Thứ Sáu, 19 tháng 7, 2019

NHẬN DIỆN NHỮNG PHƯƠNG THỨC MỚI TRONG THỰC HIỆN ÂM MƯU "PHI CHÍNH TRỊ HÓA" QUÂN ĐỘI"


Thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch dùng mọi phương thức trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội: Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại để chống phá cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, các thế lực thù địch thực hiện âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội là một trong những mũi tấn công chủ yếu nhằm tìm cách thủ tiêu, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam; làm cho quân đội không phải là “phi chính trị”, mà là từ “phi chính trị” cách mạng-chính trị vô sản chuyển sang một thứ chính trị khác-chính trị tư sản!
“Phi chính trị hoá” quân đội là âm mưu cơ bản, xuyên suốt của các thế lực thù địch trong quá trình chống phá QĐND Việt Nam. Tuy nhiên, trong từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, các thế lực thù địch thực hiện những phương thức khác nhau, phù hợp với những đặc điểm của mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể. Trong bối cảnh tình hình thế giới hiện nay là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nhất là Cách mạng công nghiệp 4.0, quá trình toàn cầu hóa không chỉ tiếp tục được khẳng định như một xu hướng tất yếu mà còn có xu hướng phát triển ngày càng nhanh cả về quy mô, tốc độ, tính chất và phạm vi ảnh hưởng. Những khái niệm như “biên giới mềm”, “thế giới phẳng” đang được người ta sử dụng để biện hộ cho một quan niệm phi lý rằng, thế giới ngày nay không còn có các chế độ chính trị-xã hội khác nhau, đối lập nhau, để đi tới một thế giới “phi chính trị”, mà thực chất là đem hệ tư tưởng chính trị tư­ sản áp đặt lên tất cả các quốc gia dân tộc!
Quá trình thực hiện công cuộc đổi mới đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, trước sự tác động của quá trình toàn cầu hóa, của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, bên cạnh những mặt tác động tích cực, thì quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế không thể không chịu sự tác động từ mặt tiêu cực, không chỉ về kinh tế, mà còn về văn hóa, xã hội, thậm chí cả về chính trị tư tưởng. Đối với Quân đội ta, quá trình thực hiện phương hướng xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, nhất là quá trình từng bước hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự, đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong mọi tình huống, chúng ta không thể không thực hiện quá trình mở cửa, giao lưu, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng.
Dưới tác động của những đặc điểm mới trên đây, trong thực hiện phương thức “phi chính trị hóa” Quân đội ta hiện nay, đi đôi với những phương thức quen thuộc, các thế lực thù địch đang và sẽ triệt để tận dụng những đặc điểm của bối cảnh tình hình mới đó để tấn công phá hoại trận địa tư tưởng trong Quân đội ta. Thông qua việc triệt để lợi dụng công nghệ thông tin, nhất là thông qua mạng internet toàn cầu, thông qua các trang mạng xã hội; thông qua những “đoàn ra”, “đoàn vào” của Việt Nam và của các nước, các tổ chức có quan hệ với Việt Nam; thông qua việc gửi cán bộ, nhân viên đi nghiên cứu, tham quan, học tập ở nước ngoài và việc người nước ngoài đến Việt Nam ngày càng nhiều với nhiều mục đích khác nhau, các thế lực thù địch đang và sẽ tiếp tục tấn công toàn diện vào nền tảng tư tưởng của Quân đội ta là Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Làm cho cán bộ, chiến sĩ quân đội dần dần phai nhạt niềm tin vào mục tiêu, lý tưởng XHCN, dần dần xa rời hệ tư tưởng cách mạng, khoa học, từng bước tạo ra một “khoảng trống” về ý thức hệ, pha loãng, làm nhạt dần ý thức hệ vô sản để trượt dần sang ý thức hệ tư­ sản!
Công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN của nhân dân ta trong những năm qua, đặc biệt là qua hơn 30 năm đổi mới đất nước vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH), dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự phấn đấu phi thường của toàn dân, toàn quân ta, cùng với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, chúng ta vẫn còn những hạn chế, bất cập. Hiện nay, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi mới tạo điều kiện cho chúng ta xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội, thì chúng ta vẫn đang và sẽ phải tiếp tục đối mặt với những nguy cơ, khó khăn, thách thức mới. Các thế lực thù địch đang và sẽ tiếp tục lợi dụng những đặc điểm mới của tình hình để chống phá Quân đội ta, đẩy mạnh thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội bằng những phương thức mới ngày càng tinh vi hơn, xảo quyệt hơn, khó nhận biết hơn.
Đáng chú ý là, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta ngày càng đi vào chiều sâu, bên cạnh mặt tác động tích cực đến quá trình cách mạng nước ta, thì mặt tiêu cực của nó cũng ngày càng tác động mạnh mẽ hơn, toàn diện hơn đến mọi mặt của đời sống xã hội, đến việc xây dựng quân đội cách mạng, cả về chính trị, đạo đức, lối sống, đoàn kết, dân chủ, kỷ luật. Những tiêu cực của xã hội, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí… đang có chiều hướng gia tăng; sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân; những yếu kém, bất cập trong quản lý đất nước, quản lý xã hội của một bộ phận cán bộ, công chức Nhà nước; những rạn nứt, những mâu thuẫn xã hội trong các tầng lớp nhân dân… đang và sẽ từng ngày, từng giờ tác động đến tư tưởng, tình cảm, niềm tin của các tầng lớp nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, đối với tính ưu việt của CNXH… Quá trình mở cửa, giao lưu, hợp tác quốc tế, bên cạnh mặt tích cực thúc đẩy quá trình phát triển thì mặt tiêu cực cũng tác động không nhỏ đến nước ta, nhất là sự du nhập của các giá trị phản văn hoá, sự du nhập của đạo đức, lối sống thực dụng, đề cao giá trị vật chất, coi trọng đồng tiền, đang từng ngày tác động làm băng hoại những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp trong mỗi người dân Việt Nam yêu nước, yêu CNXH.
Trong những điều kiện đó, để thực hiện âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” Quân đội ta, các thế lực thù địch đang và sẽ tiếp tục thực hiện phương thức tấn công mới. Nhận thấy việc tấn công trực tiếp vào chính trị, làm cho Quân đội ta suy yếu về chính trị khó có thể thực hiện được đối với một quân đội đã có bề dày truyền thống đấu tranh cách mạng, được tôi luyện trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, các thế lực thù địch đang và sẽ chuyển sang triển khai mạnh mẽ mũi tấn công vào đạo đức, lối sống. Đây là mũi tấn công cực kỳ thâm độc và nguy hiểm. Tính chất nguy hiểm của mũi tấn công này là ở chỗ: Chúng sẽ làm cho một bộ phận cán bộ, chiến sĩ thiếu bản lĩnh, không tích cực tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống cách mạng… sẽ dần dần bị sa đọa về đạo đức, lối sống, quen dần với cuộc sống hưởng thụ, đề cao, tuyệt đối hóa lợi ích vật chất, sao nhãng, xem nhẹ việc tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng cách mạng; từ chỗ loãng dần, nhạt dần về chính trị cách mạng, chính trị vô sản để trượt dần sang chính trị tư­ sản!
Để thực hiện mũi tấn công thâm độc, nguy hiểm này, các thế lực thù địch đang và sẽ triệt để lợi dụng, khai thác những mặt tiêu cực, yếu kém trong tổ chức và con người, nhất là lợi dụng những tổ chức yếu kém; những người có quan điểm, tư tưởng thù địch, sai trái, những phần tử bất mãn, thoái hóa, biến chất; những sai lầm, khuyết điểm trong xử lý các “điểm nóng”, các vụ việc tiêu cực xã hội… để tuyên truyền, kích động, lôi kéo, mua chuộc… làm cho một bộ phận cán bộ, chiến sĩ quân đội mơ hồ, suy giảm niềm tin, lung lay tư tưởng, hoài nghi sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên… dẫn đến suy giảm về chính trị vô sản, tr­ượt dần sang chính trị tư­ sản, bắt đầu từ sự sa đọa về đạo đức, lối sống!
Những năm qua, các thế lực thù địch đã triệt để tận dụng những đặc điểm mới của tình hình quốc tế, khu vực và trong nước để thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội ta với những phương thức mới, nhưng chúng đã không thể thực hiện được mục tiêu đề ra. Sức mạnh chiến đấu tổng hợp của QĐND Việt Nam nói chung, nhất là sức mạnh chính trị-tinh thần của QĐND Việt Nam ngày càng được củng cố vững chắc và từng bước được nâng cao. Quân đội ta vẫn rất xứng đáng là lực lượng chiến đấu, lực lượng chính trị tin cậy, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Nhà nước, với nhân dân, với Tổ quốc và chế độ XHCN thông qua việc thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất, giúp nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn. Quân đội ta đã hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó trong mọi điều kiện, mọi hoàn cảnh, mọi tình huống. Quân đội ta không hề bị các thế lực thù địch làm suy giảm chính trị vô sản, mà ngược lại, trận địa chính trị tư tưởng vô sản trong Quân đội ta ngày càng được củng cố, giữ vững và phát triển vững chắc.
Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, trước sự tác động của những đặc điểm mới của tình hình quốc tế, khu vực và trong nước, trước yêu cầu ngày càng có sự phát triển mới của nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ xây dựng, nâng cao sức mạnh chiến đấu tổng hợp của QĐND, trước hết là sức mạnh chính trị-tinh thần, trong điều kiện các thế lực thù địch đang và sẽ tích cực triển khai những phương thức mới trong thực hiện “phi chính trị hóa” Quân đội ta, chúng ta cần quân tâm làm tốt những vấn đề sau đây: Tăng cường bản chất cách mạng của quân đội, đặc biệt phải chăm lo xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tăng cường “sức đề kháng” của cán bộ, chiến sĩ để tích cực, chủ động phòng, chống âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” Quân đội ta của các thế lực thù địch. Thường xuyên giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ về những đặc điểm mới của tình hình quốc tế, khu vực và trong nước, mà các thế lực thù địch đang và sẽ lợi dụng để thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội bằng những phương thức mới để chủ động ngăn chặn, phòng ngừa. Nhận thức rõ hơn bản chất, âm mưu, thủ đoạn, phương thức chống phá mới của các thế lực thù địch, nhất là đấu tranh vạch trần tính chất phản khoa học của luận điểm “quân đội đứng ngoài chính trị”, thực chất của quan điểm “phi chính trị hóa” Quân đội ta của các thế lực thù địch để có biện pháp đấu tranh, phòng, chống có hiệu quả.
                                                                   Nguồn: www.qdnd.vn

Chiến lược “diễn biến hòa bình” đã ra đời như thế nào?


Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, trước sự lớn mạnh của Liên Xô và sự ra đời của một loạt nước xã hội chủ nghĩa (XHCN), hệ thống XHCN hình thành và không ngừng lớn mạnh, phong trào cách mạng thế giới phát triển nhanh chóng. Đế quốc Mỹ coi Liên Xô là đối thủ chính trên con đường thực hiện giấc mộng bá chủ thế giới. Tổng thống Mỹ H.S.Truman đề ra “chiến lược ngăn chặn”, sử dụng thủ đoạn cứng rắn, coi trọng thủ đoạn quân sự để “ngăn chặn” sự “bành trướng” của Liên Xô, sự phát triển và mở rộng của chủ nghĩa cộng sản (CNCS).
Tuy nhiên, “chiến lược ngăn chặn” không có hiệu quả cao; nhiều người trong chính giới Mỹ tỏ ra thức thời hơn, muốn tìm một phương thức khác có thể chống chủ nghĩa xã hội (CNXH) hiệu quả hơn. G.Kennan, Đại diện lâm thời sứ quán Mỹ ở Liên Xô, ngày 22-12-1946 đã đề nghị với Chính phủ Mỹ dùng các biện pháp chống Liên Xô toàn diện hơn, bao gồm bao vây quân sự, phong tỏa kinh tế, lật đổ chính trị.
Tình hình thế giới từ cuối những năm 40 của thế kỷ 20 trở đi càng chứng tỏ chính sách đối ngoại của Mỹ dựa trên sức mạnh quân sự với nền tảng độc quyền hạt nhân đã bị phá sản. Tháng 1-1961, Kennedy nhậm chức Tổng thống Mỹ và đưa ra chiến lược “phản ứng linh hoạt” thay thế chiến lược “trả đũa ồ ạt” của Tổng thống Eisenhower trước đó. Chủ trương của Kennedy đối với địch thủ Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu là vừa phải giữ thái độ cứng rắn bằng sức mạnh quân sự, vừa có thái độ mềm dẻo bằng các biện pháp hòa bình, để “giải phóng” các nước này, đưa trở lại “thế giới tự do”. Với chính sách “mũi tên và cành ô liu”, nước Mỹ đẩy mạnh chạy đua vũ trang, mặt khác cũng tăng cường thực hiện “diễn biến hòa bình”.
Tháng 1-1969, Richard Nixon lên nhậm chức Tổng thống và đã điều chỉnh chiến lược toàn cầu theo hướng giảm bớt sự đối đầu căng thẳng, tăng cường đối thoại hòa bình giữa Mỹ và các đối thủ. Richard Nixon thay thế chiến lược “phản ứng linh hoạt” của thời Kennedy, B.Johnson bằng chiến lược “răn đe thực tế” với chính sách “cây gậy và củ cà rốt”. Tuy vẫn coi trọng răn đe hạt nhân, nhưng đã giảm bớt lực lượng quân sự ở nước ngoài; tạo thế cân bằng giữa các nước lớn; tăng cường tiếp xúc hòa bình với các nước XHCN, lấy hòa hoãn thay dần cho “chiến tranh lạnh”; qua tiếp xúc, hòa hoãn để thẩm thấu tư tưởng và văn hóa, tác động vào kinh tế, phá hoại quốc phòng, an ninh, gieo rắc hạt giống chống phá CNXH từ bên trong.
Sang thập kỷ 80 của thế kỷ 20, thế giới có những biến chuyển lớn. Trọng điểm cạnh tranh quốc tế đã dần dần chuyển từ chạy đua vũ trang sang phát triển và cạnh tranh về sức mạnh tổng hợp quốc gia, trong đó lấy khoa học công nghệ làm tiên phong, kinh tế làm cơ sở và quân sự làm hậu thuẫn. Nắm bắt được xu thế phát triển mới, chủ nghĩa tư bản (CNTB) đã nhanh chóng ứng dụng khoa học-kỹ thuật hiện đại vào phát triển kinh tế và trang bị quân sự. CNTB hiện đại đạt được sự ổn định và có mặt phát triển. Trong khi đó, nhiều nước XHCN lâm vào khủng hoảng. Lợi dụng cơ hội đó, chủ nghĩa đế quốc (CNĐQ) càng coi trọng chiến lược “diễn biến hòa bình”, lấy đó làm đòn tấn công chính chống phá Liên Xô và các nước XHCN.
Tổng thống Mỹ R.Reagan, từ đầu nhiệm kỳ thứ hai (1985-1988) đã chuyển hướng chiến lược đối ngoại của Mỹ, lấy “diễn biến hòa bình” làm biện pháp chính đối với các nước XHCN. Reagan đề xuất cuộc “cách mạng dân chủ” với nội dung chính là dựa vào sức mạnh tổng hợp quốc gia của Mỹ, tăng cường quan hệ kinh tế, văn hóa, đẩy mạnh tuyên truyền tư tưởng... vào các nước XHCN để chuyển hóa các nước này; coi đây như là một cuộc “thập tự chinh Đông tiến giành tự do” của CNĐQ, tấn công toàn diện vào các nước XHCN thông qua “diễn biến hòa bình”.
Cuối những năm 80 của thế kỷ 20, CNĐQ đã hoàn chỉnh chiến lược “diễn biến hòa bình”. Năm 1988, cựu Tổng thống Mỹ Nixon cho xuất bản cuốn sách “1999-chiến thắng không cần chiến tranh”. Nixon cho rằng, nhìn về tương lai, trong những năm còn lại của thế kỷ 20, nếu muốn sử dụng lại bất cứ một chính sách nào đã thất bại trong quá khứ đều không thể chấp nhận được; "ngăn chặn" đã lỗi thời, mà phải thực hiện một chiến lược mới-chiến lược “diễn biến hòa bình”.
Tháng 5-1989, Tổng thống Mỹ George H.W.Bush đưa ra chiến lược “vượt trên ngăn chặn”, trong đó, linh hồn là “diễn biến hòa bình”. Bush cho rằng, cuộc đọ sức mang tính lịch sử giữa hai chế độ TBCN và XHCN đã đi vào giai đoạn cuối cùng. Mục tiêu, biện pháp của chiến lược “vượt trên ngăn chặn” là lợi dụng chính sách cải tổ của các nước XHCN, thực hiện “diễn biến hòa bình”, lợi dụng hòa hoãn để tác động mọi mặt, làm cho các nước XHCN đi chệch hướng XHCN, dẫn đến sụp đổ, tan rã. Reagan coi Đông Âu là trọng điểm và Liên Xô là then chốt của “diễn biến hòa bình”.
Nguồn: www.qdnd.vn


BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ VỮNG VÀNG - PHẨM CHẤT QUYẾT ĐỊNH SỰ SỐNG CÒN VÀ THÀNH CÔNG CỦA CHÚNG TA


Thực tế cho thấy, sự tác động, ảnh hưởng từ những vấn đề nhạy cảm, phức tạp, đặc biệt là tác động xấu từ các quan điểm sai trái tán phát trên không gian mạng đối với xã hội hiện nay và trong tương lai là rất lớn.
Để không hoang mang, dao động trước sự tác động ấy, mỗi chúng ta, mà trước hết là cán bộ, đảng viên phải có bản lĩnh chính trị thật sự vững vàng. Thế nhưng do khả năng "miễn dịch" và “sức đề kháng” hạn chế nên trước những tác động ấy, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã có những biểu hiện hoang mang, dao động. Xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, tăng cường khả năng "miễn dịch", nâng cao "sức đề kháng” cho cán bộ, đảng viên và nhân dân là việc làm thường xuyên. Trước yêu cầu mới hiện nay, đây là vấn đề cần được đặc biệt coi trọng.
Nhìn từ góc độ y học, khả năng miễn dịch, sức đề kháng là khả năng chống lại các loại vi rút gây bệnh, hủy hoại sức khỏe con người. Như vậy, đối với sức khỏe con người, khả năng miễn dịch, sức đề kháng có vai trò hết sức quan trọng. Nguy cơ mắc các căn bệnh truyền nhiễm đối với cơ thể con người sẽ càng cao nếu khả năng miễn dịch suy giảm, sức đề kháng yếu... Tương tự, dưới góc nhìn chính trị, tư tưởng, sự vững vàng về bản lĩnh, ý chí, niềm tin sẽ có vai trò rất quan trọng quyết định "sức đề kháng", khả năng "miễn dịch" của mỗi người trước các tác động tiêu cực từ những hành động sai trái, thông tin xấu độc ngoài xã hội, sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động.
Đối với mỗi cá nhân, bản lĩnh đó chính là sự vững vàng, tính kiên định, sự chủ động thể hiện trong hành động trước những thử thách mà cuộc sống đặt ra. Đối với mỗi cán bộ, đảng viên và toàn Đảng ta, bản lĩnh chính trị là phẩm chất hàng đầu không thể thiếu. Bản lĩnh chính trị của Đảng chính là sự kiên định với mục tiêu, lý tưởng-độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH); kiên định nền tảng tư tưởng là Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng... Đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng vững vàng về bản lĩnh phải luôn kiên định, không dao động trước mọi hoàn cảnh, có ý chí, quyết tâm phấn đấu, vượt lên mọi gian khổ, khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đảng viên vững vàng về bản lĩnh chính trị phải luôn nêu cao tính chiến đấu, kiên quyết đấu tranh vạch trần, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch, góp phần làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Thời gian qua, đúng như nhận định của Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ: “Các thế lực thù địch, phản động đẩy mạnh thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình", lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo và những yếu kém, sơ hở, mất cảnh giác của ta để xuyên tạc, bóp méo tình hình; cổ xúy cho lối sống hưởng thụ, thực dụng, ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa". Đồng thời, chúng còn “cấu kết với các phần tử cơ hội và bất mãn chính trị hoạt động ráo riết, chống phá cách mạng ngày càng tinh vi, nguy hiểm hơn”. Đặc biệt, chúng tìm mọi phương kế tuyên truyền xuyên tạc, phủ nhận mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; phủ nhận bản chất cách mạng, khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Bằng những giọng điệu xuyên tạc nguy hiểm, chúng muốn gieo rắc vào cán bộ, đảng viên tư tưởng hoài nghi về mục tiêu, con đường đi lên xây dựng CNXH mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.
Trước sự chống phá ấy, cơ bản toàn Đảng, toàn dân ta có khả năng "miễn dịch" và "sức đề kháng" tốt, luôn vững vàng bản lĩnh chính trị; nhận thức đúng về bản chất cách mạng và khoa học; kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, tích cực, chủ động đấu tranh với những quan điểm sai trái, thù địch... Tuy nhiên, những tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường, những khó khăn, phức tạp nảy sinh trong quá trình hội nhập, đặc biệt là sự chống phá quyết liệt bằng nhiều âm mưu, thủ đoạn tinh vi của các thế lực thù địch, phản động đã làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức ta hoang mang, dao động, giảm sút ý chí, niềm tin. Nghị quyết hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã chỉ rõ: “Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"; việc đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị còn bị động, thiếu sắc bén và hiệu quả chưa cao”. Một số cán bộ, đảng viên không chủ động tự giác, tích cực kiên quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc mà còn cổ xúy, phụ họa “té nước theo mưa”. Một bộ phận cán bộ, đảng viên không thiết tha với việc học tập Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; không muốn tham gia các buổi học tập, quán triệt chủ trương, đường lối nghị quyết của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Do "sức đề kháng", khả năng "miễn dịch" trước các tác động tiêu cực từ những thông tin xấu độc, sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động mà trong xã hội đã có sự xuất hiện của những quan điểm phủ định mục tiêu và con đường đi lên xây dựng CNXH của nước ta. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã chỉ rõ những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, trong đó biểu hiện đầu tiên được đề cập là: “Phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Một trong những biện pháp đấu tranh phòng, chống những biểu hiện ấy là mỗi cán bộ, đảng viên phải xây dựng cho mình bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở tăng cường "sức đề kháng", khả năng "miễn dịch" trước những tác động tiêu cực từ những hành động sai trái, thông tin xấu độc, sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động. Có thể nói, bản lĩnh chính trị vững vàng là một phẩm chất quyết định sự sống còn và thành công của mỗi cán bộ, đảng viên và toàn Đảng ta. Bản lĩnh chính trị của mỗi cán bộ, đảng viên không phải tự nhiên mà có. Bản lĩnh chính trị là sản phẩm của quá trình giáo dục, bồi dưỡng, học tập và rèn luyện thường xuyên, kiên trì, bền bỉ trong thực tiễn phong trào hành động cách mạng. Bên cạnh vai trò, ý nghĩa quan trọng hàng đầu của việc đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong Đảng, để xây dựng cho mình bản lĩnh chính trị vững vàng, từng cán bộ, đảng viên vừa phải tích cực học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ lý luận, chuyên môn nghiệp vụ, vừa phải đắm mình vào phong trào hành động cách mạng để rèn luyện, tu dưỡng, bồi đắp.
Để ngăn chặn những tác động xấu từ các quan điểm sai trái, thù địch, nhất là trên không gian mạng, đòi hỏi chúng ta phải có giải pháp tổng thể, từ việc ban hành và thực thi chính sách, pháp luật của cơ quan quản lý Nhà nước,... đến ý thức tham gia xây dựng môi trường thông tin, một không gian mạng an toàn, lành mạnh của mỗi người. Trong đó, phát huy vai trò của báo chí trong tuyên truyền, giáo dục nhằm tạo cho cán bộ, đảng viên và nhân dân có "sức đề kháng", đủ “miễn dịch” trước những quan điểm sai trái, thông tin xấu độc... góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh; trước hết, chúng ta phải tuyên truyền, giáo dục để mọi người hiểu rõ bản chất cách mạng, khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tính đúng đắn, sáng tạo trong đường lối lãnh đạo của Đảng ta. Qua tuyên truyền phải định hướng, cung cấp thông tin để người dân hiểu đúng, hiểu sâu về lịch sử truyền thống dân tộc, về thành tựu của cách mạng, nhất là sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đồng thời chủ động thông tin kịp thời, phong phú và có định hướng cho công chúng về các sự kiện, vấn đề nảy sinh trong nước cũng như trong khu vực và trên thế giới, đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu nhận thức, thị hiếu chính đáng của nhân dân, thông qua đó để định hướng tư tưởng, hướng dẫn nhận thức, xây dựng, củng cố niềm tin.
Cùng với đó là đẩy mạnh tuyên truyền để nhân dân nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đặc biệt trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, các phương thức, thủ đoạn truyền bá những quan điểm sai trái mà các thế lực thù địch sử dụng ngày càng tinh vi, khó nhận biết. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, theo dõi, các cơ quan chức năng cần thông báo, phổ biến kịp thời để nhân dân nhận biết được những chiêu trò mà các thế lực thù địch, phản động áp dụng, từ đó đề cao tinh thần cảnh giác, không mắc mưu, tăng cường "sức đề kháng", đề cao trách nhiệm, tính tự giác trong đấu tranh, phản bác. Đề cao tinh thần cảnh giác là tốt và rất cần thiết, nhưng trong điều kiện hội nhập trở thành một xu thế lớn của thế giới hiện đại thì cần tránh tư tưởng cảnh giác cực đoan, nhìn đâu cũng thấy “thù địch”. Quá trình hội nhập đồng thời mở ra cả thời cơ và thách thức, đưa tới cả thuận lợi lẫn khó khăn, đó là lẽ đương nhiên. Chúng ta không nên cảnh giác một cách cực đoan, cứng nhắc mà bỏ lỡ thời cơ đón những làn gió trong lành, những thời cơ, vận hội, những nhân tố tích cực phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
                                                    Nguồn: www.qdnd.vn

“Đảng đặt lợi ích giai cấp lên trên lợi ích dân tộc” - một luận điểm xuyên tạc trắng trợn, lố bịch của những kẻ thù địch, cơ hội


