Đúng
vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập trước toàn thể dân tộc Việt Nam và cộng
đồng quốc tế, khai sinh ra chế độ xã hội mới cùng với sự ra đời của nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa, mở ra một thời đại mới cho dân tộc ta - thời đại độc lập
dân tộc gắn với những giá trị cao cả nhất của nhân loại. Đó là tự do, bình
đẳng, bác ái gắn với hòa bình và tình hữu nghị giữa các dân tộc.
Trên 2/3 thế kỷ, kể từ khi bản Tuyên
ngôn độc lập ra đời, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc ta đã
bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, xây dựng đất nước hướng tới mục tiêu dân
giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thế nhưng trong những ngày mùa thu
năm nay, lợi dụng internet, mạng xã hội, các thế lực thù địch trong và ngoài
nước, những phần tử thoái hóa về tư tưởng chính trị đã tải lên mạng những bình
luận xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ chế độ nhằm chuyển hóa chế độ ta sang con đường
“dân chủ, nhân quyền” ngoại nhập.
Họ viết: “Cách mạng tháng Tám là “ăn
cướp” chính quyền từ tay chính phủ Trần Trọng Kim”. Gần đây, còn có kẻ tải lên
mạng mà chúng gọi là “nỗi buồn mùa thu”, nuối tiếc chính phủ Trần Trọng Kim với
bản Tuyên ngôn độc lập của “Nước đế quốc Việt Nam” cùng với “Hoàng đế Bảo Đại”
(!). =
Có kẻ còn viết rằng, Chủ nghĩa
Mác-Lênin và Cách mạng tháng Tám đã đưa dân tộc vào các cuộc chiến tranh “huynh
đệ tương tàn”… Thực là, chỉ có những kẻ tâm thần về chính trị khi ngày nay vẫn
đặt bút, gõ phím viết và tải lên mạng những nội dung kỳ quặc rằng trong chế độ
Trần Trọng Kim vẫn có “Hoàng đế” và niềm tự hào dân tộc là “quốc gia đế quốc”
(!?).
Trong bản Tuyên ngôn độc lập, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã trích lại 2 bản tuyên ngôn có ý nghĩa thời đại. Đó là Tuyên
ngôn độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách
mạng Pháp năm 1789.
Lịch sử cho thấy, những lực lượng
cầm quyền ở hai nền dân chủ đó đã đi ngược lại các giá trị hai bản tuyên ngôn
nói trên. Họ chẳng những không chia sẻ giá trị dân chủ với các dân tộc khác mà
trái lại đã phản bội lại những lý tưởng đó. Các cuộc chiến tranh xâm lược Việt
Nam của thực dân Pháp (1945-1954) và đế quốc Mỹ (1954-1975) nhằm tạo dựng chế
độ độc tài tàn bạo cho thấy rõ điều đó.
Gần 90 năm qua (1930-2018), đi theo
con đường của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn trung thành
với mục tiêu độc lập dân tộc, xây dựng chế độ xã hội XHCN. Ngay sau khi giành
được chính quyền trong cả nước, trong điều kiện thù trong giặc ngoài, Đảng ta
đã chỉ đạo tiến hành tổng tuyển cử trong cả nước xây dựng Nhà nước theo mô hình
“dân chủ, cộng hòa”, trao quyền lại cho toàn dân, theo nguyên tắc chính quyền
các cấp, từ cơ sở đến Trung ương đều do nhân dân bầu ra, đại diện cho quyền và lợi
ích của đại đa số nhân dân.
Do nhiều nguyên
nhân, trong một vài thời kỳ lịch sử, một số quyền con người (QCN) của nhân dân
ta đã bị một số hạn chế. Chẳng hạn trong thời kỳ chiến tranh, Nhà nước ta không
thể tiến hành các cuộc bầu cử theo luật định để bảo đảm quyền bầu cử và ứng cử
của nhân dân. Trong thời kỳ trước đổi mới theo mô hình cũ của CNXH với nền kinh
tế kế hoạch hóa, các thành phần kinh tế tư nhân và kinh tế thị trường bị kỳ
thị, do đó các quyền về chính trị, nhất là về kinh tế, trong đó có quyền lựa
chọn thành phần kinh tế của người dân không được bảo đảm. Những khiếm khuyết
này đã được khắc phục trong mô hình xã hội XHCN kiểu mới, mở đầu từ Đại hội VI,
1986.
Có thể nói, cho đến nay lý tưởng của
bản Tuyên ngôn độc lập, 1945 đã được hiện thực hóa trong chế độ dân chủ XHCN
với những đặc trưng dân tộc, đồng thời mang giá trị thời đại. Đó là:
1 - “Không có gì quý hơn độc lập, tự
do”.
Là một quốc gia
nằm ở một trong những đại bản địa – chính trị quan trọng bậc nhất khu vực Đông
Nam Á và thế giới, Việt Nam luôn luôn phải ứng phó với tham vọng về lãnh thổ và
chiến lược cạnh tranh chính trị, kinh tế giữa các nước lớn ở Biển Đông.
Từ kinh nghiệm lịch sử, Việt Nam
phải ứng phó bằng chiến lược chính trị- quân sự, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa
với tinh thần và ý chí “kiên trì, kiên quyết” giữ gìn hòa bình và chủ quyền
quốc gia trên đất liền, trên biển, trên không và trên không gian mạng. Tuy
nhiên tinh thần yêu nước, ý thức về độc lập dân tộc không phải một dạng của chủ
nghĩa dân túy giả danh, tham vọng về lãnh thổ hoặc áp đặt về chế độ chính trị
của dân tộc mình cho dân tộc khác.
Nhà nước CHXHCN Việt Nam ngày nay là
một thành viên có trách nhiệm của Liên hợp quốc, luôn tôn trọng Hiến chương
Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế.
2 - Yêu chuộng hòa bình, thủy chung với
bạn bè quốc tế
Yêu chuộng hòa bình là một truyền
thống của dân tộc. Tuyên ngôn độc lập năm 1945 đã phát triển truyền thống đó
trong bối cảnh của thời đại mới, đó là yêu chuộng hòa bình, thủy chung với bạn
bè gần xa trong cộng đồng quốc tế, không phân biệt chế độ chính trị, ý thức hệ;
gác lại quá khứ, hướng tới tương lai.
Cho đến nay tất cả các quốc gia đã
từng phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam đều đã trở thành bè bạn, đối tác
chiến lược, có nước đã trở thành đối tác toàn diện của Việt Nam.
Ngày nay, Việt Nam thực hiện chính
sách quân sự “ba không”. Đó là “không tham gia các liên minh quân sự, không là
đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ
quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia. Với chính sách
này, các nước láng giềng gần xa không lo sợ Việt Nam có thể có hành động nào đó
làm phương hại đến lợi ích quốc gia của họ.
Đây cũng là
thông điệp với các nước lớn: Việt Nam không phải là “con bài” mà họ có thể lợi
dụng vì lợi ích của họ. Tuy nhiên chính sách này không cản trở Việt Nam trở
thành bạn bè, đối tác chiến lược và đối tác toàn diện trong xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Trong bối cảnh quốc tế và khu vực
đang diễn ra phức tạp, nhanh chóng, chiến lược Bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta ngày
nay chỉ rõ việc kết hợp chặt chẽ giữa phương thức đấu tranh phi vũ trang với
đấu tranh vũ trang khi cần thiết để không bị động bất ngờ. Đó là chiến lược bảo
vệ Tổ quốc từ xa, chủ động đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” và phòng, chống
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Nhạy bén, linh hoạt trong xác định
“đối tác” và “đối tượng”, Nghị quyết TW 8 (khóa IX) của Đảng ta xác định:
“Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị,
hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào
có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta”(1).
Quan điểm về “đối tác” và “đối
tượng” kết hợp với chính sách quốc phòng “ba không” là sự hoàn thiện chiến lược
bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta trong bối cảnh chính trị quốc tế và khu vực hiện
nay.
3- Tôn trọng và bảo đảm quyền con
người, quyền công dân (QCN, QCD)
QCN là thành quả phát triển lâu dài
của lịch sử nhân loại, là giá trị cao quý chung của các dân tộc. Ngày nay QCN
được xem như là một thước đo của sự tiến bộ và trình độ văn minh của các xã
hội, không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển và bản sắc văn hóa.
Lịch sử cho thấy, sau 169 năm kể từ
khi có bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ (1776), 156 năm ra đời bản Tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền của Pháp (1789), nhân dân các nước thuộc địa nói chung, nhân
dân Việt Nam nói riêng (trước 1945) vẫn phải sống kiếp nô lệ - sống dưới ách
thống trị của thực dân, phong kiến.
Không quốc gia TBCN nào thật sự chia
sẻ giá trị nhân quyền cho dân tộc ta cũng như các dân tộc thuộc địa khác. QCN
và quyền công dân của dân tộc Việt Nam chỉ ra đời từ khi cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo giành
được thắng lợi vào năm 1945.
Trong Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã trân trọng trích dẫn hai văn kiện: Tuyên ngôn độc lập của Mỹ và
Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp rồi suy ra “tất cả các dân tộc trên
thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung
sướng và quyền tự do”. Bởi vậy có thể nói Tuyên ngôn độc lập năm 1945 là bản
Tuyên ngôn kép - Tuyên ngôn độc lập của dân tộc Việt Nam và Tuyên ngôn về QCN
của các dân tộc thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc.
Sự khác biệt về
QCN của dân tộc ta không chỉ về thời điểm ra đời mà còn về tiền đề, tính chất
và nội dung của các quyền. Tiền đề của QCN của dân tộc ta (và cũng là của các
dân tộc bị áp bức nói chung) là độc lập dân tộc. Không có độc lập dân tộc thì
không thể có QCN. Gắn liền với tiền đề này là một chế độ xã hội của dân, do dân
và vì dân.
Chế độ đó không chỉ xây dựng một lần
là mãi mãi giữ được bản chất của nó mà phải thường xuyên đấu tranh chống suy
thoái bằng nhiều biện pháp. Vì quy luật chung của các chế độ xã hội, nhà nước,
cho dù dựa trên ý thức hệ nào cũng có xu hướng quan liêu hóa.
Chống suy thoái, bảo vệ QCN quyền
công dân bằng pháp luật là một nội dung tư duy chính trị mới của Đảng ta. Hiến
pháp 2013, lần đầu tiên các QCN, quyền và nghĩa vụ công dân đã được Quy định
trong chương II. Nội dung các quy định về quyền và nghĩa vụ, những hạn chế
quyền trong Hiến pháp 2013 hoàn toàn tương thích với các Công ước quốc tế về
QCN của Liên hợp quốc.
Nhiều QCN được
xem là nhạy cảm, phức tạp của người dân trong bối cảnh xuất hiện Internet, mạng
xã hội cũng đã được luật hóa, trên cơ sở vừa bảo đảm QCN vừa bảo vệ chế độ xã
hội. Thể chế hóa Hiến pháp 2013, thời gian qua, Quốc hội ta đã sửa đổi và xây
dựng nhiều luật trên cơ sở bảo đảm QCN gắn với bảo vệ chế độ xã hội
như Bộ luật Hình sự 2015; Luật Báo chí, 2016; Luật Tiếp cận thông tin, 2016;
Nghị định của Chính phủ về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet năm
2013…
Có thể nói, trong lịch sử tư tưởng
Việt Nam và lịch sử tư tưởng nhân loại, hiếm có một văn kiện chính trị nào lại
tích hợp ở đỉnh cao tinh hoa trí tuệ, đồng thời mạng giá trị bền vững như bản
Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo và công bố vào ngày
2-9-1945. 73 năm qua, ở những bước ngoặt của cách mạng, người ta đều tìm thấy
mục tiêu và sự khích lệ từ Tuyên ngôn độc lập.
Chặng đường đổi mới phía trước của
dân tộc ta dưới sự lãng đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục đi theo lý
tưởng của Tuyên ngôn độc lập và nhất định sẽ đem lại những thành tựu mới.
Nguồn:
http://cand.com.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét