp hội, quỹ, diễn đàn, viện nghiên cứu độc lập... được xem là thành tố cấu thành của “XHDS”. Ngay bản thân tài chính của các tổ chức xã hội, viện nghiên cứu độc lập, quỹ, diễn đàn này, một mặt, dựa vào khả năng tự huy động; mặt khác, nhận đấu thầu các gói dịch vụ có nguồn gốc tài chính ngân sách để thực hiện các mục tiêu của chính phủ. Những tổ chức của “XHDS” có vị thế lớn đều có lực lượng chính trị này hay lực lượng chính trị khác đứng sau chi phối, gây ảnh hưởng, thông qua cung cấp tài chính và định hướng mục tiêu hoạt động. 
Trong các nước chuyển đổi chế độ chính trị ở Đông Âu, không gian hậu Xô-viết, Bắc Phi - Trung Đông, cũng như ở nhiều nơi khác, đã từng diễn ra các trường hợp một tổ chức của “XHDS” bằng các chiêu trò dân túy và sự hà hơi, tiếp sức từ bên ngoài, chỉ trong một thời gian ngắn chuyển hóa thành đảng chính trị thực hiện “cách mạng nhung”, “cách mạng màu” rồi trở thành đảng cầm quyền. Các NGO nước ngoài nhân danh “XHDS” hoạt động trên lãnh thổ nước khác hoạt động rất ráo riết để cổ vũ cho thúc đẩy các hoạt động “cách mạng đường phố”, mà đứng sau đều chịu sự chi phối bởi các chính phủ đã cung cấp tài chính. Vì vậy, Tổng thống Nga V. Pu-tin rất mạnh tay với các tổ chức NGO nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ nước Nga; nhiều nước khác cũng rất cảnh giác, thận trọng, tìm cách quản lý, kiểm soát các tổ chức này nếu không muốn gây nên nguy cơ bất ổn xã hội. 
Do các tổ chức xã hội có vai trò tích cực nhất định, nên các đối tượng thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã ra sức lợi dụng, tuyệt đối hóa đặc điểm này để tranh thủ quần chúng, tập hợp lực lượng một cách công khai nằm ngoài sự quản lý của Nhà nước. Họ lợi dụng các kẽ hở về mặt pháp luật, các vấn đề tiêu cực trong xã hội, vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo... để tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, khi thời cơ chín muồi sẽ hình thành tổ chức chính trị đối lập tại Việt Nam. Có thể nhận dạng mấy điểm sau đây của XHDS:
Thứ nhất, dù những người cổ vũ cho XHDS tự cho rằng XHDS có tính “độc lập” với Nhà nước và không mang bản chất giai cấp, nhưng thực tế cho thấy, XHDS (bao gồm các tổ chức hội, hiệp hội, đoàn thể, tổ chức phi chính phủ, quỹ, diễn đàn...) đều mang tính chính trị, luôn tiềm ẩn nguy cơ bị các thế lực thù địch lợi dụng để tiến hành các hoạt động chống Đảng và Nhà nước. “Xã hội dân sự” chính là môi trường mà trong chính bản thân các thành tố cấu thành cũng diễn ra cuộc đấu tranh giữa các nhóm lợi ích trên mọi phương diện, từ chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa... Do đó, các lực lượng, phe phái, đảng phái chính trị luôn tìm cách chi phối, vận động, lôi kéo lực lượng XHDS hoặc chính các thành tố của XHDS (hội, hiệp hội, đoàn thể, quỹ, diễn đàn...) để đạt được mục tiêu, lợi ích của mình đều bị chi phối bởi các thế lực chính trị hoặc bị chính trị hóa ở các mức độ, hình thức khác nhau. Thực tế cho thấy, thời gian qua, các thế lực thù địch đã và đang triệt để lợi dụng, thúc đẩy hình thành XHDS đối lập với Đảng, hoạt động ngoài sự quản lý của Nhà nước, tạo tiền đề cho can thiệp, lật đổ dưới danh nghĩa “chuyển hóa dân chủ”, đưa các lực lượng chống đối lên nắm chính quyền. 
Thứ hai, vốn mang tính đa dạng về lợi ích, thành phần, do đó XHDS cũng mang tính đa dạng, đa nguyên về tư tưởng. Đặc trưng này phản ánh tính phức tạp về tư tưởng, văn hóa trong đời sống XHDS. Đối với Việt Nam, sự hình thành của XHDS còn chứa đựng nguy cơ xuất hiện, hình thành hoặc du nhập những khuynh hướng tư tưởng chính trị đối lập với Đảng Cộng sản, tiền đề trực tiếp dẫn đến đa nguyên về chính trị. 
