Những năm gần đây, hội nhập quốc tế ngày càng nhanh và mạnh mẽ,
các quan điểm, xu hướng mới du nhập vào nước ta là tất yếu, không thể tránh khỏi
và quá trình này cũng là “thời cơ” để các thế lực thù địch lợi dụng đẩy mạnh âm
mưu “diễn biến hòa bình”. Trong lĩnh vực báo chí, chiêu bài “tự do ngôn luận”,
“tự do báo chí” trở thành “vũ khí” để các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lợi
dụng chống phá ta trên mặt trận tư tưởng. Chính vì vậy, bảo đảm tự do ngôn luận,
tự do báo chí là yêu cầu quan trọng, cấp thiết, là cơ sở vững chắc để tránh “bẫy
tự do báo chí” của các thế lực thù địch trong thời kỳ đẩy mạnh hội nhập quốc tế
của nước ta.
Báo chí có vai trò quan trọng trong việc truyền tải các quan điểm,
là công cụ của tự do biểu đạt. Trong thời kỳ hiện nay, tự do ngôn luận, tự do
báo chí có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển của từng cá nhân và cộng đồng;
được coi là một phần biểu hiện quyền bình đẳng, dân chủ và có tác động thúc đẩy
phát triển.
Vào thế kỷ XVII, triết học cơ bản về chủ nghĩa tự do có bước phát
triển, con người hướng tới tự do cá nhân một cách mạnh mẽ, tự do cá nhân đã trở
thành mục tiêu phấn đấu của mỗi người và của nhiều nhà nước. Tư tưởng tự do trở
thành một trào lưu trong nhiều xã hội dân chủ, trong đó tư tưởng tự do báo chí,
tự do tôn giáo trở thành các mục tiêu hàng đầu. Một thế kỷ sau, khoảng cuối thế
kỷ XVIII, quyền tự do (trong đó có tự do ngôn luận, tự do báo chí) đã được coi
là một trong các quyền cơ bản của con người, được quy định trong hiến pháp của
nhiều quốc gia.
Theo nghĩa thông thường, tự do báo chí được hiểu là thoát ly mọi sự
hạn chế, mọi sự cấm đoán đối với báo chí, là một phần quan trọng của quyền con
người, quyền công dân. Tuy nhiên, ở các thể chế xã hội khác nhau, trong các
giai đoạn lịch sử khác nhau thì tự do báo chí cũng được giải thích, được quan
niệm, được thể chế hóa, được bảo vệ và thực hiện theo các cách khác nhau. Mức độ
tự do được quy định bởi lập trường xã hội, bởi mục tiêu mà con người đặt ra cho
mình trong từng giai đoạn.
Đến thế kỷ XX, nhiều tuyên ngôn của các tổ chức lớn như Liên hợp
quốc, hiến pháp của nhiều quốc gia, như Mỹ, Anh, Pháp đã quy định rõ về quyền tự
do ngôn luận, tự do báo chí. Trong bản “Tuyên ngôn về Nhân quyềnvà
Dân quyền Pháp năm 1789” - tự do báo chí được
trình bày như là một trong những quyền cơ bản: “Bất kỳ công dân nào cũng có thể
nói, viết và công bố tự do; tuy nhiên, họ sẽ chịu trách nhiệm nếu lạm dụng quyền
tự do này theo quy định của pháp luật” (Điều 11). Công ước quốc tế về các quyền
dân sự và chính trị năm 1966 tại khoản 2, Điều 19
cũng quy định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm
kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực,
hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ
thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tuỳ theo sự lựa chọn
của họ”. Khoản 3, Điều 19 cũng quy định “Việc thực hiện những quyền quy định tại
khoản 2 điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, việc
này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định, tuy nhiên, những hạn chế này phải
được quy định trong pháp luật và là cần thiết để: a- Tôn trọng các quyền hoặc
uy tín của người khác. b- Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức
khỏe hoặc đạo đức của xã hội”. Khoản 1, Điều 19, Công ước nêu:
“Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp”. Khoản
2, Điều 22 nêu: “Việc thực hiện quyền này không bị hạn chế, trừ những hạn chế
do pháp luật quy định và là cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích an
ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, và để bảo vệ sức khỏe hoặc đạo đức
của công chúng hay các quyền và tự do của người
khác”. Ở Anh, tất cả các bài phát biểu miệng hay đăng báo với
mục đích làm mất tín nhiệm hoặc kích động chống lại chủ quyền, Chính phủ, Hiến
pháp, bất cứ viện nào hoặc hệ thống tòa án, kích động sự bất bình hay sự công
phẫn giữa các công dân của Nữ hoàng, sự hận thù giữa các giai cấp của các công
dân đó đều bị coi là vi phạm pháp luật. Ở Mỹ, quốc gia luôn tự cho là thực hiện
đầy đủ nhất khẩu hiệu tự do báo chí, cũng quy định khi báo chí vu khống, có lời
lẽ thô bỉ, có khuynh hướng gây nguy hại cho thể chế dân tộc và quốc gia sẽ bị
tòa án tối cao truy tố.