Cả nước bước vào năm 2018 với tâm thế tự tin và phấn khởi trước những thành tựu đạt được trong năm 2017 và đón chào ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Song, như thường lệ, cứ vào dịp này, các thế lực thù địch và những phần tử cơ hội chính trị lại gióng lên hồi chuông hùa nhau chống phá Đảng ta một cách trơ trẽn, lố bịch. Một trong những luận điệu cũ rích mà họ đưa ra là: “Đảng đặt lợi ích giai cấp lên trên lợi ích dân tộc”.
Họ xuyên tạc rằng, ngay từ khi thành lập, Đảng đã coi lợi ích giai cấp trên lợi ích dân tộc và thậm chí, đặt lợi ích của mình cao hơn lợi ích dân tộc; chỉ chú ý củng cố quyền lực của giai cấp, thao túng, bao che cho “các nhóm lợi ích” làm giàu, bất chấp nhân dân nghèo đói, đất nước tụt hậu(!) Với lập luận đó, mưu đồ của họ là làm mất uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam, chia rẽ mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, với dân tộc!
Sự xuyên tạc của luận điệu này bị chính thực tiễn lịch sử dân tộc Việt Nam từ khi có Đảng bác bỏ. Bởi, ngay từ đầu và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đặt lợi ích của dân tộc gắn liền với lợi ích giai cấp. Điều đó xuất phát từ quan điểm: cách mạng Việt Nam gắn liền và là một bộ phận của cách mạng thế giới. Thực tế lịch sử cho thấy, vấn đề lớn nhất của nhân dân ta trong những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là làm sao giải phóng được dân tộc khỏi áp bức, thống trị của thực dân, phong kiến, để đất nước độc lập, nhân dân được tự do. Để trả lời câu hỏi ấy, nhiều cuộc khởi nghĩa, nhiều phong trào yêu nước đã nổ ra, nhiều chí sĩ cách mạng bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước, nhưng đều thất bại. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, với ý thức dân tộc mạnh mẽ đã làm tất cả để tìm ra câu trả lời cho dân tộc: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”1. Khát vọng cao cả, ước mơ cháy bỏng của Nguyễn Ái Quốc: dân tộc được giải phóng, được làm chủ; Tổ quốc được độc lập, thống nhất, giàu mạnh; nhân dân được tự do, ấm no, hạnh phúc; xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Và đó cũng là động lực, là mục tiêu xuyên suốt của cách mạng Việt Nam.
Để đi đến mục tiêu “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”, từ buổi đầu tìm đường cứu nước và trong mỗi giai đoạn cách mạng, Nguyễn Ái Quốc và Đảng ta đều nhìn nhận đúng vấn đề dân tộc và giải quyết hài hòa quan hệ giai cấp - dân tộc. Trong khi Quốc tế Cộng sản (do yêu cầu của châu Âu lúc đó) chỉ nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, thì Nguyễn Ái Quốc cho rằng: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”. Khi chủ nghĩa dân tộc thắng lợi, “nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”2. Chính vì vậy, trong “Chánh cương vắn tắt”, Người chủ trương:“Tư sản dân quyền cách mệnh và thổ địa cách mệnh, để đi tới xã hội cộng sản3. Tư tưởng đúng đắn, phù hợp đó được cụ thể hóa thành đường lối của Đảng, lập tức thu hút và tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân; đồng thời, khắc phục triệt để xu hướng dân tộc cải lương tư sản cũng như chủ nghĩa phiêu lưu tiểu tư sản (đang là trào lưu chính lúc đó), bảo đảm cho cách mạng phát triển và vượt qua những thách thức thời kỳ Xô-viết Nghệ Tĩnh (1930 - 1931), vận động dân chủ (1936 -1939), cao trào giải phóng dân tộc (1939 - 1945).
Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (03-02-1930), trên thế giới đã có các cuộc cách mạng của giai cấp công nhân giành được chính quyền, trong đó điển hình là Cách mạng Tháng Mười Nga (07-11-1917) dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đứng đầu là V.I. Lê-nin. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi và sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là cuộc vùng dậy giành chính quyền với sức mạnh to lớn của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đó là thành quả vĩ đại của sự vận dụng sáng tạo nguyên lý chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam; thành quả của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, của tinh thần: “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Thắng lợi đó, trước hết là nhờ Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta có đường lối đúng, nắm bắt và triệt để tận dụng thời cơ chín muồi; đặt quyền lợi của dân tộc lên trên hết, nên đã động viên, tập hợp được lực lượng cho cách mạng. Sức mạnh của đoàn kết dân tộc cũng là nhân tố bảo đảm cho chính quyền cách mạng non trẻ đứng vững trước “thù trong, giặc ngoài”, trong bối cảnh tình thế đất nước như “ngàn cân treo sợi tóc”.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược là cuộc đụng đầu lịch sử, lâu dài, khó khăn và vĩ đại nhất của dân tộc ta với những tên đế quốc sừng sỏ nhất. Đáp lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”4, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”5, nhân dân cả nước và kiều bào nước ngoài, “không phân biệt tôn giáo, đảng phái”, đã đoàn kết muôn người như một, phát huy cao độ truyền thống của dân tộc, chiến đấu, hy sinh, chiến thắng vẻ vang quân xâm lược, thu giang sơn về một mối. Sau Đại thắng mùa Xuân 1975, đất nước gặp những khó khăn mới, bị bao vây cấm vận từ mọi phía. Cả dân tộc lại cùng với Đảng gồng mình vượt qua “thiếu thốn trăm bề”, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và phía Bắc. Kết quả đó là nhờ Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nắm vững quan điểm, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, luôn đặt “độc lập, tự do” của dân tộc lên trên hết, quy tụ và lãnh đạo toàn dân chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhận thức rõ trách nhiệm trước dân tộc, Đảng đã đề ra đường lối đổi mới và coi đó là “vấn đề sống còn” của đất nước, dân tộc. Để đổi mới thực sự vì lợi ích của nhân dân, phát huy được vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, Đảng đã “nhận thức lại” một số vấn đề về lý luận, nhất là những nội dung giáo điều, xơ cứng. Trên cơ sở giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng chủ trương đẩy mạnh thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng cường hội nhập quốc tế, coi trọng phát triển kinh tế tư nhân,…; đồng thời, phê phán những tư duy rập khuôn, máy móc, cản trở sức sáng tạo của nhân dân. “Ý Đảng hợp lòng dân”, Đảng ta vững tay chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua khó khăn, thử thách, đưa đất nước ngày càng phát triển. Sự nghiệp đổi mới xét về bản chất mang tính nhân dân sâu sắc, vì nó bắt nguồn từ lợi ích dân tộc, quyền lợi của quần chúng và do nhân dân thực hiện. Chính những sáng kiến từ cơ sở, từ cuộc sống được tổng kết thành đường lối đổi mới của Đảng nên phù hợp với nhu cầu thực tiễn, được toàn dân ủng hộ và thực hiện một cách sáng tạo. Nhờ đó, công cuộc đổi mới đã giải phóng mạnh mẽ mọi tiềm năng của đất nước, khơi dậy được nhân tài, vật lực cho công cuộc phát triển.
Những năm qua, trong bối cảnh quốc tế và khu vực diễn biến phức tạp, nhưng kinh tế nước ta vẫn giữ mức tăng trưởng ổn định. Đặc biệt, năm 2017, trong điều kiện kinh tế - xã hội gặp nhiều khó khăn, thiên tai khắc nghiệt, nhưng nước ta đều đạt và vượt 13 chỉ tiêu kế hoạch đề ra; trong đó, tăng trưởng GDP đạt 6,81%, là mức cao so với khu vực và thế giới. Việt Nam được đánh giá kinh tế vĩ mô ổn định; lạm phát được kiểm soát; tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu đạt cao; là điểm đến hấp dẫn khách du lịch quốc tế và thu hút đầu tư. Việt Nam được nhìn nhận là quốc gia khởi nghiệp mạnh mẽ; có trên 50% dân số (50 triệu người) dùng in-tơ-nét, luôn bắt kịp với sự phát triển của công nghệ thông tin thế giới. Cùng với kinh tế - xã hội, lĩnh vực quốc phòng - an ninh và đối ngoại cũng đạt được nhiều thành tựu. Sức mạnh quốc phòng được tăng cường đáng kể, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và không ngừng nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ý thức rõ vai trò của một đảng cầm quyền và trọng trách trước dân tộc, nhân dân, nên luôn coi trọng “tự chỉnh đốn”, “tự soi, tự sửa”. Trước tình hình một bộ phận cán bộ, đảng viên có biểu hiện thoái hóa, biến chất, tham nhũng, hối lộ, vi phạm Điều lệ, quy định của Đảng trong công tác cán bộ và quản lý kinh tế,... Đảng ta đã nhấn mạnh: bất cứ ai, ở cương vị nào mà vi phạm kỷ luật đều phải xử lý nghiêm, giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng, để củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Quán triệt quyết tâm của Đảng, thời gian qua, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng được đẩy mạnh và đạt được nhiều kết quả cụ thể, tích cực. Các vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp đã được xử lý rất kiên quyết, nghiêm minh, theo đúng quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước, kể cả đối với cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng, cán bộ đương chức và cán bộ đã nghỉ hưu. Ủy ban Kiểm tra Trung ương và Thanh tra Chính phủ tập trung kiểm tra, thanh tra, kết luận các sai phạm và quyết định kỷ luật hoặc đề xuất cơ quan có thẩm quyền xem xét kỷ luật nghiêm đối với nhiều tổ chức, cá nhân để xảy ra sai phạm. Riêng ngành Thanh tra đã triển khai hơn 6.800 cuộc thanh tra hành chính, gần 260.000 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành; Viện Kiểm sát nhân dân các cấp đã truy tố 219 vụ, 481 bị can; Tòa án Nhân dân các cấp đã xét xử sơ thẩm 205 vụ, 433 bị cáo về các tội tham nhũng, v.v. Kết quả nêu trên đã thể hiện quyết tâm của Đảng trong cuộc chiến chống “giặc nội xâm”, làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với niềm tin của nhân dân.
Gần chín thập kỷ đồng hành cùng dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn phấn đấu vì độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân, đưa đất nước không ngừng phát triển. Thực tiễn đó là minh chứng thuyết phục nhất phản bác luận điệu “Đảng đặt lợi ích giai cấp lên trên lợi ích dân tộc”. Luận điệu đó của những kẻ “gắp lửa bỏ tay người” là sự xuyên tạc trắng trợn, trơ trẽn và lố bịch.

1 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 1, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 9.
2 - Sđd, tr. 513.
3 - ĐCSVN - Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 2, Nxb CTQG, H. 2002, tr. 2.
4 - Võ Nguyên Giáp - Những chặng đường lịch sử, Nxb CTQG, H. 1994, tr. 196.
5 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 15, Nxb. CTQG, H. 2011, tr. 131.
                                                                                                                         Nguồn:    http://tapchiqptd.vn


Nhận diện, ngăn chặn, đẩy lùi biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ - nhiệm vụ cấp bách của toàn Đảng hiện nay


Đã và đang có những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên với mức độ khác nhau. Vì vậy, các cấp ủy, tổ chức đảng cần đẩy mạnh thực hiện giải pháp ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện này, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là quá trình tự biến đổi về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên theo chiều hướng tiêu cực, làm phai nhạt dần niềm tin và các chuẩn mực của người đảng viên cộng sản, nếu không được ngăn chặn kịp thời sẽ dễ dẫn đến xa rời nguyên tắc, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý tưởng cách mạng, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thậm chí, có người nhận thức phiến diện, giản đơn, không thấy được sự nguy hại của nó, vô tình đã có những hành động tiếp tay cho các thế lực thù địch chống Đảng, Nhà nước, sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Vì thế, đây là vấn đề không thể xem thường, đe dọa trực tiếp đến sự trong sạch, vững mạnh, vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, đã chỉ rõ 27 biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, phân tích làm rõ nguyên nhân, đề ra giải pháp, làm cơ sở cho từng đảng viên, tổ chức đảng soi vào đó kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, khắc phục, sửa chữa. Qua đó, đã tạo sự chuyển biến trong công tác xây dựng Đảng; lòng tin của nhân dân được tăng lên, sức chiến đấu của tổ chức Đảng, đảng viên ngày càng cao1.
Mặc dù vậy, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” mà Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) chỉ ra chưa được khắc phục triệt để, vẫn như “mạch ngầm” trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Đặc biệt nghiêm trọng là đã có những biểu hiện: phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng; đòi thực hiện “đa nguyên, đa đảng”; phản bác, phủ nhận nền dân chủ, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đòi thực hiện thể chế “tam quyền phân lập”, phát triển “xã hội dân sự”; nói xấu các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước; đòi “phi chính trị hoá” Quân đội và Công an, v.v. Trong số đó, có người do thiếu thông tin, lại thiếu tu dưỡng, rèn luyện, bị các thế lực thù địch và phần tử cơ hội chính trị lừa gạt, lợi dụng. Nhưng cũng có kẻ đã biến chất, không còn là cán bộ, đảng viên của Đảng, có động cơ xấu, quay lưng chống Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Qua một số vụ việc gần đây được Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng xử lý kỷ luật, đề nghị truy tố, cho thấy, một số cán bộ, đảng viên đã suy thoái sâu, bị “lợi ích nhóm” chi phối; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng ở đó bị giảm sút, cá biệt có nơi bị tê liệt. Vì vậy, chủ động, kịp thời nhận diện, xác định rõ nguyên nhân để có biện pháp đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là nhiệm vụ cấp bách của toàn Đảng và cả hệ thống chính trị. Để đạt hiệu quả cao, đòi hỏi các cấp ủy, tổ chức đảng cần thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp mà Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã xác định; trong đó, tập trung làm tốt mấy vấn đề sau:
Một làtăng cường giáo dục, làm cho mọi cán bộ, đảng viên thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng. Đây là điều kiện tiên quyết trong phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi biểu hiện “tự diễn biến’, “tự chuyển hóa”. Vì, mọi sự mơ hồ, xem nhẹ chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm, Cương lĩnh của Đảng đều là nguyên nhân dẫn đến sự suy thoái về tư tưởng chính trị trong Đảng, trong xã hội. V.I. Lê-nin đã dạy: “…, mọi sự coi nhẹ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, mọi sự xa rời hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa đều có nghĩa là tăng cường hệ tư tưởng tư sản”2 . Vì vậy, không thể thờ ơ, xem thường vấn đề này. Hơn nữa, nhận diện biểu hiện trên không khó, nó diễn ra ngay trong mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng. Để phòng ngừa, ngăn chặn, các cấp ủy, tổ chức đảng cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục, làm cho mọi cán bộ, đảng viên thấm nhuần sâu sắc, kiên định hệ tư tưởng của giai cấp công nhân. Quá trình tuyên truyền, giáo dục, cần tiếp tục khẳng định bản chất cách mạng, khoa học, giá trị của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam. Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, phát triển, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam; hoàn thiện hệ thống quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Hết sức chú trọng phòng ngừa nguy cơ sa vào giáo điều, xét lại, sai lầm về đường lối. Qua đó, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng; kiên định mục tiêu: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Hai làđẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII). Có thể khẳng định rằng, kết quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng vừa qua, nhất là trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí với nhiều vụ án lớn đưa ra xét xử, được nhân dân đồng tình ủng hộ, đã góp phần quan trọng giáo dục, rèn luyện, cảnh tỉnh cán bộ, đảng viên. Vì vậy, các cấp ủy, tổ chức đảng cần đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp mà Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) xác định, gắn với thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Trong đó, cần duy trì nghiêm các chế độ, nền nếp, nguyên tắc sinh hoạt Đảng; nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, tự phê bình và phê bình, “tự soi”, “tự sửa”, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm và có biện pháp bảo vệ người trung thực, dám đấu tranh với những vấn đề tiêu cực, sai trái. Ở những nơi có vấn đề phức tạp, nơi có biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, cấp trên gợi ý kiểm điểm và trực tiếp dự, chỉ đạo. Đề cao vai trò nêu gương của bí thư cấp ủy, người chủ trì cơ quan, đơn vị về phẩm chất đạo đức, lối sống, tác phong công tác để cán bộ, đảng viên và quần chúng noi theo. Cùng với đó, cần đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở tất cả các cấp, các ngành. Đây là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, lâu dài, song toàn Đảng cần nêu cao quyết tâm chính trị, cũng như tổ chức thực hiện; có như vậy mới củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng. Bên cạnh việc điều tra, xét xử các vụ án tham nhũng đã phát hiện, các cơ quan chức năng cần chủ động nghiên cứu, tham mưu ban hành các quy định, cơ chế đủ mạnh để ngăn ngừa hành vi tham nhũng, cũng như quan hệ “lợi ích nhóm”, đặc quyền, đặc lợi, “tư duy nhiệm kỳ”; phát huy tốt vai trò của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các phương tiện thông tin đại chúng,… đối với nhiệm vụ này, cũng như công tác xây dựng Đảng.
Ba làđẩy mạnh công tác quản lý, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là về phẩm chất đạo đức, lối sống. Suy thoái về đạo đức, lối sống là nguồn gốc dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Vì thế, Đại hội XII của Đảng tiếp tục xác định xây dựng Đảng về đạo đức là một nội dung của công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Theo đó, toàn Đảng cần coi trọng xây dựng cán bộ, đảng viên có phẩm chất đạo đức, lối sống trong sạch, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; có sức đề kháng, tự bảo vệ, miễn dịch trước những âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, những tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế. Đồng thời, có lề lối, tác phong công tác khoa học, gần dân, trọng dân, hiểu dân, học dân, tận tụy phục vụ nhân dân. Đối với từng cán bộ, đảng viên, trước hết là bí thư cấp ủy, cần nêu cao trách nhiệm trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch, đăng ký thực hiện hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII). Đồng thời, cần chú trọng gắn chặt công tác giáo dục với công tác quản lý và tự quản lý của đảng viên, nhất là các mối quan hệ trong cuộc sống, sinh hoạt ở nơi cư trú, để kịp thời phát hiện, ngăn chặn những biểu hiện vi phạm; kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, cục bộ, “lợi ích nhóm”, cơ hội, “nói không đi đôi với làm”, “nói nhiều làm ít”, thiếu tu dưỡng, rèn luyện về bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
Bốn làtăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng. Theo báo cáo của Ủy ban Kiểm tra Đảng Trung ương (ngày 12-1-2018), năm 2017, các cấp ủy đã kiểm tra gần 60.000 tổ chức Đảng, hơn 230.000 đảng viên trong việc chấp hành các nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước. Qua đó, phát hiện hơn 700 tổ chức Đảng, gần 1.500 đảng viên có khuyết điểm, vi phạm; thi hành kỷ luật 22 tổ chức Đảng và 350 đảng viên. Kết quả đó đã từng bước “chỉ rõ” bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái, biến chất, góp phần tăng cường giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, làm trong sạch, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Điều đó khẳng định tầm quan trọng, cũng như yêu cầu đối với các cấp ủy, tổ chức đảng phải tiến hành thường xuyên công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng. Để thực hiện tốt công tác này, các cấp ủy, tổ chức đảng cần nắm vững, thực hiện tốt phương châm, phương pháp, nguyên tắc của công tác kiểm tra, giám sát; xây dựng chương trình, kế hoạch, nội dung cụ thể, sát với đặc điểm, nhiệm vụ từng tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên. Công tác kiểm tra, giám sát phải tiến hành toàn diện cả về tư tưởng, chính trị, năng lực công tác, đạo đức, lối sống và kết quả hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao; nhất là chú trọng kiểm tra, giám sát về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, những đảng viên giữ cương vị cán bộ chủ trì ở các cơ quan, đơn vị. Trong quá trình thực hiện, cần phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, tổ chức, gắn kiểm tra, giám sát với thi hành kỷ luật Đảng, kiên quyết xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm, bảo đảm kịp thời, chính xác, công khai, minh bạch, công bằng; nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên đồng thời với tiến hành rà soát, sàng lọc và đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng.
Nhận diện và có giải pháp đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”. “tự chuyển hóa” trong nội bộ là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt và là nhiệm vụ cấp bách của toàn Đảng hiện nay. Thực hiện tốt các giải pháp chủ yếu trên là tiền đề vững chắc để xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoàn thành sứ mệnh lịch sử trong thời kỳ mới.

1 - Phát biểu của đồng chí Trần Quốc Vượng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Thành viên Thường trực Ban Bí thư, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng năm 2017, triển khai nhiệm vụ năm 2018, ngày 12-1-2018, tại thành phố Hồ Chí Minh.
2 - V.I. Lê-nin - Toàn tập, Tập 6, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1978, tr. 50.

    
                                                Nguồn:    http://tapchiqptd.vn

Bảo vệ nhân dân - sứ mệnh của quân đội và công an nhân dân


Chiêu trò thông qua một số trang mạng để tán phát những giọng điệu, ngụy tạo hình ảnh nhằm tuyên truyền xuyên tạc, nói xấu lực lượng vũ trang (LLVT) của các thế lực thù địch thực chất không có gì mới. Thế nhưng trong bối cảnh chính trị hiện nay, chúng ta cần nhận thức đúng vai trò, trách nhiệm của LLVT; nhận thức đúng quyền và trách nhiệm của người dân, không để những kẻ cực đoan lợi dụng dân chủ, nhân quyền vi phạm pháp luật.

Trên thế giới, không có quốc gia nào không có hai lực lượng là quân đội và cảnh sát (công an). Đó là hai lực lượng chủ yếu để bảo vệ đất nước, bảo vệ chế độ chính trị-nhà nước và đương nhiên cũng là bảo vệ đảng chính trị lãnh đạo cầm quyền. Ở các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN), người giữ chức Tổng Bí thư Đảng Cộng sản cũng là người giữ chức vụ cao nhất về đảng trong LLVT.
Ở nước ta, vài năm trở lại đây, trước và sau những vụ việc “nóng” về xã hội, như vụ Formosa Hà Tĩnh gây ô nhiễm môi trường trên diện rộng ở 4 tỉnh miền Trung; vụ một số trạm thu phí BOT gây ách tắc giao thông (BOT Cai Lậy-Tiền Giang); vụ việc ở xã Đồng Tâm (Mỹ Đức, Hà Nội)… chính quyền địa phương phải điều động cảnh sát có vũ trang đến hiện trường nhằm ngăn ngừa kẻ xấu lợi dụng gây bất ổn định về chính trị-xã hội.
Phòng ngừa và khi cần thì trấn áp tội phạm là một việc làm bình thường theo chức năng, nhiệm vụ được giao của các LLVT. Thế nhưng trên một số mạng xã hội có kẻ post bài lên nói rằng: “Bộ đội, công an đàn áp nhân dân”... Sự khác biệt giữa đàn áp với trấn áp như thế nào? Phải chăng có hiện tượng bộ đội, công an đàn áp nhân dân hay đây chỉ là một thủ đoạn chính trị thâm độc của các thế lực thù địch và những phần tử phản động?
Đàn áp và trấn áp tuy có điểm giống nhau về phương thức hoạt động nhưng khác nhau cơ bản về đối tượng tác động. Đàn áp theo từ điển thì đó là hoạt động của chính quyền, thường là trong xã hội phong kiến, thực dân bằng các công cụ bạo lực, cưỡng chế đa số người dân nhằm bảo vệ chính quyền và chế độ xã hội mà họ đang nắm giữ. Chẳng hạn người ta hay nói: Thực dân Pháp đàn áp các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta một cách đẫm máu. Trong khi đó, khái niệm trấn áp dùng để chỉ hoạt động của chính quyền hiện hữu bằng công cụ bạo lực, cưỡng chế một số nhỏ, từ cá nhân đến nhóm xã hội vi phạm pháp luật, nhằm bảo vệ trật tự xã hội. Chẳng hạn người ta thường nói: Công an, cảnh sát trấn áp tội phạm để giữ gìn cuộc sống bình yên của nhân dân.

Như chúng ta thấy, những năm gần đây, tình hình chính trị thế giới và khu vực diễn ra phức tạp, nhiều nước lớn đã xem châu Á-Thái Bình Dương, đặc biệt Biển Đông là địa bàn “xoay trục”, là “lợi ích cốt lõi” của mình. Nhờ có đường lối chính trị-quốc phòng đúng đắn, Việt Nam đã giữ vững ổn định chính trị xã hội; duy trì được quan hệ quốc tế dựa trên nguyên tắc hòa bình, bình đẳng cùng có lợi. Tuy nhiên đất nước ta vẫn đang đứng trước nhiều nguy cơ, thách thức.
Đại hội XII của Đảng tái khẳng định 4 nguy cơ. Đó là: (1). Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới; (2). Nguy cơ chống phá, “diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch, “tự chuyển hóa”, “tự diễn biến”, xa rời lý tưởng của Đảng, xa rời lợi ích của nhân dân và mục tiêu xây dựng đất nước đi lên CNXH của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; (3). Nguy cơ tệ nạn tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các tiêu cực xã hội, làm suy yếu Đảng; (4). Nguy cơ về bảo vệ độc lập, chủ quyền đất nước, nhất là chủ quyền biển, đảo trước âm mưu, thủ đoạn các nước lớn”. Trong 4 nguy cơ nói trên, trừ nguy cơ “tụt hậu xa hơn về kinh tế”, 3 nguy cơ còn lại đều có thể dẫn đến sự bất ổn xã hội ở những kịch bản khác nhau, trong đó có thể có bạo loạn, lật đổ… thay đổi chế độ. Bởi vậy, sử dụng các công cụ bạo lực, chuyên chính đối với kẻ thù nhằm ngăn ngừa từ sớm, từ xa các nguy cơ bất ổn đối với chế độ là điều tất nhiên.
Tại Hội nghị Quân ủy Trung ương phiên họp cuối năm 2017 (ngày 15-12-2017), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương, chỉ rõ: “Năm 2018, năm bản lề thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ X, quân đội phải nắm chắc tình hình “dứt khoát không được để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống”. Quân đội nâng cao hơn nữa nhận thức về phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, ngăn chặn âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch… “Phải đặc biệt giữ gìn, phát huy hình ảnh, uy tín của quân đội, giữ vững niềm tin yêu của nhân dân đối với quân đội”.
Nhìn lại những năm đầu thế kỷ 21, các thế lực thù địch đã từng lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo ở Tây Nguyên gây ra bạo loạn vào năm 2001 và 2004. Nhóm tàn quân FULRO lưu vong ở nước ngoài do Ksor Kơk đứng đầu đã tuyên truyền, dụ dỗ người dân, âm mưu thiết lập “Nhà nước Cộng hòa Đề Ga” ở Tây Nguyên. Quy mô của vụ gây rối ở các tỉnh: Đắc Lắc, Gia Lai và Đắc Nông (ngày 10-4-2004) lên đến gần 10.000 người. Đây là một âm mưu, hành động cực kỳ nguy hiểm, táo bạo, hòng phá hoại sự toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam.
Năm 2016, Formosa (Hà Tĩnh) gây ra ô nhiễm môi trường trên diện rộng thuộc 4 tỉnh miền Trung. Sau khi vụ việc được phát hiện, Formosa đã nhận lỗi, bồi thường thiệt hại và sửa chữa các vi phạm. Thế nhưng ở một số địa bàn thuộc Hà Tĩnh và Nghệ An sau một năm vụ việc được giải quyết, những kẻ cực đoan về chính trị đã huy động, thậm chí ép buộc người dân đi khiếu kiện “đòi bồi thường”, gây mất trật tự an ninh, ách tắc giao thông trên Quốc lộ 1A… Chính quyền đã buộc phải điều động LLVT để xử lý. Có nơi, LLVT đã phải mang theo cả lá chắn và khí tài chuyên biệt để phòng ngừa những phần tử cực đoạn sử dụng bạo lực. Trong những tình huống như vậy, chính quyền không thể không huy động các LLVT tham gia xử lý, tuyên truyền, giải thích cho nhân dân và trấn áp những kẻ cầm đầu. Thực tế cho thấy, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn chú ý giáo dục cán bộ, chiến sĩ quân đội, công an về mối quan hệ gắn bó với nhân dân. Nhất là những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đối với Quân đội ta, đó là: “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng"; với Công an ta, đó là: “Đối với tự mình phải cần, kiệm, liêm, chính. Đối với đồng sự phải thân ái, giúp đỡ. Đối với Chính phủ phải tuyệt đối trung thành. Đối với nhân dân phải kính trọng, lễ phép. Đối với công việc phải tận tụy. Đối với địch phải cương quyết, khôn khéo”.
Thiết nghĩ, trong bối cảnh chính trị ngày nay, mọi người cần nhận thức đúng vai trò, trách nhiệm của các LLVT; nhận thức đúng quyền và trách nhiệm của người dân, không để những kẻ cực đoan lợi dụng dân chủ, nhân quyền vi phạm pháp luật. Các LLVT của chúng ta ngày nay bên cạnh nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc còn có một sứ mệnh lịch sử không kém phần quan trọng, đó là bảo vệ chế độ xã hội, bảo vệ Nhà nước và bảo vệ Đảng Cộng sản Việt Nam.     
Nguồn: www.qdnd.vn


Cần hiểu đúng về tự do tín ngưỡng, tôn giáo


Tôn giáo là một trong những vấn đề được các thế lực thù địch triệt để lợi dụng nhằm kích động, gây rối, phá hoại, làm mất ổn định chính trị - xã hội, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống Đảng và chế độ ta. Hiểu đúng về tự do tín ngưỡng, tôn giáo là cơ sở để nhận diện và đấu tranh làm thất bại những âm mưu, thủ đoạn đó.
Tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của con người và được khẳng định trong các văn bản chính trị quan trọng của Liên hợp quốc. Khoản 3, Điều 1 Hiến chương năm 1945 ghi nhận: “Tôn trọng và tuân thủ triệt để các quyền và tự do cơ bản của mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hay tôn giáo”. Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 quy định: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo, kể cả tự do thay đổi tín ngưỡng hoặc tôn giáo của mình và tự do bày tỏ tín ngưỡng hay tôn giáo của mình bằng các hình thức như truyền giảng, thực hành, thờ cúng và tuân thủ các nghi lễ, dưới hình thức cá nhân hay tập thể, tại nơi công cộng hoặc nơi riêng tư” (Điều 18). Đồng thời khẳng định: “Mọi người đều được hưởng tất cả các quyền và tự do nêu trong bản Tuyên ngôn này mà không có bất kỳ sự phân biệt, đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo” (Điều 2). Song, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không phải là quyền tuyệt đối, mà có thể bị giới hạn: “Khi hưởng thụ các quyền và tự do của mình, mọi người chỉ phải tuân thủ những hạn chế do luật định, nhằm bảo đảm sự công nhận và tôn trọng thích đáng đối với các quyền và tự do của người khác, cũng như nhằm đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ” (Khoản 2, Điều 29). Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 khẳng định: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo. Quyền này bao gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng do mình lựa chọn và tự do bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong cộng đồng với những người khác, một cách công khai hoặc kín đáo dưới các hình thức như thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và truyền giảng” (Khoản 1, Điều 18). Trong đó, chỉ rõ: 1. Không ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa chọn hoặc tin theo tôn giáo hoặc tín ngưỡng của họ (Khoản 2, Điều 18); 2. Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác (Khoản 3, Điều 18); 3. Nghiêm cấm mọi hành động cổ vũ hằn thù dân tộc, sắc tộc, tôn giáo dẫn đến kích động phân biệt đối xử và bạo lực (Khoản 2, Điều 20).
Như vậy, các văn bản trên đều phân định rõ ràng giữa quyền tự do tôn giáo với tự do thực hành tôn giáo, cho phép hạn chế quyền tự do thực hành tôn giáo theo pháp luật khi cần thiết nhằm bảo vệ an toàn, trật tự, sức khỏe, đạo đức xã hội hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác. Quyền lựa chọn tôn giáo là tuyệt đối, còn quyền thực hành tôn giáo không phải là tuyệt đối.
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, tôn giáo. Trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán chính sách tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Ngay từ ngày mới thành lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 234/SL, ngày 14-6-1955, khẳng định: “Việc tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng là quyền lợi của nhân dân. Chính phủ luôn tôn trọng và giúp đỡ nhân dân thực hiện. Chính quyền không can thiệp vào nội bộ các tôn giáo. Các tổ chức tôn giáo phải tuân theo pháp luật của Nhà nước như mọi tổ chức khác của nhân dân. Việc bảo vệ tự do tín ngưỡng bắt buộc phải trừng trị những kẻ đội lốt tôn giáo gây rối loạn”. Kế thừa, phát triển quan điểm chỉ đạo của Người, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng hoàn thiện quan điểm, chính sách, pháp luật để nhân dân được thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mình trên cơ sở pháp luật. Nghị quyết 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) đã nhấn mạnh: 1. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật. 2. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia. Trên cơ sở nội luật hóa pháp luật quốc tế và thể chế các quan điểm, chủ trương của Đảng về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”(Điều 24); “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (Khoản 2, Điều 14); nghiêm cấm “xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo đã được Quốc hội thông qua, có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2018 cũng khẳng định: “Nghiêm cấm phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo” và nghiêm cấm: “Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo xâm phạm quốc phòng - an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường; xâm hại đạo đức xã hội, xâm phạm thân thể, sức khỏe, tính mạng, tài sản; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác; cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; chia rẽ dân tộc, chia rẽ tôn giáo; chia rẽ người theo tín ngưỡng, tôn giáo với người không theo tín ngưỡng, tôn giáo; giữa những người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau…” (Điều 5).
Với những chủ trương, chính sách, pháp luật đúng đắn của Đảng, Nhà nước về tự do tín ngưỡng, tôn giáo, những năm qua, Việt Nam đã đạt được thành tựu to lớn trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Chưa bao giờ đời sống tôn giáo ở nước ta lại phát triển mạnh mẽ như hiện nay. Các tôn giáo chung sống gắn bó, hòa hợp, “tốt đời, đẹp đạo”, phúc âm trong lòng dân tộc. Các tín đồ, chức sắc tôn giáo yên tâm, tin tưởng vào đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phát huy truyền thống yêu nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, tích cực tham gia các phong trào “ích nước, lợi dân”, phát triển kinh tế, xã hội, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội, góp phần to lớn trong công cuộc xây dựng, đổi mới đất nước. Theo thống kê sơ bộ, tính đến năm 2017, cả nước có 41 tổ chức tôn giáo thuộc 14 tôn giáo khác nhau (với hơn 25 triệu tín đồ, 53 nghìn chức sắc, hơn 133 nghìn chức việc, 28 nghìn cơ sở thờ tự) được Nhà nước công nhận và cho phép hoạt động. Các tôn giáo đã có hệ thống đào tạo quy mô trong cả nước. Hoạt động hợp tác quốc tế trên lĩnh vực tôn giáo được chú trọng, đẩy mạnh. Chính phủ đã tạo điều kiện cho các tôn giáo được mở rộng quan hệ quốc tế rộng rãi; nhiều đoàn tôn giáo quốc tế đến thăm, làm việc và nhiều đoàn tôn giáo trong nước đi thăm, làm việc, học tập ở nước ngoài. Việc đăng ký điểm nhóm Tin lành đã được Chính phủ quan tâm phê duyệt. Hiện nay, các tỉnh Tây Nguyên và Bình Phước có khoảng 500 nghìn tín đồ thuộc 31 tổ chức, hệ phái, nhóm Tin lành, trong đó có hơn 400 nghìn người đang sinh hoạt tại 240 chi hội và 1.300 điểm nhóm đã đăng ký với chính quyền địa phương, v.v. Hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo được sửa đổi, bổ sung, ngày càng hoàn thiện, mà điểm nhấn là năm 2017, Quốc hội đã thông qua Luật Tín ngưỡng tôn giáo và Luật này có hiệu lực từ ngày 01-01-2018, là cơ sở pháp lý quan trọng nhằm đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền của người dân trong thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Việc Việt Nam trúng cử là thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014 - 2016 với số phiếu cao nhất; đồng thời, bảo vệ thành công các Phiên Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát chu kỳ II là lời khẳng định mạnh mẽ nhất đối với nỗ lực, thành tựu của Việt Nam nhằm thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Thực tế là vậy! Thế nhưng các thế lực thù địch không những không thừa nhận, mà còn xuyên tạc, kích động, chống phá và đánh tráo, đồng nhất khái niệm “thuyết nhân quyền tự nhiên về quyền tự do tuyệt đối” thành “quyền tuyệt đối về tự do tôn giáo”. Chúng cho rằng, quyền con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền bẩm sinh, không phụ thuộc vào văn hóa hay ý chí giai cấp, cộng đồng hay nhà nước; không một chủ thể nào, kể cả nhà nước, có thể ban phát hay tước bỏ các quyền bẩm sinh đó. Với luận điệu trên, chúng ra sức xuyên tạc rằng, Việt Nam không có tự do tôn giáo; Nhà nước Việt Nam hạn chế, đàn áp tôn giáo, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo bị vi phạm, bóp nghẹt. Chúng tìm mọi cách tuyên truyền làm cho nhiều người ngộ nhận rằng, tất cả các hoạt động tôn giáo đều được tự do, không chịu sự quản lý của pháp luật để cổ súy cho hành vi lợi dụng tôn giáo vi phạm pháp luật nước ta. Bởi thế, một số xứ đạo mới tự lập ra cái gọi là “Ban an ninh”, “Ban trật tự” với danh nghĩa đảm bảo trật tự các buổi lễ; kích động giáo dân bất tuân lệnh chính quyền, coi thường kỷ cương phép nước, tẩy chay bầu cử, o ép đảng viên là người có đạo, đòi lại đất, lấn chiếm, vận động hiến nhượng đất, cơi nới nơi thờ tự, v.v. Khi chính quyền lập lại trật tự, kỷ cương, xử lý tín đồ vi phạm pháp luật thì họ lại lớn tiếng xuyên tạc Việt Nam đàn áp tôn giáo, vi phạm dân chủ, nhân quyền. Lợi dụng điều đó, trong Báo cáo về tình hình tự do tôn giáo, tín ngưỡng tại khu vực ASEAN năm 2017 của Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Mỹ (USCIRF) lại tiếp tục vu cáo Việt Nam “hạn chế tự do tôn giáo”, “kiểm soát mọi sinh hoạt tôn giáo dưới danh nghĩa gọi là bảo vệ an ninh quốc gia và duy trì đoàn kết dân tộc” (!).
Cần thấy rằng, tự do tôn giáo và tự do thể hiện tôn giáo là hai vấn đề có nội hàm hoàn toàn khác nhau. Cũng như mọi hoạt động bình thường khác của xã hội, tự do tín ngưỡng, tôn giáo đúng nghĩa luôn được xây dựng trên cơ sở thượng tôn pháp luật, tôn trọng, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người khác, của xã hội. Sẽ là “phản tự do” nếu lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đi xâm hại quyền và lợi ích chính đáng của người khác, làm đảo lộn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội của đất nước. Các tôn giáo ở Việt Nam phát triển trên cơ sở tôn trọng luật pháp Nhà nước; không tôn giáo nào được phép đứng ngoài hoặc đứng trên lợi ích quốc gia, dân tộc. Pháp luật Việt Nam nghiêm cấm và xử lý nghiêm bất kỳ ai lợi dụng tôn giáo để xâm phạm lợi ích hợp pháp của Nhà nước và công dân. Mỗi tín đồ tôn giáo đang sinh sống và làm việc tại Việt Nam, khi thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đều phải tôn trọng và chấp hành pháp luật Việt Nam. Điều này hoàn toàn tương thích với luật pháp quốc tế về tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
               Nguồn:    http://tapchiqptd.vn



Không thể phủ nhận bản chất tốt đẹp của Đảng Cộng sản Việt Nam


Quy định 102-QĐ/TW (Quy định 102) được Bộ Chính trị ban hành ngày 7-12-2017. Đây là quy định cụ thể hóa nhiều văn kiện về xây dựng Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) nhằm giữ vững bản chất tốt đẹp của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thế nhưng trên không gian mạng đã có một số kẻ đưa ra những bình luận ác ý, xuyên tạc bản chất văn kiện này.
Chẳng hạn có người viết rằng, văn kiện này thể hiện sự “xung khắc nội bộ” về “xã hội dân sự”. Họ dẫn ra “những chứng cứ”: Những đảng viên nào đòi thực hiện “thể chế xã hội dân sự”, “thể chế tam quyền phân lập” và “đa nguyên đa đảng” sẽ bị khai trừ ra khỏi Đảng. Có kẻ lại viết: “Ở Việt Nam lâu nay, khái niệm nhà nước pháp quyền và nền kinh tế thị trường luôn bị gắn thêm cái đuôi xã hội chủ nghĩa. Vì thế các khái niệm nhà nước pháp quyền và nền kinh tế thị trường đã bị biến dạng và trở thành Nhà nước độc quyền xã hội chủ nghĩa”... Vậy nội dung, thực chất của Quy định 102 như thế nào? Và vì sao người ta lại cố tình xuyên tạc văn kiện này?
Quy định 102 ra đời từ thực tiễn, đó là tình trạng suy thoái về “chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” mà Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) đã chỉ ra là hết sức nghiêm trọng. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nói: “Từ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”.
Như gần đây báo chí đã đưa, nhiều cán bộ, đảng viên vi phạm Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước đã bị xử lý kỷ luật. Chẳng hạn một số cán bộ, đảng viên tỉnh Thanh Hóa bị kỷ luật về Đảng và chính quyền liên quan đến vụ một cá nhân được đề bạt “siêu tốc” ở Sở Xây dựng; đó là 14 cán bộ, đảng viên liên quan đến vụ “biệt phủ Yên Bái” vi phạm pháp luật về quản lý đất đai... Đặc biệt, ngày 8-12-2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã ra quyết định khởi tố, bắt tạm giam ông Đinh La Thăng để điều tra về hành vi “cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”... Nói tóm lại đó là những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Quy định 102 nhằm khắc phục tình trạng đó.
Về nội dung, ngoài các điều quy định về “Đối tượng”; “Nguyên tắc”; “Thời hiệu xử lý” và “Điều khoản thi hành”…, Quy định 102 tập trung đề cập đến những hành vi “vi phạm về chính trị; nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng” (Chương II); “Vi phạm chính sách, pháp luật của Nhà nước” (Chương III); “Vi phạm về chế độ trách nhiệm, đạo đức lối sống, tín ngưỡng và tôn giáo” (Chương IV). Chẳng hạn Điểm b, Khoản 1, Điều 7, Chương II (Vi phạm về quan điểm chính trị và chính trị nội bộ): “Phụ họa, a dua theo những quan điểm trái với quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh… thiếu trách nhiệm trong đấu tranh chống biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống...”; Điểm d, Khoản 1, Điều 7: “Không trung thực trong khai lý lịch, lịch sử bản thân và bổ sung lý lịch đảng viên”; Điểm b, Khoản 2, Điều 7: "Phản bác, phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nguyên tắc tập trung dân chủ, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đòi thực hiện thể chế “tam quyền phân lập”, “xã hội dân sự”, “đa nguyên, đa đảng”. 
Quy định 102 xác định khá cụ thể, đặc biệt dựa trên hành vi của cán bộ, đảng viên vi phạm. Quy định này sẽ là cơ sở chính trị-pháp lý (nội bộ của Đảng) để răn đe và xử lý những trường hợp đã vi phạm nhưng chưa bị xử lý. Vậy vì lý do gì người ta lại cố tình xuyên tạc? 
Trước hết, điều mà họ nói có “xung khắc nội bộ” về “xã hội dân sự” là gì?
(a) Với dụng ý xuyên tạc bản chất của Quy định 102, thủ đoạn của họ là cắt xén bối cảnh của câu văn. Bối cảnh của câu văn nằm trong mệnh đề “Phản bác, phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh” (điều này được quy định tại Điều 4(1) Hiến pháp năm 2013).
(b) Thứ hai, họ cố tình tách cụm từ “xã hội dân sự” ra khỏi mệnh đề thể chế “tam quyền phân lập”, “xã hội dân sự”, “đa nguyên, đa đảng” (điều này được quy định tại Khoản 3, Điều 2(2) Hiến pháp năm 2013 quy định về nguyên tắc phân công phối hợp của cơ quan quyền lực Nhà nước.
Trên thế giới hiện nay có nhiều mô hình chế độ chính trị và nhà nước. Chẳng hạn như chế độ cộng hòa tổng thống; chế độ cộng hòa đại nghị; chế độ dân chủ nhân dân; chế độ quân chủ (do nhà vua đứng đầu); có nhiều nước dựa trên một tôn giáo (còn gọi là Quốc đạo) ở đó các giáo sĩ, tăng lữ giữ vai trò quyết định về nhiều mặt, kể cả chính trị, xã hội.
Một dân tộc lựa chọn chế độ xã hội nào, mô hình nhà nước nào tùy thuộc vào sự lựa chọn của nhân dân do cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc hội quyết định). Không có mô hình “chuẩn”, không có "khuôn mẫu" cho cộng đồng quốc tế làm theo. Cái mà những kẻ muốn áp đặt cho xã hội Việt Nam mô hình ngoại nhập, thực chất chỉ là một thủ đoạn chính trị hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mà thôi.
Thứ hai, mục tiêu cuối cùng của họ là gì?
(a) Những điều mà họ xuyên tạc Quy định 102 thực tế là nhằm bác bỏ chế độ xã hội hiện hữu do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Lập luận của họ là: Đảng Cộng sản Việt Nam “bám giữ” tư tưởng phủ nhận xã hội dân sự là “cổ hủ, lạc hậu, cản trở bước tiến của xã hội”… Thực tế hoàn toàn trái lại, chưa bao giờ vai trò, vị thế của Việt Nam trong khu vực và quốc tế lại được khẳng định, được tôn trọng như hiện nay. Việt Nam đang là đối tác chiến lược với 15 quốc gia (trong đó có Nga, Trung Quốc, Ấn Độ); đối tác toàn diện với 12 quốc gia (trong đó có Hoa Kỳ).
Trên lĩnh vực kinh tế cũng như vậy. Hiện nay, không có mô hình “chuẩn” cho cộng đồng quốc tế. Về mặt lý luận, không có nền kinh tế nào không có “tính ngữ” (không có đuôi-theo cách viết của một số người về nền kinh tế Việt Nam). Nền kinh tế các nước Bắc Âu là nền “kinh tế thị trường xã hội”; nền kinh tế Anh, Mỹ là nền “kinh tế thị trường tự do”; nền kinh tế Trung Quốc (lớn thứ hai thế giới ) là “kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”... Bởi vậy, việc họ xuyên tạc, phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam nếu không phải là một thủ đoạn chính trị thì cũng chỉ là lý lẽ của những kẻ “ếch ngồi đáy giếng” về tri thức.
(b) Những thông tin mà họ đưa ra để “phản biện” Quy định 102 còn nhằm tuyên truyền cho chế độ “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”, thể chế “tam quyền phân lập” và nền “kinh tế thị trường tự do”, theo mô hình ngoại nhập. Họ viết:Một quốc gia phát triển nhanh, mạnh và hài hòa, thì ba trụ cột: Nhà nước pháp quyền; một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh và một xã hội dân sự, trong đó bao gồm các tổ chức xã hội dân sự độc lập không chịu sự chi phối của Nhà nước. Nói tóm lại, đó là một mô hình coppy ngoại nhập 100%. Chỉ có những kẻ mang đầu óc nô lệ mới nhắm mắt ca ngợi mô hình đó một cách mù quáng. Thực tế cho thấy, ngay ở những nước phát triển nhất với mô hình này vẫn đầy rẫy bất công như tình trạng hàng triệu người vô gia cư.
Quy định 102 là một văn kiện của Đảng nhằm xử lý những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng và cả những người vi phạm pháp luật của Nhà nước. Văn kiện này thể hiện rõ trách nhiệm chính trị và đạo đức của Đảng lãnh đạo, cầm quyền. Cho dù những xuyên tạc ác ý, vu khống thâm độc đến đâu cũng không thể phủ nhận được bản chất tốt đẹp của Đảng ta.
 Nguồn: www.qdnd.vn