Thứ ba, Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, ý thức công dân, ý thức pháp luật của một bộ phận không nhỏ người dân còn hạn chế; hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, quản lý của chính quyền còn nhiều lỗ hổng; lại có những đặc điểm phức tạp, đa dạng về tôn giáo, dân tộc, di tồn lịch sử của chế độ thực dân... Do đó, sự hình thành và phát triển các yếu tố của XHDS luôn tiềm ẩn nguy cơ bị lợi dụng dẫn đến chia rẽ, xung đột, hỗn loạn, vô chính phủ, mất ổn định chính trị, xã hội của đất nước.
Thứ tư, XHDS bao hàm nhiều tổ chức xã hội có tính đa dạng về thành phần, mục đích hoạt động, lợi ích, thiếu tính tổ chức chặt chẽ, do đó nó dễ bị các cá nhân, tổ chức có điều kiện chi phối, lợi dụng để thực hiện các mục đích riêng và tiềm ẩn nguy cơ gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia và trật tự, ổn định xã hội. Tính chất đa dạng, phức tạp của XHDS cho thấy đây là khu vực không thuần nhất, tính đồng thuận không cao và thiếu tính nhất quán. Tổ chức XHDS hình thành chủ yếu dựa trên những mối quan hệ và liên kết mềm, tự nguyện, tự quản, tính thống nhất không cao nên dễ xảy ra nguy cơ các tổ chức này chỉ chạy theo lợi ích cục bộ mà không quan tâm đến lợi ích chung, toàn xã hội, tạo ra các “lệ” riêng, có thể gây cản trở đến việc thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước, thậm chí có trường hợp bị biến tướng phục vụ cho lợi ích của cá nhân, tổ chức có điều kiện chi phối. Thực tế cho thấy, tuyệt đối hóa vai trò các tổ chức của XHDS, xem nhẹ quản lý của Nhà nước, chỉ dẫn đến tình trạng vô chính phủ, tiền đề cho rối loạn, bất ổn. Do tính chất đa dạng và phức tạp này mà XHDS luôn tiềm ẩn nguy cơ bị các đối tượng, tổ chức thù địch cả trong và ngoài nước mua chuộc, chi phối, lợi dụng nhằm thực hiện mưu đồ chính trị đen tối.
Thứ năm, một số tổ chức xã hội có vai trò, ảnh hưởng xã hội nhất định, số lượng thành viên đông đảo luôn trở thành mục tiêu tác động, chi phối, lợi dụng của các thế lực thù địch nhằm biến các tổ chức này thành các tổ chức chính trị đối lập với Đảng, thoát ly khỏi sự quản lý của Nhà nước Việt Nam. Một bộ phận các tổ chức xã hội, đặc biệt là các hội, liên hiệp hội, tổng hội có tổ chức mang tính hệ thống cả theo chiều dọc lẫn chiều ngang, với số lượng thành viên đông, có ảnh hưởng nhất định đối với quần chúng. Các tổ chức này trở thành mục tiêu lợi dụng của các thế lực thù địch để tìm cách tác động đến các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thông qua các hoạt động “vận động hành lang”, hội thảo, kiến nghị, nhất là những vấn đề hệ trọng, nhạy cảm, như chế độ sở hữu đất đai, an ninh mạng, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc... Do đó, nếu không có những quy định pháp lý đủ mạnh, thiếu hiệu lực quản lý của các cơ quan chức năng để các hoạt động “vượt rào” thì các tổ chức này rất dễ bị lợi dụng, biến thái và biến tướng thành các lực lượng hỗ trợ tích cực cho thúc đẩy “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, thậm chí chuyển hóa thành tổ chức đối lập về chính trị. 
Một số vấn đề đặt ra trong đấu tranh với các quan điểm, âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề “xã hội dân sự”
Một là, cần nhận thức đầy đủ về XHDS và có cách “ứng xử” phù hợp với vấn đề “XHDS”. Phải thẳng thắn bác bỏ và phê phán, đấu tranh kiên quyết với các quan điểm khuyến khích, cổ vũ XHDS với ý đồ thúc đẩy hình thành các tổ chức chính trị đối lập. Hiện nay, nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn liên quan đến XHDS chưa được nghiên cứu thấu đáo, hiệu lực và công cụ quản lý của Nhà nước, ý thức pháp luật của người dân còn có những hạn chế. Do đó, nếu chúng ta buông lỏng, thả nổi cho sự hình thành, phát triển “XHDS” sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy phức tạp, khó kiểm soát, nhất là dưới góc độ quản lý nhà nước, cũng như bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước và bảo vệ an ninh quốc gia. 
Hai là, kịp thời tham mưu cho Đảng, Nhà nước có chủ trương, chính sách, biện pháp hạn chế đến mức thấp nhất những hệ lụy, ảnh hưởng tiêu cực của XHDS mà các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lợi dụng chống phá cách mạng Việt Nam. Cần tổ chức nghiên cứu bài bản, có hệ thống về XHDS, các yếu tố của XHDS, nhất là làm rõ khái niệm, bản chất của XHDS; XHDS và các yếu tố cấu thành, biểu hiện cụ thể của XHDS; các hình thức của XHDS gắn với điều kiện lịch sử - cụ thể, nhất là chế độ chính trị, truyền thống văn hóa, trình độ phát triển kinh tế - xã hội; cấu trúc của XHDS và quan hệ của XHDS với nhà nước, thị trường, tôn giáo, mạng xã hội, gia đình; vai trò, ưu thế và giới hạn, mặt tiêu cực của XHDS; yếu tố ngoại sinh và nội sinh của XHDS; các hình thức lợi dụng XHDS của các thế lực thù địch và cơ hội chính trị. Từ những kết quả nghiên cứu này sẽ giúp cho Đảng, Nhà nước chủ động có chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm quản lý các tổ chức xã hội, các NGO, vừa phát huy mặt tích cực, vừa định hướng hoạt động lành mạnh phù hợp với thể chế chính trị, đặc điểm về kinh tế, văn hóa và xã hội của đất nước, triệt tiêu các yếu tố có thể bị lợi dụng để hình thành lực lượng chính trị đối lập, gây bất ổn chính trị - xã hội. Đồng thời, làm tốt công tác tư tưởng, tuyên truyền nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân không bị các thế lực thù địch kích động, lôi kéo thông qua danh nghĩa tổ chức XHDS. 
Ba là, trong điều kiện có sự tồn tại khách quan của một số loại tổ chức có tính chất “XHDS”, cần tham mưu cho Đảng, Nhà nước xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật nhằm phát huy đầy đủ vai trò của các tổ chức này, hạn chế những tác động tiêu cực của nó và có các biện pháp quản lý phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước, phù hợp với cơ chế vận hành của thể chế chính trị, giữ vững bản chất của chế độ. Sự quản lý và định hướng có hiệu quả, bằng pháp luật của Nhà nước sẽ tạo ra một môi trường dân chủ, lành mạnh cho sự phát triển hài hòa của toàn xã hội. Mặt khác, cần củng cố, đổi mới, phát huy tính tích cực và chủ động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội để làm tốt chức năng đoàn kết, tập hợp, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, giám sát và phản biện xã hội, bảo vệ quyền lợi của nhân dân trước tác động bởi mặt trái của cơ chế thị trường và toàn cầu hóa. 
Đồng thời, quán triệt tinh thần Đại hội XII của Đảng: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”(1), định hướng đổi mới tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội, hiệp hội, đoàn thể ở Việt Nam phải gắn liền với việc xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; gắn với đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện nền dân chủ XHCN. 
Bốn là, các lực lượng nòng cốt các cấp căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ cụ thể được giao, vận dụng các biện pháp đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề “XHDS” xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Trong đó, vấn đề cấp bách hiện nay là tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với các tổ chức hội và NGO Việt Nam, không để các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lợi dụng tác động, chuyển hóa thành tổ chức XHDS theo tiêu chí phương Tây. 
Đồng thời phối hợp chặt chẽ với các lực lượng chức năng khác đẩy mạnh đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng - lý luận, ngăn chặn hoạt động truyền bá tư tưởng, thổi phồng, tuyệt đối hóa vai trò của XHDS theo mô hình, tiêu chí của phương Tây, cổ vũ thành lập các tổ chức chính trị đối lập, các tổ chức phản động dưới danh nghĩa, vỏ bọc của tổ chức “XHDS”; phối hợp tuyên truyền, vận động các nhân sĩ, trí thức, học giả đang sinh hoạt tại các hội, liên hiệp hội, tổng hội nâng cao cảnh giác trước luận điệu của các thế lực thù địch về cái gọi là “hình mẫu lý tưởng” của “XHDS” phương Tây, cũng như tích cực tham gia đấu tranh tư tưởng - lý luận. Đồng thời, vạch rõ những điểm không phù hợp (cả về lý luận và thực tiễn) của “XHDS” theo hình mẫu phương Tây đối với xã hội Việt Nam; vạch rõ mưu đồ chính trị của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị thông qua việc lợi dụng vấn đề “XHDS” để tác động, chuyển hóa chế độ chính trị tại Việt Nam. Bên cạnh đó, sử dụng các biện pháp, phương tiện ngăn chặn, vô hiệu hóa các con đường, cách thức truyền bá vấn đề “XHDS” theo hình mẫu phương Tây vào Việt Nam, đặc biệt là thông qua các phương tiện truyền thông xã hội, hợp tác, trao đổi về văn hóa, khoa học, giáo dục - đào tạo... Đấu tranh, ngăn chặn, xử lý kịp thời hoạt động của các thế lực thù địch bên ngoài câu kết, hậu thuẫn cho số đối tượng chống đối trong nước thành lập các tổ chức phản động dưới danh nghĩa, vỏ bọc XHDS./.
-----------------------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 149