Như vậy, tự do báo chí ở Mỹ cũng như ở các quốc gia khác đều được
quy định nhằm mục đích ngăn chặn việc lạm dụng tự do báo chí xâm phạm đến quyền
tự do của cá nhân khác, chống chính quyền, lật đổ chính quyền... và được bảo đảm
bằng các quy định pháp luật.
Ở Việt Nam, nhất là từ sau khi cả nước bước vào công cuộc đổi mới,
những điều kiện pháp lý bảo đảm cho tự do báo chí đã từng bước được xác lập và
ngày càng hoàn thiện. Năm 1989, Quốc hội thông qua Luật Báo chí. Mười năm sau,
năm 1999, Quốc hội thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí
năm 1989. Đây là bước hoàn thiện Luật Báo chí cho phù hợp với những yêu cầu thực
tiễn của công cuộc đổi mới. Năm 2016, Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung đã được Quốc
hội khóa XIII thông qua, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2017. Hiến pháp năm
2013 có riêng một chương (Chương II) quy định về Quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân, trong đó Điều 25 nêu rõ: “Công dân có quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình”; đồng
thời cũng nêu: “Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Luật Báo
chí năm 2016 cũng quy định tại Chương II về quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo
chí của công dân. Trong đó, Điều
13 quy định: “Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện
quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy
đúng vai trò của mình”; đồng thời cũng quy định: “Báo chí, nhà báo hoạt động
trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ. Không ai được lạm dụng quyền
tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân”. Đặc biệt khoản 3, Điều
13 quy định: “Báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát
sóng”.
Rõ ràng, ở Việt Nam, mọi công dân đều có quyền tự do ngôn luận, tự
do báo chí trong khuôn khổ pháp luật như ở các quốc gia khác.
Tránh “bẫy tự do báo chí” trong thời kỳ đẩy mạnh hội nhập quốc tế
Trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, các mối quan hệ
song phương, đa phương đã tạo nên sự giao thoa khá mạnh mẽ về mọi mặt trong đời
sống xã hội và các mối quan hệ xã hội. Do đó, đối với bất kỳ quốc gia nào bước
vào hội nhập quốc tế cũng đều phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa đẩy mạnh
hội nhập quốc tế với giữ gìn bản sắc dân tộc nói chung và giữ gìn các giá trị
truyền thống, các quan điểm truyền thống đối với từng lĩnh vực, từng vấn đề nói
riêng. Trong lĩnh vực báo chí, Nhà nước ta luôn bảo đảm tự do báo chí, tự do
ngôn luận trên cơ sở thông tin trên báo chí phải chính xác, trung thực; phải vì
lợi ích quốc gia, dân tộc, cộng đồng, vì mục tiêu phát triển; phải phù hợp với
lịch sử văn hóa, phong tục, tập quán, truyền thống dân tộc; phải phù hợp thông
lệ quốc tế, các cam kết mà Việt Nam ký kết, tham gia; phải trong khuôn khổ pháp
luật.
Quan điểm bảo đảm tự do ngôn luận, tự do báo chí là định hướng, nền
tảng cho việc xây dựng hệ thống pháp luật quản lý nhà nước về báo chí. Ngược lại,
hoạt động quản lý nhà nước về báo chí nhằm bảo đảm để tự do ngôn luận, tự do
báo chí không bị lợi dụng, không rơi vào “bẫy tự do báo chí” của các thế lực thù
địch, cơ hội chính trị; không để lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí xâm phạm,
xúc phạm các cá nhân, tập thể; bảo đảm cho tự do ngôn luận, tự do báo chí được
thực hiện trong khuôn khổ pháp luật, phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt
Nam ký kết, tham gia.
Giăng chiếc “bẫy tự do báo chí”, các thế lực thù địch rêu rao
chúng ta không cho phép báo chí tư nhân là không có tự do ngôn luận, tự do báo
chí. Chúng lợi dụng các vụ, việc một số nhà báo có hành vi vi phạm pháp
luật và đạo đức người làm báo bị xử lý để cho rằng tự do ngôn luận, tự do báo
chí ở Việt Nam bị hạn chế… Để đối phó với thực tế này và trong bối cảnh thông
tin đa chiều, đặc biệt là khi người đọc không phải tìm kiếm mà thông tin được
chủ động đưa đến cho người đọc (thậm chí người đọc phải tiếp nhận thông tin một
cách bị động - bị gửi vào facebook, zalo, viber…) thì việc cung cấp những nguồn
tin chính xác, kịp thời cho báo chí chính là cách thức nhanh nhất, hiệu quả nhất
để định hướng và quản lý thông tin. Thời gian qua, Đảng, Nhà nước đã áp dụng
phương pháp quản lý vừa thuyết phục, nhắc nhở, vừa cưỡng chế bằng các chế tài,
công cụ pháp luật. Thuyết phục, nhắc nhở là thông qua tổ chức
định hướng thông tin thường xuyên, đặc biệt khi có các sự kiện lớn, các sự việc
nhạy cảm. Cưỡng chế là ban hành và thông qua các
quy định pháp luật để bảo đảm mọi công dân đều có quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí.
Việt Nam đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, cũng như bất kỳ quốc gia nào chúng
ta cũng đặt ra yêu cầu vừa phát triển quan hệ, nhanh chóng hội nhập quốc tế, vừa
bảo đảm chủ quyền, độc lập dân tộc, bình đẳng, các bên cùng có lợi. Mục tiêu của
báo chí cách mạng Việt Nam là vừa phục vụ nhu cầu thông tin của người dân, vừa
là vũ khí chống lại các thế lực thù địch trên mặt trận tư tưởng. Do vậy, nếu
không xây dựng được một nền báo chí đủ mạnh thì sẽ không đáp trả được âm mưu,
thủ đoạn của các thế lực thù địch. Trong quá trình hội nhập quốc tế, để đồng thời
bảo đảm tự do ngôn luận, tự do báo chí, trước hết, ngay các nhà báo, các cơ
quan báo chí Việt Nam phải xác định được rõ thế nào là tự do báo chí trong
khuôn khổ pháp luật, các cơ quan quản lý báo chí phải định hướng và xác định rõ
những “tinh hoa” cần tiếp thu và những gì là chiêu bài lợi dụng của các thế lực
thù địch, cơ hội chính trị để không rơi vào “bẫy tự do báo chí”.
Trong thời gian tới, để giải quyết vấn đề này, xét từ góc độ quản
lý nhà nước, cần đồng thời thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Một là, xây dựng một hệ thống pháp
luật hoàn chỉnh, đồng bộ trong lĩnh vực báo chí. Hiện chúng ta đã có hệ thống
pháp luật tương đối cơ bản, từ Hiến pháp đến Luật Báo chí đều đã có những quy định
cụ thể về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Tuy nhiên, các văn bản dưới luật
từ nghị định đến thông tư hướng dẫn chưa có sự thống nhất, đồng bộ. Đặc biệt với
các hoạt động báo chí liên quan đến nước ngoài, cần có các điều khoản cụ thể,
phù hợp với tình hình trong nước và các quy định quốc tế. Chất lượng, hiệu quả
quản lý xã hội của nhà nước pháp quyền phụ thuộc vào mức độ hoàn thiện của hệ
thống pháp luật. Vì vậy, yêu cầu về một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đồng
bộ, thống nhất trong lĩnh vực báo chí là hết sức cần thiết.
Hai là, xây dựng được một chuẩn mực
đạo đức nghề báo chung, khuyến khích từng cơ quan báo chí chủ động xây dựng các
quy định, chuẩn mực phù hợp trên cơ sở chuẩn mực đạo đức nghề báo chung, đồng
thời làm tốt việc giám sát thực hiện các quy định này, phối hợp với các cơ quan
hữu quan nghiêm khắc, kịp thời xử lý các nhà báo, cơ quan báo chí có vi phạm.
Ba là, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước về báo chí đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
thời kỳ hội nhập quốc tế: có trình độ chuyên môn, có kỹ năng quản lý khoa học,
hiệu quả, có khả năng sử dụng công nghệ, ngoại ngữ và có tư tưởng chính trị vững
vàng...
Bốn là, đổi mới tư duy quản lý,
phương thức quản lý, rà soát các nội dung quản lý phù hợp với tình hình thực tế.
Xác định rõ các nguyên tắc làm việc thông qua các quy định, quy chế và bảo đảm
thực hiện nghiêm túc; bảo đảm có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa cơ quan chỉ
đạo, cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan chủ quản, người đứng đầu cơ quan báo chí
ở cả Trung ương và địa phương. Bộ Thông tin và Truyền thông là cơ quan chịu
trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về báo chí cần chủ động
phối hợp bằng nhiều hình thức với các cơ quan chủ quản các cơ quan báo chí
trong thực hiện quản lý nhà nước về báo chí; ở địa phương, ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương, các sở thông tin và truyền thông phát huy vai
trò chủ động trong quản lý nhà nước về báo chí trong phạm vi địa phương theo sự
phân cấp của Chính phủ nhằm bảo đảm tự do ngôn luận, tự do báo chí.
Năm là, thường xuyên thanh tra, kiểm
tra, xử lý nghiêm minh, kịp thời các vi phạm. Thanh tra, kiểm tra là nhiệm vụ quan trọng,
là một công cụ quản lý không thể thiếu của cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt
động báo chí. Hoạt động này tốt, hiệu quả quản lý nhà nước được nâng cao, ngược
lại, hoạt động này chưa tốt thì hiệu quả quản lý nhà nước cũng bị hạn chế... Hoạt
động thanh tra, kiểm tra cần được thực hiện vừa thường xuyên, vừa đột xuất, và
đồng bộ trên mọi mặt, cả tài chính kinh tế, công tác tổ chức, nhân sự, đặc biệt
là thông tin trên báo chí.
Sáu là, tích cực đẩy mạnh hợp tác
quốc tế để học hỏi các kinh nghiệm quản lý hoạt động báo chí của các nước. Việc
áp dụng một số phương pháp vào thực tế quản lý báo chí ở Việt Nam đã cho thấy
hiệu quả.
Thực hiện tốt nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý báo chí sẽ
bảo đảm cho sự thống nhất về tư tưởng, giúp báo chí hoàn thành nhiệm vụ chính
trị, không bị động trước sự tấn công của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị
trên mặt trận tư tưởng, tránh được “bẫy tự do báo chí”, đồng thời bảo đảm tự do
ngôn luận, tự do báo chí và thúc đẩy sự nghiệp báo chí cách mạng Việt Nam phát
triển mạnh mẽ trong thời kỳ hội nhập quốc tế./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét