Quyền con người (QCN)
là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử nhân loại, là giá trị cao quý chung
của các dân tộc. Ngày nay, QCN được xem như là thước đo sự tiến bộ và trình độ
văn minh của các xã hội, không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển
và bản sắc văn hóa.
Quyền tự do ngôn
luận, báo chí và quyền tiếp cận thông tin là một quyền cơ bản, quan trọng của
cá nhân được quy định trong nhiều công ước quốc tế về QCN. Ở Việt Nam, QCN được
quy định trong các hiến pháp, đặc biệt là Hiến pháp năm 2013.
Thế nhưng trong dịp
đầu năm 2018, trên trang mạng Dân luận và nhiều hãng thông tấn, báo chí phương
Tây đã tán phát “Bản lên tiếng về quyền được nói và nghe sự thật”. Văn bản này
do những tổ chức xã hội mạng phi pháp và một số cá nhân tự xem mình là người
“bất đồng chính kiến” ký. Điều đáng chú ý là có nhiều trang mạng và cá nhân ở
nước ngoài, như Hoa Kỳ, Canada, Australia… đã hùa theo “Bản lên tiếng...” mà về
bản chất là sự xuyên tạc, phủ nhận quyền tự do ngôn luận, báo chí, internet ở
Việt Nam. “Bản lên tiếng...” đưa ra một số vụ án, trong đó những bị can, bị cáo
đã sử dụng mạng xã hội, nhất là Facebook làm minh chứng. Văn bản ảo này đòi hủy
bỏ nhiều điều luật trong Chương XI-Về các tội phạm an ninh Quốc gia, như Điều
79 (Tội lật đổ chính quyền nhân dân), Điều 88 (Tội tuyên truyền chống Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam) và Điều 258 (Tội lợi dụng các quyền
tự do dân chủ xâm phạm quyền và lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, công dân) của Bộ luật Hình sự 1999, vẫn được giữ lại trong Bộ luật
Hình sự 2015. Và họ còn đòi “trả lại toàn bộ sự thật liên quan đến biến cố Mậu
Thân, 1968”.
Pháp luật Việt Nam
cũng như các quốc gia khác, quyền bao giờ cũng đi đôi với nghĩa vụ. Hiến pháp
và nhiều bộ luật Việt Nam đã quy định rõ ràng các quyền tự do ngôn luận, báo
chí, kể cả sử dụng mạng xã hội và quyền tiếp cận thông tin… Cho đến nay, ở Việt
Nam có hàng triệu người đã và đang sử dụng mạng xã hội để trao đổi thông tin,
chia sẻ quan điểm chính trị, giá trị xã hội một cách công khai. Hơn nữa, mạng
xã hội còn được Nhà nước Việt Nam đánh giá là một điều kiện cho sự phát triển
của đất nước.
Theo tổ chức nghiên
cứu về mạng xã hội quốc tế-Next Web, Việt Nam nằm trong “Top 10” quốc gia có
nhiều người dùng Facebook nhất thế giới. Số người có tài khoản trên Facebook là
64 triệu người, chiếm 3% tổng số tài khoản Facebook toàn cầu. Người dân có thể
đăng tải lên mạng và tải về các video/clip hoàn toàn không bị cấm đoán nếu
không vi phạm pháp luật. Vậy vì sao trong số 64 triệu tài khoản Facebook của
người Việt chỉ có một số rất ít người, như Hồ Văn Hải, Vũ Quang Thuận, Hoàng
Đức Bình…bị ra tòa?
Đó
là vì họ đã vi phạm pháp luật. Chẳng hạn Hồ Văn Hải với trang blog và tài khoản
Facebook đã đăng nhiều bài viết bôi nhọ, xuyên tạc đường lối, chủ trương của
Đảng và Nhà nước; Vũ Quang Thuận và Nguyễn Văn Điển đã đăng tải nhiều
video/clip lên internet, phỉ báng chính quyền, phao tin bịa đặt, xuyên tạc sự
thật. Hoàng Đức Bình vi phạm tội “Chống người thi hành công vụ”; “Lợi dụng các
quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của
tổ chức, công dân”, quy định tại Điều 257 và 258 của Bộ luật Hình sự (1999)
trong vụ “biểu tình bất bạo động” đòi đuổi Formosa, tụ tập đông người cố tình
gây ách tắc Quốc lộ 1A đoạn qua Hà Tĩnh, Nghệ An vào tháng 5-2017.
“Bản lên tiếng...”
đòi trả lại “Toàn bộ sự thật liên quan đến biến cố Mậu Thân, 1968” thì câu trả
lời là: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 nằm trong chiến lược
quân sự, chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam, tạo ra bước ngoặt cho cuộc kháng
chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Cuộc tổng tiến công này đã đập tan ý chí giành
chiến thắng của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải ngồi vào bàn đàm phán, tạo thế và
lực để quân dân ta giành toàn thắng vào năm 1975. Nếu ai đó thật sự thương cảm
đồng bào bị “sát hại” (như “Bản lên tiếng...” viết) trong cuộc Tổng tiến công
và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968… thì hãy nhớ thắp hương cho hàng triệu đồng bào,
chiến sĩ cách mạng đã hy sinh trong cuộc chiến tranh chống xâm lược này… trong
đó có những người đã ngã xuống trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu
Thân 1968.
Tôn trọng và bảo đảm
QCN thuộc bản chất và là một mục mục tiêu của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Tuy
nhiên, trong thời kỳ 1975-1986 do nhận thức lý luận về CNXH-Đảng Cộng sản Việt
Nam chủ trương xây dựng xã hội XHCN kiểu cũ, sở hữu tư nhân, kinh tế thị trường
bị xóa bỏ, một số QCN trên lĩnh vực kinh tế, xã hội đã bị hạn chế. Trong thời
kỳ đổi mới (từ 1986 đến nay) với mô hình XHCN kiểu mới-xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, các QCN ở Việt Nam được
được tôn trọng và bảo đảm đầy đủ.
Lần đầu tiên Hiến
pháp năm 2013 dành cả một chương (Chương II ) quy định về “QCN, quyền và nghĩa
vụ công dân”. Chương này, không chỉ quy định đầy đủ các QCN, quyền và nghĩa vụ
công dân mà còn quy định những nguyên tắc cơ bản về QCN. Những nguyên tắc đó
bao gồm: 1) Nguyên tắc về mối quan hệ giữa Nhà nước với người dân, trong đó Nhà
nước có nghĩa vụ, người dân là chủ thể của quyền; 2) Nguyên tắc hạn chế quyền
(Điều 24); quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin, hội
họp, lập hội, biểu tình… (Điều 25) có thể bị hạn chế “vì lợi ích an ninh quốc
gia, trật tự xã hội…”.
Những năm qua, QCN,
quyền công dân của nhân dân Việt Nam không chỉ được quy định trong Hiến pháp,
pháp luật mà còn được bảo đảm trong thực tế. Nhiều quyền dân sự, chính trị đã
được bảo đảm ngày càng tốt hơn. Qua nhiều hình thức cung cấp, ngoài hệ thống
báo chí trong nước, người dân Việt Nam còn được tiếp xúc với 75 kênh truyền
hình nước ngoài thuộc nhiều hãng truyền thông lớn trên thế giới. Hiện nay, 20
cơ quan báo chí nước ngoài có phóng viên thường trú tại Việt Nam. Đặc biệt,
internet được Nhà nước khuyến khích sử dụng. Hiện, có tới 74 báo và tạp chí
điện tử, 336 mạng xã hội, hơn 1.170 trang thông tin điện tử được cấp phép hoạt
động. Giá dịch vụ internet ở Việt Nam rẻ nhất khu vực. Ngày nay, người dân Việt
Nam có thể tiếp cận tin tức của các cơ quan thông tấn, báo chí lớn trên thế
giới, như: AFP, AP, BBC, VOA, Reuters, Kyodo, Economist, Financial Times…Với
những số liệu nêu trên, không thể nói quyền tự do ngôn luận, báo chí, internet
ở Việt Nam bị “bóp nghẹt” như nhiều người tự xưng là người “bất đồng chính
kiến” nói.
Năm 2016, Quốc hội
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã thông qua Luật Tiếp cận thông tin (TCTT). Đây là
một văn kiện pháp luật cụ thể hóa về quyền tự do ngôn luận, báo chí của Hiến
pháp năm 2013. Theo quy định của Luật TCTT thì quyền TCTT là một quyền có thể
bị hạn chế hoặc là quyền có điều kiện. Những quyền bị hạn chế chẳng hạn: “Thông
tin thuộc bí mật Nhà nước, bao gồm những thông tin có nội dung quan trọng thuộc
lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh quốc gia, đối ngoại, ...”; những thông
tin mà “nếu để tiếp cận sẽ gây nguy hại đến lợi ích của Nhà nước, ảnh hưởng xấu
đến quốc phòng, an ninh quốc gia, quan hệ quốc tế, trật tự, an toàn xã hội, đạo
đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng…” (Điều 6). Những thông tin được tiếp cận có
điều kiện: “Thông tin liên quan đến bí mật kinh doanh được tiếp cận nếu chủ sở
hữu bí mật kinh doanh đó đồng ý”... "Thông tin liên quan đến bí mật đời
sống riêng tư, nếu được người đó đồng ý” (Điều 7). Điều 11 quy định về các hành
vi bị nghiêm cấm, bao gồm: “Cố ý cung cấp thông tin sai lệch, không đầy đủ, trì
hoãn việc cung cấp thông tin; hủy hoại thông tin; làm giả thông tin… Cung cấp
hoặc sử dụng thông tin nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín, gây kỳ thị về
giới, gây thiệt hại về tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức...”
Luật này cũng quy
định quyền và nghĩa vụ của công dân (trong việc TCTT). Đó là những quyền sau:
“Được cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời; Khiếu nại, khởi kiện, tố
cáo hành vi vi phạm pháp luật về tiếp cận thông tin”. Đồng thời công dân có
nghĩa vụ sau: “Tuân thủ quy định của pháp luật về TCTT; …Không làm sai lệch nội
dung thông tin đã được cung cấp; Không xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của
cơ quan, tổ chức hoặc của người khác khi thực hiện quyền TCTT”.
Trước tình hình nhiều
cá nhân, tổ chức sử dụng mạng xã hội, internet vi phạm quyền, lợi ích quốc gia,
quyền, lợi ích cá nhân, Bộ luật Hình sự 2015 đã có những quy định bảo vệ các
quyền này. Điều 288 quy định về Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng
máy tính, mạng viễn thông: “Phạt tiền” người nào thực hiện nhằm “thu lợi bất
chính”; “gây dư luận xấu làm giảm uy tín của cơ quan, tổ chức, cá nhân” số tiền
phạt lên đến hàng tỷ đồng. “Phạt cải tạo không giam giữ” phạt tù từ 6 tháng đến
3 năm đối với những người: a) Đưa lên mạng máy tính, mạng viễn thông “những
thông tin trái với quy định của pháp luật...”.
Thời gian qua, không
ít người cho rằng, mọi người đều có quyền sử dụng mạng viễn thông, mạng máy
tính, mạng xã hội-xem đó là một quyền tuyệt đối không có giới hạn. Nói cụ thể
là người ta hiểu rằng có quyền đưa thông tin sai sự thật, thông tin bịa đặt...
lên mạng mà không phải chịu trách nhiệm gì về những thông tin mình đưa lên.
“Bản lên tiếng...” nói trên là một ví dụ. Trong nhiều “tuyên ngôn”, “tuyên bố”,
“thư ngỏ” gửi cơ quan, tổ chức, các đồng chí lãnh đạo... thời gian qua thực
chất là thủ đoạn chính trị xuyên tạc đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng
và Nhà nước; xuyên tạc lịch sử cách mạng, bôi nhọ các đồng chí lãnh đạo; phá
hoại mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân; kích động hận thù dân tộc; phá hoại
quan hệ quốc tế của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Bởi vậy hơn lúc nào hết,
cán bộ, đảng viên và người dân cần hiểu rõ, nắm vững các quy định của pháp luật
về quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, quyền TCTT; nâng cao tinh thần cảnh
giác với những thủ đoạn tung tin ảo trên mạng xã hội, tránh tình trạng vô tình
trở thành người vi phạm pháp luật, phá hoại chế độ.
Nguồn: www.qdnd.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét