Thứ Hai, 29 tháng 10, 2018

ĐẤU TRANH VỚI CÁC LUẬN ĐIIỆU SAI TRÁI TRÊN MẠNG XÃ HỘI


Gần đây, trên MXH những phần tử cơ hội bất mãn, thoái hóa biến chất trong nước sử dụng để đăng tải không ít thông tin vu khống, bịa đặt, xuyên tạc, bôi nhọ, hạ uy tín các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, nhất là các đồng chí lãnh đạo tỉnh. Bằng các bài viết xuyên tạc, đả kích, âm mưu của chúng nhằm phá hoại nội bộ hòng gây chia rẽ các đồng chí lãnh đạo, trong nội bộ Đảng, tác động tiêu cực tới nhận thức, quan điểm, tư tưởng của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân, gây tâm lý hoang mang, hoài nghi và làm suy giảm lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước. Theo thống kê của Công an từ đầu năm 2018 đến nay đã phát hiện hơn 1000 tài khoản do các đối tượng thường xuyên đăng tải thông tin xuyên tạc, bịa đặt nhằm công kích, hạ uy tín lãnh đạo Đảng, Nhà nước, tung tin thất thiệt gây hoang mang dư luận về vấn đề chính trị, kinh tế. Mới đây nhất, tháng 5-2018 cơ quan an ninh điều tra Công an tỉnh Thanh Hóa đã thi hành lệnh khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can và ra lệnh bắt bị can để tạm giam về tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” đối với Nguyễn Duy Sơn, sinh năm 1981, ở phường Bắc Sơn (TP Sầm Sơn) theo quy định tại Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Theo kết quả điều tra của cơ quan an ninh điều tra: Từ tháng 12 đến tháng 3-2018, đối tượng Nguyễn Duy Sơn đã trực tiếp tạo lập và sử dụng tài khoản facebook có nickname “Nguyễn Sơn” để đăng tải các bài viết xuyên tạc, bôi nhọ, hạ uy tín các đồng chí  lãnh đạo Đảng, Nhà nước và lãnh đạo tỉnh. Thủ đoạn hoạt động của Nguyễn Duy Sơn là vào các trang phản động và các trang MXH, các trang thông tin đại chúng lấy các thông tin liên quan đến các vấn đề về tham nhũng và tiêu cực, sau đó xuyên tạc, nói xấu Đảng, Nhà nước và các đồng chí lãnh đạo rồi đăng tải, chia sẻ công khai trên trang facebook cá nhân của mình kèm theo lời bình luận, hình ảnh minh họa, dẫn chứng không có thật, không có căn cứ để nói xấu và hạ uy tín của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và địa phương. Được biết, Nguyễn Duy Sơn từng là cán bộ quản lý học sinh, sinh viên của Trường dự bị đại học dân tộc Sầm Sơn, sau đó bị buộc thôi việc. Trước đó, tháng 12-2016, cơ quan an ninh điều tra Công an tỉnh đã quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và bắt tạm giam Nguyễn Danh Dũng (sinh năm 1987) có hộ khẩu tại phường Tào Xuyên (TP Thanh Hóa) về tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” quy định tại Bộ luật Hình sự. Đối tượng đã lập các tài khoản trên MXH, đăng hơn 700 bài viết, video clip có nội dung xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước bôi nhọ các đồng chí lãnh đạo.
Qua đấu tranh cho thấy, các đối tượng đăng tải thông tin bịa đặt, xuyên tạc có nguyên nhân do tư lợi cá nhân, do thiếu hiểu biết, thiếu nhận thức, thích khai thác các loại thông tin đa chiều trên mạng internet nhưng thiếu bản lĩnh để phân tích, xử lý thông tin; bình luận, cổ xúy những sự kiện, vấn đề nhưng không hiểu được nội dung, bản chất do đó đã dẫn đến những hành vi vi phạm pháp luật. Vì vậy, để tránh những tác động xấu của MXH, người sử dụng MXH cần phải tỉnh táo, nhận rõ tính hai mặt của MXH, nhất là mặt tiêu cực, tránh tình trạng vô tình tiếp tay cho các hoạt động chống phá; phải tự nâng cao cảnh giác, tự phòng ngừa, có kiến thức toàn diện, hiểu biết thực tiễn chính trị - xã hội trong nước và thế giới, biết chia sẻ, làm chủ bản thân, biết kiềm chế trong mọi tình huống mà MXH mang đến.
Từ những thông tin đã nêu, cho thấy, giải pháp tuyên truyền, giáo dục nhận thức và kỹ năng, để mỗi công dân trở thành một người dùng MXH thông thái, có “sức đề kháng” và khả năng phân biệt thông tin chính thống với thông tin giả mạo, xuyên tạc là giải pháp cơ bản, quan trọng. Mỗi công dân hiện đang giữ một “chìa khóa” an ninh mạng của quốc gia, vì chủ quyền và lợi ích quốc gia, dân tộc, bởi vậy cần thiết phải kiên trì xây dựng mỗi công dân trở thành một chiến sĩ trên mặt trận bảo đảm an ninh mạng.
Để chủ động phòng ngừa, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên MXH, thời gian qua, các lực lượng 47  luôn phát huy vai trò nòng cốt, xung kích trên lĩnh vực đảm bảo an ninh trật tự, chủ động tham mưu và phối hợp với các đơn vị nghiệp vụ triển khai đồng bộ, có hiệu quả nhiều giải pháp tích cực nhằm phòng ngừa, đấu tranh phản bác, xử lý các đối tượng có quan điểm sai trái, thù địch thường xuyên tuyên truyền, nói xấu, xuyên tạc, bôi nhọ, xúc phạm, hạ uy tín của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Mặc dù, công tác phòng ngừa, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch là rất khó khăn, phức tạp nhưng được sự quan tâm phối hợp của các đơn vị nghiệp vụ lực lượng này đã đóng góp nhiều kết quả quan trọng trong việc phòng ngừa, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch. Ý thức trách nhiệm, kinh nghiệm và năng lực của đoàn viên, thanh niên trong lĩnh vực này đã từng bước được nâng lên rõ rệt. Nhiều bài viết phản bác của đoàn viên, thanh niên đã đấu tranh vạch trần âm mưu phá hoại và luận điệu xuyên tạc, kích động của các đối tượng phản động.
MXH là “con dao hai lưỡi”. Nhận thức chung trên toàn thế giới đều khẳng định điều này. Bởi vậy, để người dùng MXH hiện nay từng bước thích ứng tích cực với môi trường mạng, biết sàng lọc thông tin xấu, độc, tiếp nhận thông tin hữu ích, biến MXH thực sự là công cụ kỳ diệu trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, việc phổ cập những phương thức cơ bản về bảo đảm an ninh mạng đến mọi công dân là cần thiết và cấp bách. “Đơn cử, như việc nhận diện tên miền là một kỹ năng đơn giản nhưng lại rất quan trọng, rất cần thiết để người dùng internet có thể phân biệt đâu là website đáng tin cậy, đâu là website giả mạo, không đáng tin. Tên miền là đường dẫn tới các địa chỉ trên internet, được xem như “số nhà”, “định danh” trên internet. Thông qua tên miền, có thể nhận dạng được về thông tin trên mạng, giúp người sử dụng internet nhận thức, xác định nguồn thông tin tốt, tránh tiếp cận nguồn thông tin xấu”.
Cuộc đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch trên MXH là “cuộc chiến” không khói súng, tính chất khó khăn và phức tạp. Vì vậy, trong cuộc đấu tranh này cần sự vào cuộc quyết liệt, đồng bộ và toàn diện; các giải pháp về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cơ chế, chính sách, pháp luật với quyết tâm cao, nhất là của đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu các tổ chức đảng, chính quyền các cấp.
Đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên MXH là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài và quan trọng đối với mỗi cán bộ, đảng viên và cả hệ thống chính trị. Bởi vậy, vẫn cần nhiều hơn nữa những giải pháp, những quyết tâm và quan trọng hơn cả chính là “lòng yêu nước”; “sự thông thái” để góp phần hữu hiệu ngăn chặn các âm mưu phá hoại, chống “diễn biến hòa bình”, bảo vệ nền tảng tư tưởng, đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ XHCN - chế độ tốt đẹp mà Đảng và nhân dân ta đang dày công xây dựng.
VĐV

CHỦ ĐỘNG PHÒNG CHỐNG ẢNH HƯỞNG CỦA MẠNG XÃ HỘI ĐỐI VỚI THANH NIÊN QUÂN ĐỘI


Bản chất internet là môi trường mở cho phép người sử dụng được tự do cung cấp, tìm kiếm và sử dụng thông tin, tính truyền tải nhanh, diện tham chiếu rộng, thông tin gần như tức thì, dễ tạo hiệu ứng xã hội theo chiều rộng nên rất khó quản lý và kiểm soát. Tính ưu trội của mạng xã hội với sự đa dạng của các trang mạng xã hội được sử dụng hiện nay như: Facebook, Google, Twitter, Youtube, Zalo, …  còn tạo ra khả năng giao lưu, chia sẻ, kết nối cộng đồng rất thuận lợi. Đây là tính năng đặc biệt hấp dẫn đối với những người sử dụng.

BẢN ÁN 20 NĂM TÙ CHO TÊN KHỦNG BỐ VIỆT TÂN LÊ ĐÌNH LƯỢNG CÓ XỨNG ĐÁNG


Ngày 16/6/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” đối với bị cáo Lê Đình Lượng với mức án 20 năm tù giam và 5 năm quản chế.
Lợi dụng phiên tòa này, nhất là trước thời gian dự kiến ngày 18/10/2018, Toà án nhân dân tỉnh sẽ mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án, các thế lực thù địch trong và ngoài nước, đặc biệt là tổ chức khủng bố Việt Tân, “Hội anh em dân chủ”, “Tổ chức nhà báo không biên giới”, số chức sắc cực đoan trong Công giáo, thân nhân Lê Đình Lượng đã lợi dụng mạng xã hội để đăng tải, chia sẻ nhiều bài viết có nội dung ca ngợi, cổ xúy cho Lê Đình Lượng, kêu gọi hiệp thông đòi trả tự do cho đối tượng; xuyên tạc, vu cáo phiên tòa, bôi nhọ các lực lượng chức năng tỉnh Nghệ An tham gia vào quá trình bắt, điều tra, truy tố, xét xử đối tượng Lê Đình Lượng. Điều đó càng thể hiện bản chất phản động có tổ chức của chúng.
Ở bài viết này, tôi xin vạch trần rõ từng chân tơ, kẽ tóc chân dung của tên khủng bố Việt Tân Lê Đình Lượng cho mọi người thấy rõ:
Lê Đình Lượng sinh 10/12/1965, tại xã Hợp Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, là giáo dân thuộc xứ đạo Vĩnh Hòa.
Năm 2015, Lê Đình Lượng sử dụng Facebook có tên “Lỗ Ngọc” theo dõi và kết bạn với Facebook của Nguyễn Văn Hóa có tên là “Nguyễn Văn Hóa (Maria Luygonjaga), là người thường xuyên sử dụng facebook đăng tải các luận điệu xuyên tạc chống Đảng, Nhà nước.
Sau khi kết bạn với Nguyễn Văn Hóa, Lê Đình Lượng chủ động liên lạc, gặp gỡ và cho Nguyễn Văn Hóa tiền mua máy tính phục vụ lên mạng, đồng thời rủ rê, lôi kéo Nguyễn Văn Hóa đi gặp gỡ các phần tử chống đối trong và ngoài nước.
Tháng 6/2016, Lê Đình Lượng tìm cách đưa Nguyễn Văn Hóa sang Lào để gặp các đối tượng cầm đầu tổ chức khủng bố Việt Tân là Đỗ Hoàng Điềm, Nguyễn Ngọc Đức… Tại đây, các đối tượng đã giao cho Hóa: “Sau khi về nước, thu thập và cung cấp các thông tin biểu tình tại Kỳ Anh để cổ vũ cho phong trào đấu tranh Fomorsa, thông qua các cuộc biểu tình, thấy ai hoạt động năng nổ thì làm quen và giới thiệu cho Lê Đình Lượng đưa vào gia đình thân hữu Việt Tân”. Ngày 30/9/2016, Lê Đình Lượng cho Nguyễn Văn Hóa 3,5 triệu đồng để thuê xe về Việt Nam trước, còn Lượng về sau.
Tháng 12/2016, Lê Đình Lượng nhờ Nguyễn Văn Hóa tìm kiếm trong các cuộc biểu tình chống Fomorsa tại Kỳ Anh, Hà Tĩnh có ai hoạt động năng nổ, cùng chí hướng thì tổ chức tập trung ngồi nói chuyện, giao lưu nhân ngày quốc tế nhân quyền (10/12) rồi giới thiệu để Lượng làm quen đưa vào “gia đình thân hữu Việt Tân”, đồng thời chi trả cho Hóa 6 triệu tiền công.
Ngày 15/12/2016, Lê Đình Lượng mời Nguyễn Văn Hóa về nhà riêng tại xã Hợp Thành để ăn phở (quán Quý Lượng) để bàn việc và trực tiếp đề nghị Nguyễn Văn Hóa tham gia tổ chức khủng bố Việt Tân. Thấy Hóa còn lưỡng lự, Lượng tiếp tục phối hợp với một số đối tượng cầm đầu tổ chức “Việt Tân” thuyết phục Hóa tham gia. Để đạt mục đích, ngày 20/12/2016, Lượng chỉ đạo Hóa chọn, lên danh sách những người tích cực trong cuộc biểu tình ở Hà Tĩnh để Lượng tặng quà dịp Lễ Noel 2016 và làm quen.
Từ ngày 27/12/2016 đến ngày 2/1/2017, Lượng cho Hóa 13,5 triệu đồng để sang Campuchia chơi và xin visa đi Tây Ban Nha dự “Hội nghị tự do báo chí”. Tại Campuchia, Nguyễn Văn Hóa cùng các thành viên “Việt Tân” khác tham gia tập huấn 2 lớp đào tạo về “vai trò người lãnh đạo” và “truyền thông báo chí” có nội dung huấn luyện kỹ năng đấu tranh bất bạo động chống Việt Nam do tổ chức khủng bố Việt Tân tổ chức. Tại đây, ngày 3/1/2017, Nguyễn Văn Hóa, Nguyễn Văn Tráng được Lý Thái Hùng (Tổng bí thư “Việt Tân”) kết nạp vào “Việt Tân” với bí danh lần lượt là Nguyễn Thái Học, Nguyễn Chiến Sỹ… Sau đó, các đối tượng này được giao nhiệm vụ: Hỗ trợ đấu tranh dân chủ cho Việt Nam, tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh cấp trên, tuyệt đối giữ bí mật và trung thành với “Việt Tân”. Riêng Hóa được “Việt Tân” hỗ trợ thêm số tiền 200 USD/tháng để đưa tin hỗ trợ phong trào, tuyển chọn và giới thiệu người cho “Việt Tân”.
Ngoài hành vi tuyên truyền, lôi kéo Nguyễn Văn Hóa, Lê Đình Lượng còn tuyên truyền, lôi kéo nhiều người khác vào tổ chức khủng bố Việt Tân, trong đó có Nguyễn Văn Oai (vừa bị Tòa án tuyên phạt 5 tù, 4 năm quản chế), Nguyễn Viết Dũng (tức Dũng Phi Hổ vừa bị Tòa án tuyên phạt 6 năm tù), Trần Thị Hiền, Đinh Hữu Toàn, Ngô Văn Mai, cụ thể:
+ Ngày 26/11/2010, Lê Đình Lượng trực tiếp chở Nguyễn Văn Oai, Nguyễn Xuân Anh (sinh năm 1992, tại xã Nghi Phú, thành phố Vinh) xuống khách sạn Hải Âu, thị xã Cửa Lò tổ chức kết nạp 2 đối tượng trên vào “Việt Tân”. Tại Lễ kết nạp này, Lê Đình Lượng đã đại diện “Việt Tân” bắt tay chúc mừng và bàn với Nguyễn Văn Oai “tổ chức của chúng ta cần đầu tư thành lập các doanh nghiệp nhỏ tại Việt Nam để kinh doanh lấy kinh phí hoạt động trong nước”.
+ Từ năm 2008 đến cuối năm 2012, Lê Đình Lượng góp vốn kinh doanh với anh Đinh Hữu Toàn (sinh năm 1980, huyện Thanh Chương) và chị Trần Thị Hiền (sinh năm 1973, huyện Thanh Chương) đầu tư, khai thác mùn làm phụ gia phân bón ở xã Thanh An, huyện Thanh Chương. Anh Đinh Hữu Toàn và chị Trần Thị Hiền tố cáo: “Trong thời gian từ năm 2010 đến tháng 8/2012, Lê Đình Lượng thường xuyên công khai nói xấu Đảng, Nhà nước và giới thiệu với anh Toàn, chị Hiền, mình là người của tổ chức “Việt Tân”, đồng thời tuyên truyền “sắp tới “Việt Tân” sẽ về Việt Nam thay thế Đảng Cộng sản lãnh đạo đất nước”. Khi được khuyên bảo thì Lượng cho rằng số người này là ấu trĩ, bị cộng sản lừa gạt và “chỉ có “Việt Tân” mới đem lại tự do, dân chủ, nhân quyền cho Việt Nam”. Cuối năm 2012, Lê Đình Lượng rủ anh Đinh Hữu Toàn “muốn có công lý thì đi với Lượng tham gia tổ chức “Việt Tân”…” nhưng bị từ chối. Ngày 16/7/2015, Lượng còn gửi cho anh Toàn qua Fb bài viết “Trả lại sự thật hình tượng Lê Văn Tám”, với bình luận “Lừa cả dân tộc nhiều thế hệ, đưa cả vào lịch sử” để khẳng định quan điểm của Lê Đình Lượng”. Quá trình hợp tác sản xuất, mặc dù có CMND nhưng Lượng nhiều lần xin số CMND và địa chỉ người khác để giao dịch ngân hàng, trong đó có 2 lần y lấy lý do mất CMND để nhờ anh Toàn, chị Hiền nhận tiền từ nước ngoài gửi về cho Lượng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thanh Chương với số tiền 3,2 nghìn USD (chị Hiền nhận 2,7 nghìn, anh Toàn nhận 500 USD).
+ Cuối năm 2013, sau khi quen biết anh Ngô Văn Mai (là giáo dân, trú tại xã Diễn Hạnh, huyện Diễn Châu) trong một thần tham gia đá bóng cùng nhóm No-U Fc Vinh tại thành phố Vinh, qua vài lần uống rượu trong dịp chầu lượt tại giáo xứ Vĩnh Hòa và tại nhà riêng, tháng 3/2014, Lê Đình Lượng cùng anh Ngô Văn Mai đến uống rượu tại nhà Thái Văn Hòa (xã Diễn Hạnh, huyện Diễn Châu) dịp chầu lượt tại giáo xứ Nghi Lộc. Tại đây Lượng nói với anh Mai “có muốn tham gia tổ chức “Việt Tân” không?… nếu muốn tham gia thì Lượng sẽ đưa vào” nhưng anh Mai từ chối. Để đạt mục đích, Lượng tiếp tục sử dụng Facebook nhắn tin, hỏi lại anh Mai 2 lần nhưng anh mai ko trả lời và chấm dứt quan hệ với Lê Đình Lượng.
+ Đầu năm 2015, thông qua Facebook có tên “Lỗ Ngọc”, Lê Đình Lượng làm quen và qua lại, giao lưu với Nguyễn Viết Dũng (tức Dũng Phi Hổ, sn 1986, trú tại xã Hậu Thành, huyện Yên Thành). Sau một thời gian làm quen, tháng 3/2015, sau bữa cơm tại nhà riêng, Lê Đình Lượng đã mời Nguyễn Viết Dũng tham gia tổ chức “Việt Tân”.
Thông qua facebook cá nhân có tên “Lỗ Ngọc”, Lê Đình Lượng đã thường xuyên đăng tải, tán phát nhiều tin xuyên tạc, kích động chống phá Đảng, Nhà nước. Bên cạnh đó, Lượng còn thường xuyên sử dụng facebook cá nhân bình luận, chia sẻ các bài viết có nội dung phản động, chống đối từ các trang “Việt Tân”, “Tin mừng cho người nghèo”, “Thanh niên công giáo”… trong đó hầu hết là các bài viết tuyên truyền, ca ngợi, cổ súy “Việt Tân”, cổ vũ đường lối hoạt động của tổ chức khủng bố này, đồng thời đăng tải nhiều luận điệu xuyên tạc, báo méo sự thật tình hình xã hội – chính trị Việt Nam…
Ngoài hành vi tuyên truyền, lôi kéo người tham gia tổ chức khủng bố Việt Tân, tuyên truyền chống Nhà nước, Lê Đình Lượng còn nhiều hoạt động chống đối, gây rối an ninh trật tự tại huyện Yên Thành, huyện Diễn Châu như: mở loa phóng thanh, tổ chức hát các bài hát có nội dung phản động “Việt Nam tôi đâu”, “Anh là ai”, “Trả lại cho dân”…4 lần tổ chức tuần hành, biểu tình với danh nghĩa phản đối Fomorsa ở xã Hợp Thành gây ách tắc giao thông tuyến Quốc lộ 7B…
Hành vi chống phá của Lê Đình Lượng là đặc biệt nguy hiểm, thể hiện một hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân do tổ chức khủng bố Việt Tân chỉ đạo. Vì vậy, 20 năm tù giam, 5 năm quản chế tại địa phương về tội “hoạt động nằm lật đổ chính quyền nhân dân” là hoàn toàn đúng đắn, thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật./.
                                                                        ĐVP

"TRĂM NĂM BIA ĐÁ THÌ MÒN NGHÌN NĂM BIA MIỆNG VẪN CÒN TRƠ TRƠ"


Khoảng 9h tối ngày 26.10.2018 - Nguyên Ngọc đăng stt công khai rời Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Tiểu sử: 
Nguyên Ngọc tên thật là Nguyễn Văn Báu, sinh năm 1932, quê ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Bút danh: Nguyên Ngọc (thời kháng chiến chống Pháp), Nguyễn Trung Thành (chống Mỹ). Năm 1950, ông gia nhập quân đội, hoạt động chủ yếu ở Tây Nguyên. Sau đó làm phóng viên rồi tập kết ra Bắc. Tác phẩm tiêu biểu: Đất nước đứng lên (1954-1955), giải nhất về tiểu thuyết hội Văn nghệ VN), Mạch nước ngầm (1960), Rẻo cao (1961). Năm 1962 trở về Nam vừa tham gia chiến đấu và hoạt động văn nghệ. Tác phẩm tiêu biểu: Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc (1969), Đất Quãng (tiểu thuyết).
Việc nhà văn Nguyên Ngọc tuyên bố ra khỏi Đảng được các trang mạng phản động, các đối tượng chống đối lan truyền rất nhiều ngày hôm qua. Thế nhưng, chẳng phải đến khi UBKT kỷ luật Chu Hảo, nhà văn Nguyên Ngọc mới xin ra khỏi Đảng mà đã từ lâu, ông ta đã tự đặt mình ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, hành động đi ngược lại với lợi ích của Đảng, vi phạm những điều Đảng viên không được làm. Việc tuyên bố rùm beng này được đưa ra chỉ nhằm thu hút sự chú ý dư luận, khi kẻ cùng hội cùng thuyền với ông ta, Chu Hảo bị kỷ luật.
Khi còn đảm nhiệm vai trò Tổng biên tập Báo Văn nghệ và Phó Tổng thư ký Hội Nhà Văn Việt Nam, Nguyên Ngọc đã "bảo kê" cho Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài đăng những truyện ngắn, những tiểu luận chửi cả các danh nhân và lịch sử Việt Nam. Năm 1988, quyển tiểu thuyết đầu tay của Phạm Thị Hoài được xuất bản tại Hà Nội nhan đề "Thiên sứ", nhưng ngay sau đó tiểu thuyết này bị cấm lưu hành. Sau này, khi đã qua Đức sinh sống, Phạm Thị Hoài đã lập ra Talawas là một diễn đàn trực tuyến được thành lập từ năm 2001 và Hoài làm tổng biên tập, chuyên viết xuyên tạc về chính trị và tình hình đất nước, hiện diễn đàn này đã ngừng hoạt động. Nguyễn Huy Thiệp cũng chả kém cạnh khi ngoài viết những tác phẩm mà khiến ông mang danh “Thiệp Cứt “ với bè bạn nghệ sĩ , thì còn đi kèm đó còn là những phát ngôn gây sốc như việc ông đã từng nhận định về Hội Nhà Văn Việt Nam: "...Nhìn vào danh sách 1000 hội viên Hội Nhà văn Việt Nam người ta đều thấy đa số đều già nua không có khả năng sáng tạo và hầu hết đều..."vô học", tự phát mà thành danh. Trong số này có tới hơn 80% là nhà thơ tức là những người chỉ dựa vào "cảm hứng" để tùy tiện viết ra những lời lẽ du dương phù phiếm vô nghĩa nhìn chung là lăng nhăng, trừ có dăm ba thi sĩ tài năng thực sự (số này đếm trên đầu ngón tay) là còn ghi được dấu ấn ở trong trí nhớ người đời còn toàn bộ có thể nói là vứt đi cả..."
Sau đó Thiệp ăn 1 rổ gạch từ dư luận mà có thể đắp lại xây cầu từ Sài Gòn đến tận Cali, nơi mà ông và Hoài đáng ra phải đi theo bước đường của Mẹ Nấm từ những năm 2000. Chỉ tiếc Facebook phổ cập quá muộn với "tài năng" của cả 2 người.
Đầu những năm 1990, Nguyên Ngọc bị đơn vị chủ quản là báo Văn nghệ phê phán về việc có tư tưởng đi ngược lại với đường lối của Đảng và nhà nước. Đồng thời, ông bị cách chức và buộc rời khỏi các vị trí quan trọng nhất trong đời văn của mình. Sau khi bị “buộc” từ chức với danh nghĩa về hưu trước tuổi , ông ta liền quay ngoắt lại chống Hội Nhà văn và thành lập “Văn Đoàn Độc Lập” nhưng thực chất đây là 1 nhóm chống phá Nhà nước Việt Nam. Người ta đọc danh sách 61 người ký tên vào bản tuyên bố thành lập “Văn Đoàn Độc lập” thì thấy toàn cái tên nổi bật chuyên vu cáo xuyên tạc hoặc đả kích chế độ như: Hà Sĩ Phu Nguyễn Quang Lập, Bùi Minh Quốc, Nguyễn Huệ Chi… ngoài ra còn có cả nhà văn Vũ Thư Hiên, được coi là kẻ đào tẩu muộn màng ra nước ngoài . Lướt qua 61 gương mặt nhà văn ấy ta thấy ít nhất là 15 người đã từng vào tù, vô khám vì lý do làm gián điệp cho nước ngoài, tham nhũng, lợi dụng tự do để xuyên tạc chế độ, vài người là ducanger đang sống lưu vong ở nước ngoài, 12 người là gốc Việt có quốc tịch nước ngoài. Hầu hết họ đều là những người có ân oán với Dân tộc. Những nhà văn nói trên trừ Nguyên Ngọc chẳng ai có gương mặt sáng sủa và có tác phẩm nào đáng giá để cho công chúng đọc. Nếu có chăng là một vài tác giả vì “nhận thức lại” đã bị khai trừ khỏi đảng như Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự, Mai Thái Lính, Hoàng Hưng… Điều làm chúng ta chú ý là trong danh sách trên có nhiều người có quốc tịch nước ngoài cũng đã có dày dạn “thành tích” chống phá Tổ quốc nhưng lại có tiềm năng kinh tế, Nguyên Ngọc láu cá bắt được cả hai tay ,vừa có ý “hòa hợp hòa giải” một động thái xu nịnh bọn chống Cộng ở nước ngoài, vừa kiếm được chỗ tài trợ cho hội của ông.
Qua các tham luận tại các hội thảo sau khi “Về hưu“, Nguyên Ngọc liên tục đưa ra những khái niệm mới do ông nghĩ ra như: “Tất cả các tác phẩm văn học viết trong chiến tranh (Việt Nam) đều là những kiểu viết “minh họa” đầy chất đặt hàng của Đảng mà không phải viết do cảm xúc, do tình người của Nhà văn. Do đó những tác phẩm thời chiến không có giá trị, bây giờ ta phải có nhận thức mới để thoát khỏi sự can thiệp của Đảng.Hậm hực do bị đuổi khỏi vị trí ngỡ như bước đà danh vọng đỉnh cao danh vọng của đời mình, ông đã liên tục có những hành vi bôi nhọ Đảng Cộng sản Việt Nam mà có lẽ ông đã quên đi lời văn năm nào: “Ngày xưa, người đối với người coi nhau như thú dữ, bây giờ có Đảng, có chính phủ, có cán bộ… người với người mới tin yêu nhau, giúp nhau như thể anh em một nhà vậy. Đó là bản chất của chủ nghĩa xã hội chúng ta đấy bà con ạ...”. (Trích “Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng“ của Nguyên Ngọc). Không rõ khi phát ngôn gây sốc như vậy, liệu ông có nghĩ tới “Đất nước đứng lên, Rừng xà nu, Đường chúng ta đi , Đất Quảng” có phải do ông đã ngu ngốc “minh họa” theo đơn đặt hàng của Đảng hay ông tự viết ra từ cảm xúc một người lính trong lúc đối mặt với kẻ thù gian ác mà chính ông đã từng vạch tội chúng trong các tác phẩm nói trên?
Năm 2013 Nguyên Ngọc cùng bè lũ “Văn Đoàn Độc Lập” của mình đã kí tên vào “Bản góp ý Sửa đổi Hiến Pháp 2013” phủ định hoàn toàn Đảng Cộng Sản, như bỏ điều 4 trong Hiến Pháp, chấp nhận đa nguyên, đa đảng, đổi tên nước, thay quốc kỳ, lập lưỡng viện, thực hiện tam quyền phân lập v.v... Kể về thâm thù vì danh vọng của ông, người ta không thể không nhắc tới việc năm 2000, Nguyên Ngọc được mời nhận Huân chương Độc Lập hạng Nhì, nhưng ông từ chối không nhận vì các lý do mà mọi người ở làng văn đều biết: Nguyên Ngọc tự cho mình phải được hạng nhất, có cống hiến nhiều thế, có nằm gai, nếm mật nhiều thế sao lại hạng nhì, thế đứa nào là hạng nhất. Nhưng thực tế năm đó không có ai giành hạng nhất. Người ta biết thừa rằng Nguyên Ngọc bực tức, bất mãn đến điên cuồng vì các thành viên trong Hội đồng Xét duyệt các giải thưởng văn học năm ấy không bỏ phiếu cho ông để được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh. Và sau đó còn vài giải nữa Nguyên Ngọc đều tẩy chay không nhận, cho mình phải là người đoạt hạng nhất, hạng thấp hơn là đồ bỏ. Ông ta muốn mọi người tôn sùng ông, coi ông là lãnh tụ văn học, ông phải là con người quyết định mọi việc cho người khác, không ai có quyền quyết định ông.
Việc một Đảng viên "tự diễn biến" tự ra khỏi Đảng không phải là thất bại của Đảng, mà là sự thất bại đáng xấu hổ của chính đảng viên đó, khi không giữ vững được tư tưởng, giữ vững được lời hứa trung thành với Đảng. Và khi thấy mình không xứng đáng là một đảng viên, tự ra khỏi hàng ngũ là điều nên làm.
Như vậy, việc Nguyên Ngọc đăng stt ra khỏi Đảng Cộng Sản vào đêm 26.10.2018 không phải là điều đột ngột. Tất cả đều có nguyên do và đó một quá trình gắn liền với giai đoạn ông còn tại chức. Chung quy cũng chỉ vì ông quá đề cao bản thân, để rồi khi bị ngã khỏi đà danh vọng của cuộc đời bởi sự ngông cuồng của chính mình, thì lại thù ghét xã hội, đất nước. Đây cũng là bệnh chung của các nhà “dân chủ” ở Việt Nam.
Đáng tiếc, một "giấc mơ" Bùi Tín đã tan nát thì lại mọc lên những Chu Hảo, Nguyên Ngọc.
NĐL



CỤ TỔNG - HÌNH TƯỢNG KHÔNG DỄ BỊ XUYÊN TẠC, BÔI NHỌ


Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - nhân vật chính trị kiệt xuất không chỉ mang lại những diện mạo mới, sắc nét, xuất sắc trong công cuộc chỉnh đốn Đảng, sửa đổi lề lối làm việc, xây dựng, rèn luyện đạo đức cách mạng, đã có nhiều quyết sách, hướng đi mới cùng Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội....đưa đất nước ta vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa, chưa bao giờ Việt Nam có được thời cơ, vị thế lớn đến như thế trên trường quốc tế, 2 tiếng Việt Nam giờ đây đã để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp, sự ngưỡng mộ với cả những cường quốc như Mỹ, Nga, Trung, Pháp....đó là một con người cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng. Là một người đứng đầu Đảng mà mới đây nhất lại được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tin tưởng để Quốc hội đại diện cử tri cả nước bầu ông giữ chức vụ Chủ tịch nước, ấy vậy mà một nguyên thủ quốc gia, một người đứng đầu Đảng lại ở nhà công vụ, cuộc sống bình dị lạ thường, có sở thích đặc biệt là khi có thời gian là đi về với dân, đến những nơi cùng khổ, khó khăn, nghèo đói, thị sát dân tình....với bọn tham nhũng lại kiên quyết, không có vùng cấm, lò đã nóng củi tươi cũng cháy, kiên quyết loại trừ tham nhũng làm trong sạch tổ chức Đảng, bộ máy Nhà nước... có lẽ nếu sức khoẻ Cụ còn đảm bảo thì dù có mấy nhiệm kỳ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, cả trong nước và bạn bè quốc tế cũng sẽ có chung một mong muốn rằng Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng sẽ tiếp tục giữ trọng trách đang có, tiếp tục đưa Việt Nam tiến xa hơn, cao hơn trên trường quốc tế.
Ấy vậy mà có kẻ cứ hô hào xuyên tạc, chửi bới cụ Tổng này nọ, thử hỏi ĐẰNG ẤY một câu thôi. Bây giờ ĐẰNG ẤY cứ đem những điều mà ĐẰNG ẤY viết đi nói cho người dân Việt Nam nghe xem, ai sẽ tin, ai sẽ nghe những điều thêu dệt bệnh hoạn của ĐẰNG ẤY. Hay chính họ sẽ dạy dỗ cho ĐẰNG ẤY một trận.
Đừng cố thêu dệt, bôi nhọ tượng đài bất khả xâm phạm của toàn dân VIỆT NAM nữa, kết quả sẽ không bao giờ tốt.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - vị lãnh đạo thiên tài, một người cách mạng kiên trung, nhiệt tình, trách nhiệm, kiệt xuất, có lối sống thanh tao, giản dị, cần kiệm, liêm khiết, luôn gần gũi mọi người nhất là luôn gần dân, trọng dân, yêu dân, hết lòng hết sức phục vụ Đảng, phụng sự nhân dân, vị lãnh đạo xuất sắc trong lòng các nguyên thủ quốc gia, bạn bè trên khắp thế giới,... Cụ Tổng - Hình tượng không thể bị xuyên tạc.
NĐL


Không thể xuyên tạc, phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa của dân tộc ta


Lịch sử dân tộc ta trong thế kỷ 20 cho thấy, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám không chỉ là một thành tựu vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, mà còn mở ra một thời đại mới cho dân tộc ta-thời đại độc lập dân tộc gắn liền với chế độ xã hội do nhân dân làm chủ.
Chế độ xã hội và Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam) đã kế thừa truyền thống lịch sử của dân tộc, đồng thời còn kế thừa, phát triển những tư tưởng tiến bộ của cách mạng dân chủ tư sản. Đó là tư tưởng độc lập dân tộc trong “Tuyên ngôn độc lập” của Hoa Kỳ năm 1776 và “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” của Pháp năm 1789. Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển những tư tưởng tiến bộ đó thành tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với xây dựng chế độ xã hội dân chủ, cộng hòa theo con đường của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong bản "Tuyên ngôn Độc lập" năm 1945.
Đi theo con đường của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã giành được nhiều thành tựu có ý nghĩa thời đại. Đó là thắng lợi của kháng chiến chống thực dân, đế quốc bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất đất nước; vượt qua cuộc khủng hoảng mang tính hệ thống của chủ nghĩa xã hội (CNXH) những năm 1985-1991, tiến hành công cuộc đổi mới (từ năm 1986) thắng lợi.
Thế nhưng, lợi dụng internet, mạng xã hội, có kẻ đã tung ra thông tin thất thiệt, xuyên tạc, bôi nhọ CNXH và chế độ xã hội XHCN nói chung, chế độ xã hội và Nhà nước ta nói riêng. Trên BBC gần đây có kẻ viết rằng: “Gần như ở nơi nào mà CNXH đã được thử nghiệm, chúng cũng gây ra đau khổ, tham nhũng và mục nát”. Có người cho rằng trên thế giới, học thuyết Mác-Lênin đã lỗi thời; rằng “Việt Nam nên bỏ Chủ nghĩa Mác-Lênin” vì lý luận đó “đã cản trở con đường tiến lên văn minh hiện đại trong hòa bình của Việt Nam”. Có người thì “kiến nghị” Đảng nên bỏ Chủ nghĩa Mác-Lênin, chuyển sang “tư tưởng dân tộc, dân chủ”. 
Vậy quan điểm cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam cần từ bỏ Chủ nghĩa Mác-Lênin, từ bỏ con đường XHCN sai lầm ở đâu? Vì sao Việt Nam khẳng định: Con đường phát triển của dân tộc ta chỉ có thể là con đường XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo?
1- Kinh nghiệm lịch sử thế kỷ 20 đã chỉ ra rằng, Chủ nghĩa Mác-Lênin là lý luận cách mạng giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước và phát triển đất nước-hội nhập quốc tế duy nhất đúng đắn của nhân dân Việt Nam.
Còn nhớ trong thế kỷ 19 và 20, lực lượng chính trị cực hữu ở các quốc gia phát triển đương thời, trong đó có Pháp, Nhật Bản và Hoa Kỳ đã đến Việt Nam dưới khẩu hiệu “khai hóa”, nhưng thực chất đó là những cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo. Khi đánh bại lực lượng phong kiến Việt Nam, thực dân Pháp áp đặt chế độ thuộc địa, đồng thời duy trì chế độ phong kiến, đẳng cấp, bóc lột nhân dân Việt Nam đến tận xương tận tủy.
Nạn đói khủng khiếp năm 1945 là một ví dụ. Chỉ tính từ tỉnh Quảng Trị trở ra Bắc Bộ (với “đỉnh điểm” là tỉnh Thái Bình) nạn đói đã làm chết hơn 2 triệu người, chiếm gần 10% dân số Việt Nam khi đó. Theo con số ghi chép từ công trình nghiên cứu “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam-những chứng tích lịch sử” của GS Văn Tạo và GS Furuta Moto (Nhật Bản): “Nhiều làng xã chết từ 50% đến 80% dân số, nhiều gia đình, dòng họ chết không còn ai. Làng Sơn Thọ, xã Thái Thượng, huyện Thái Ninh (nay là huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình) có hơn 1.000 người thì chết đói mất 956 người”[1].
Nối tiếp cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã tiến hành một cuộc chiến tranh mang tính hủy diệt đối với dân tộc Việt Nam; đồng thời sử dụng chủ nghĩa thực dân mới: Xây dựng chính quyền tay sai nhằm thống trị và chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam. Còn nhớ ở miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai của chúng đã gây ra bao nhiêu vụ thảm sát. Không kể chế độ khắc nghiệt, tù nhân phải ăn gạo mục, cá ươn, muối hạt, nước mắm có dòi… nhiều tù nhân cốt cán phải nằm xà lim, chuồng cọp, thường xuyên bị tra tấn dã man… 
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã phát huy tối đa sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các dân tộc trên thế giới, bao gồm cả nhân dân tiến bộ Pháp, Mỹ… đánh bại chủ nghĩa thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế hơn 30 năm qua (từ năm 1986 đến nay) do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã đem lại những thành tựu có ý nghĩa thời đại. Từ một nước nghèo, trải qua hơn 30 năm chiến tranh, bị cấm vận, cho đến nay, Việt Nam đã trở thành nước có mức thu nhập trung bình, trở thành đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, bình đẳng với nhiều nước lớn, trong đó có Nga, Trung Quốc (đối tác chiến lược toàn diện) và Hoa Kỳ (đối tác toàn diện).
Trong suốt chiều dài lịch sử, từ thập niên 30 của thế kỷ 20 đến nay chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất đặt lợi ích dân tộc lên trên hết. Tư tưởng xuyên suốt và nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam là đi theo con đường của Chủ nghĩa Mác-Lênin, gắn liền độc lập dân tộc với chế độ xã hội do nhân dân làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh của Đảng năm 1930 xác định: Tiến hành “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”[2].
Cương lĩnh năm 2011, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.
Đại hội lần thứ XII (năm 2016) của Đảng đã xác định mục tiêu của dân tộc Việt Nam là: Xây dựng một xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện… có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
2- Để tiến đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, con đường duy nhất của dân tộc Việt Nam chỉ có thể là con đường XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Tính tất yếu của con đường XHCN của dân tộc Việt Nam trước hết bắt nguồn từ lịch sử, từ sự lựa chọn của nhân dân. Ngày nay, trên thế giới có nhiều mô hình xã hội với nhiều chế độ xã hội khác nhau. Mỗi quốc gia, dân tộc lựa chọn mô hình nào đó đều dựa trên những điều kiện lịch sử của dân tộc mình, đồng thời tùy theo thể chế xã hội và do đảng chính trị cầm quyền lãnh đạo thực hiện. Không ít nhà nước trên thế giới ngày nay là nhà nước “cộng hòa”, “cộng hòa dân chủ nhân dân"; “cộng hòa nhân dân”; “cộng hòa-tổng thống"; "cộng hòa đại nghị"; nhà nước tôn giáo (Vatican). Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế và luật pháp các quốc gia đều tôn trọng sự lựa chọn chế độ xã hội và nhà nước của các dân tộc.
Một số người lợi dụng internet, mạng xã hội tán phát quan điểm xuyên tạc, phủ nhận xã hội XHCN nói chung, phủ nhận con đường XHCN của dân tộc Việt Nam là vô căn cứ. Họ chỉ dựa vào tên gọi, hoặc tư tưởng chính trị theo quan điểm giáo điều hoặc những mặt tiêu cực nào đó của xã hội để đánh giá nước này là “văn minh”, nước kia là “lạc hậu”. Đó chỉ là những thủ đoạn chính trị cổ hủ, vô căn cứ.
Tư tưởng về cách mạng xã hội tiến đến chủ nghĩa cộng sản, trong đó “sự tự do phát triển của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển của tất cả mọi người” (Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản) do Mác và Ăngghen sáng tạo trước khi có cách mạng XHCN. Lênin và Đảng Cộng sản Nga (sau đó là Đảng Cộng sản Liên Xô) đã vận dụng, phát triển lý luận đó, lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Mười đưa đến sự ra đời nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới, đồng thời mở ra hệ thống XHCN, phá thế độc quyền của tư bản chủ nghĩa (TBCN) thế giới. Cho dù thế giới ngày nay đã có những thay đổi lớn lao nhưng không thể phủ nhận được những sự kiện lịch sử mang tính thời đại này.
Ở Việt Nam, đi theo con đường của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết này phù hợp với mỗi giai đoạn phát triển của cách mạng. Cuộc Cách mạng Tháng Tám không phải là một cuộc cách mạng vô sản như ở nước Nga (năm 1917), mà là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc theo Chủ nghĩa Lênin, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói. Nhà nước mới, sau cách mạng cũng không phải theo mô hình nhà nước Xô-viết, mà là nhà nước “dân chủ, cộng hòa” do nhân dân làm chủ, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hướng tới xã hội XHCN.
Chế độ xã hội ở Việt Nam từ năm 1975 đến nay đã trải qua hai mô hình xã hội với những thể chế và chính sách khác nhau. Mô hình trước đổi mới (1976-1986) là “Chế độ làm chủ tập thể XHCN”[3]. Về chính trị, đó là chế độ xã hội dựa trên nhà nước, thực sự của dân, do dân, vì dân… dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Về kinh tế, đó là chủ trương “xóa bỏ chế độ sở hữu TBCN… xác lập chế độ sở hữu XHCN dưới hai hình thức: Sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể” bằng những phương pháp và bước đi thích hợp.
Mô hình xã hội XHCN trong thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay) là sự phát triển sáng tạo chế độ xã hội XHCN, đồng thời khắc phục những sai lầm nhận thức về CNXH. Mô hình đó, về chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Về kinh tế, đó là kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Về quan hệ quốc tế, Nhà nước Việt Nam thực hiện chính sách rộng mở, không phân biệt chế độ xã hội, hệ tư tưởng.
Cần phải khẳng định, Việt Nam đi theo con đường XHCN là phù hợp với xu thế phát triển của thời đại ngày nay. Chế độ dân chủ XHCN, Nhà nước pháp quyền XHCN của dân tộc Việt Nam ngày nay là sự kế thừa và phát triển lịch sử dân tộc. Về mặt lý luận, chế độ Việt Nam nằm trong hình thái quá độ từ CNTB lên CNXH, mở đầu từ sự ra đời của Nhà nước Xô-viết. Sự ra đời của hệ thống XHCN và phong trào cách mạng giải phóng dân tộc (từ thập niên 1960) đã xác nhận tính chất đúng đắn của lý luận đó. Còn nhớ, sau Chiến tranh thế giới thứ hai cho đến những năm 70 của thế kỷ 20, hàng trăm quốc gia, dân tộc, nơi các đảng chính trị theo chủ nghĩa yêu nước, Chủ nghĩa Mác-Lênin, trong đó có nhiều đảng cộng sản đã lãnh đạo nhân dân lao động đứng lên lật đổ chế độ thuộc địa, giành được độc lập dân tộc, trong đó có nhân dân Việt Nam. Do nhiều nhân tố, trong đó có tác động của hệ thống XHCN, ở các nước TBCN đã hình thành phong trào đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ, tạo ra sự biến đổi những cơ chế, chính sách ít nhiều dung hòa lợi ích giữa giới chủ với người lao động. Điển hình cho phong trào này là kết quả đạt được giữa giới chủ với các tổ chức công đoàn ở các nước Bắc Âu, do các đảng dân chủ XHCN (còn gọi là các đảng xã hội dân chủ) lãnh đạo.
Thể chế Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam hiện nay khác với thể chế “Nhà nước chuyên chính vô sản” (trong thời kỳ trước đổi mới), đó là Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Hiến pháp năm 2013 thể hiện toàn diện những bước phát triển về tư tưởng chính trị và pháp lý của Nhà nước Việt Nam.
Về chế độ xã hội, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”. (Điều 2).
Về vai trò và nguyên tắc lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Điều 4 quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Về quan hệ quốc tế, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam ngày nay là rộng mở, không phân biệt chế độ xã hội, hệ tư tưởng, dựa trên các nguyên tắc-đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết; tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi. Tóm lại, đó là đường lối đối ngoại: “Độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa…; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế… giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới” (Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng).
Hiến pháp năm 2013, lần đầu tiên đã dành cả một chương để quy định về quyền con người trên tất cả các nhóm quyền, từ quyền dân sự, chính trị đến các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa. Những quy định này hoàn toàn tương thích với các công ước quốc tế về quyền con người của Liên hợp quốc.
Đảng và Nhà nước Việt Nam không phủ nhận những mặt tiêu cực đang tồn tại trong xã hội. Đó là tình trạng phân hóa giàu nghèo, tình trạng suy thoái của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là tình trạng tham nhũng, “lợi ích nhóm”. Điều này được Đảng Cộng sản Việt Nam công khai hóa, đồng thời đang triển khai cuộc đấu tranh chống tham nhũng một cách có bài bản và quyết liệt. Các nghị quyết Đại hội XI, XII, nhất là Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII cho thấy rõ quyết tâm của toàn Đảng và toàn dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh này như thế nào. Trong những năm gần đây, không ít cán bộ có chức, có quyền ở cả cấp cao, lực lượng vũ trang đã bị xử lý kỷ luật Đảng và xử lý hình sự.
Tại Hội nghị Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, chiều 27-4-2018 ở Hà Nội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng là cuộc đấu tranh “không có vùng cấm, không có ngoại lệ” và “làm đến cùng”[4]. Gần đây, ngày 1-8-2018, trong buổi làm việc với Ban Tuyên giáo Trung ương, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng còn lưu ý: Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, suy thoái, lãng phí, phòng, chống tiêu cực, chúng ta thường nói nhiều đến công tác cán bộ… “nhưng điều cốt yếu là gì? Đó là sự kiên định đi lên CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Lịch sử thế kỷ 20 cho thấy: Không có lực lượng chính trị nào ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có Cương lĩnh xác định mục tiêu là giành độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân; không có lực lượng chính trị nào có lý luận cách mạng khoa học sáng tạo, có đường lối, chính sách phù hợp với xu thế của thời đại; có hệ thống tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên được rèn luyện và sẵn sàng hy sinh như Đảng Cộng sản Việt Nam. Bởi vậy có thể nói, sự phát triển của dân tộc Việt Nam chỉ có thể là đi theo con đường XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
---------------------------------
[1] - Nạn đói năm Ất Dậu, 1944-1945 - Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
[2] - Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.1.
[3] - Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo Chính trị, Đại hội IV, NXB ST, 1997, HN, tr. 53,52.
[4] - “Tổng Bí thư khẳng định: Không có vùng cấm, không có ngoại lệ trong chống tham nhũng”.Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, 27-4-2018 19:58 GMT+7
Nguồn: www.qdnd.vn

Không thể xuyên tạc pháp luật của Nhà nước Việt Nam vì sự phát triển của đất nước và quyền con người


Xây dựng pháp luật luôn là nội dung quan trọng trong các kỳ họp Quốc hội không chỉ của riêng Việt Nam. Tại Việt Nam, thường hoạt động này chiếm khoảng 50% thời lượng của kỳ họp.
Kỳ họp thứ năm và thứ sáu (Quốc hội khóa XIV) đã và đang thảo luận thông qua nhiều dự luật, luật sửa đổi và luật mới. Trong những dự luật đã và đang được Quốc hội Việt Nam sửa đổi, xây dựng mới có Luật Phòng, chống tham nhũng; Luật An ninh mạng và nghị định của Chính phủ (về luật này); Luật Giáo dục; Luật Bảo vệ bí mật Nhà nước… Đối với những luật này không chỉ các đại biểu Quốc hội mà người dân cũng đặc biệt quan tâm, vì đây là những khuôn khổ pháp luật hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), đồng thời cũng bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Thế nhưng trên không gian mạng đã có một số kẻ đưa ra những bình luận ác ý, xuyên tạc bản chất, mục tiêu và cả những quy định của nhiều bộ luật vừa được Quốc hội Việt Nam sửa đổi, soạn thảo thông qua.
Chẳng hạn có người viết rằng: “Pháp luật Việt Nam, một bước lùi đối với tiến bộ xã hội”, “Luật An ninh mạng mở đường cho một cuộc trấn áp mới''(!); "Pháp luật Việt Nam vi phạm quyền tự do ngôn luận (Luật Hình sự, Luật Báo chí…)"; "Luật Phòng, chống tham nhũng chẳng qua chỉ là công cụ trong cuộc “đấu đá” nội bộ, “nhóm lợi ích mới cướp (lại) nhóm lợi ích cũ” hoặc chỉ là để “trả thù, triệt hạ tay chân” của người này, người khác... Vậy bản chất và nguyên tắc pháp luật của Nhà nước Việt Nam là gì? Và vì sao người ta lại cố tình xuyên tạc hệ thống pháp luật của Nhà nước Việt Nam?
Bản chất và nguyên tắc pháp luật của Nhà nước Việt Nam là gì?
Xét về lịch sử, pháp luật ra đời cùng với đấu tranh giai cấp và nhà nước… Trong khi xung đột giai cấp diễn ra ngày càng gay gắt và cuộc đấu tranh giai cấp không thể điều hòa được thì cần thiết phải có một loại quy phạm xã hội điều chỉnh cuộc đấu tranh đó. Quy phạm đó là pháp luật do giai cấp thống trị thiết lập để duy trì trật tự xã hội. Trong các xã hội hiện đại, pháp luật do các cơ quan dân cử (quốc hội, nghị viện) xây dựng. Tuy nhiên, nội dung chính trị của những quy phạm pháp luật vẫn do các đảng chính trị cầm quyền chi phối nhằm duy trì, bảo vệ chế độ xã hội hiện hữu.
Nguyên tắc của pháp luật là tính quy phạm, phổ biến, bắt buộc, bình đẳng đối với tất cả thành viên xã hội và các tổ chức được nhà nước bảo đảm bằng các phương thức, trong đó có phương thức cưỡng chế, như các cơ quan tư pháp (tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án…).
Xét về chức năng, pháp luật là phương tiện để nhà nước quản lý mọi mặt của đời sống xã hội; đồng thời đó cũng là phương tiện thực hiện và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Bản chất, mục tiêu và nguyên tắc pháp luật của Nhà nước Việt Nam được ghi trong Hiến pháp 2013: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Ở quy định nói trên (“Nhà nước pháp quyền XHCN”), nội dung chính trị là: (1) Vai trò lãnh đạo cầm quyền Nhà nước và xã hội thuộc về Đảng Cộng sản Việt Nam; (2) “Nhân dân là chủ thể quyền lực nhà nước”.
Điều 4, Hiến pháp quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam-Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
Nguyên tắc của nhà nước pháp quyền XHCN trước hết và chủ yếu ở quy định: (1) “Luật pháp giữ vị trí tối cao đối với nhà nước và xã hội; (2) “Nhà nước bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân”. Đồng thời, người dân có trách nhiệm tuân thủ pháp luật.
Điều 15, Hiến pháp quy định: “Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân; mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”.
Những quy định trong luật sửa đổi và trong những bộ luật mới gần đây đã thể hiện rõ bản chất và nguyên tắc của pháp luật Nhà nước Việt Nam, phù hợp với sự phát triển của khoa học-công nghệ, sự phát triển xã hội.
Bộ luật Hình sự 2015 về cơ bản giữ lại những điều quan trọng trong Bộ luật Hình sự 2009 về ''các tội xâm phạm an ninh Quốc gia” và "các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính''. Đó là các điều: Điều 79 về Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân sửa đổi thành Điều 109 Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân và bổ sung thêm chế tài đối với người chuẩn bị phạm tội và người đã tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân; Điều 88 về Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam chuyển thành Điều 117 với những quy định cụ thể hơn: Tội làm, tàng trữ, phát tán thông tin, tài liệu nhằm chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Điều 258 về Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân được sửa đổi thành Điều 343 (nội dung vẫn giữ nguyên).
Bộ Luật An ninh mạng (và nghị định của Chính phủ về luật này) ra đời đáp ứng an ninh quốc gia, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của internet, mạng xã hội (còn được gọi là xã hội ảo) nhằm bảo vệ an ninh mạng, như một nhu cầu thiết yếu của đời sống, của xã hội hiện đại.
Khác với các thời kỳ lịch sử trước, các thế lực thù địch thường sử dụng lực lượng vũ trang để xâm lược đất nước ta. Ngày nay các thế lực thù địch, bao gồm cả những phần tử cơ hội, suy thoái về tư tưởng chính trị đã và đang lợi dụng internet, mạng xã hội để tập hợp lực lượng, kích động biểu tình, gây rối, kêu gọi lật đổ chính quyền nhân dân, chuyển hóa chế độ Việt Nam sang con đường tư bản, lệ thuộc vào nước ngoài. Bộ Luật An ninh mạng nhằm đáp ứng yêu cầu an ninh quốc gia, đồng thời bảo đảm môi trường mạng lành mạnh cho hoạt động xã hội. Một số quy định hạn chế quyền của cá nhân, tổ chức liên quan là điều tất nhiên.
Luật An ninh mạng chỉ đưa ra những hạn chế đối với các hành vi sử dụng không gian mạng chống Nhà nước Việt Nam, xâm phạm quyền và lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đó là những hoạt động: (1) Tổ chức, hoạt động, cấu kết, xúi giục, mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo, đào tạo, huấn luyện người chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; (2) Xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc…; (3) Thông tin sai sự thật gây hoang mang trong nhân dân, gây thiệt hại cho các hoạt động kinh tế-xã hội… xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác; (4) Hoạt động mại dâm, tệ nạn xã hội, mua bán người; đăng tải thông tin dâm ô, đồi trụy, tội ác; phá hoại thuần phong mỹ tục của dân tộc…; (5) Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội... (6) Lợi dụng hoặc lạm dụng hoạt động bảo vệ an ninh mạng để xâm phạm chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân hoặc để trục lợi” (Điều 8).
Xét về quyền và lợi ích cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, Luật An ninh mạng hoàn toàn không hạn chế về quyền và lợi ích của nhóm đối tượng trên, ngược lại, Luật An ninh mạng còn bảo vệ người dân và doanh nghiệp bằng việc bảo đảm một môi trường thông tin chân thực, lành mạnh, không bị “ô nhiễm” thông tin như đối với không khí, nước uống và thực phẩm sạch cho tinh thần.
Luật An ninh mạng, nghị định của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin mạng… có các quy định cụ thể yêu cầu những tài khoản cá nhân, trang mạng lưu trữ tư liệu, tra cứu thông tin… bao gồm cả việc đặt máy chủ tại Việt Nam như nhiều quốc gia trên thế giới (mà các thế lực thù địch có thể lợi dụng để chống phá chế độ xã hội, Nhà nước Việt Nam) nhằm loại bỏ thông tin xấu độc, độc hại ngay tại gốc là điều hợp lý.
Dựa trên thực tiễn, Luật Phòng, chống tham nhũng đã có nhiều quy định cụ thể, chặt chẽ nhằm ngăn chặn tệ nạn này. Chẳng hạn: Điều 20 (Quy tắc ứng xử của người có chức vụ, quyền hạn…), quy định: Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu… không được bố trí vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột của mình giữ chức vụ quản lý về tổ chức nhân sự, kế toán-tài vụ, làm thủ quỹ, thủ kho…  Điều 22 (Quy định về tặng và nhận quà): Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cán bộ, công chức, viên chức không được sử dụng tài chính công, tài sản công làm quà tặng…; Cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, viên chức không được trực tiếp hoặc gián tiếp nhận quà tặng. 
Nhìn lại những bộ luật mới và bộ luật sửa đổi mà Quốc hội vừa thông qua cho thấy, đây là một bước phát triển mới về tư duy chính trị-pháp lý của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam. Bước tiến đó không chỉ dựa trên sự kế thừa và phát triển tư duy chính trị, pháp lý của các giai đoạn lịch sử mà còn bắt nhịp với sự phát triển chung của các quốc gia, dân tộc trong thời đại về nhiều mặt, trong đó có khoa học, công nghệ về hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, trên không gian mạng, các thế lực thù địch vẫn đang tán phát những luận điệu lèo lái, xuyên tạc nhiều bộ luật mà Quốc hội Việt Nam mới thông qua. Mục tiêu của chúng là xuyên tạc bản chất của chế độ, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước Việt Nam. Có thể nói, chiến lược của chúng hiện nay đang tập trung vào việc khuyến khích các phần tử cơ hội, suy thoái về tư tưởng chính trị lợi dụng internet, mạng xã hội phá hoại chế độ xã hội và Nhà nước Việt Nam. Đây là một trong những vấn đề mới trên lĩnh vực bảo đảm an ninh quốc gia nói chung, an ninh mạng và an ninh tư tưởng chính trị nói riêng, cần được nhận thức đầy đủ.
Nguồn: www.qdnd.vn

Chủ Nhật, 28 tháng 10, 2018

CHỐNG THAM NHŨNG CÓ PHẢI LÀ ĐẤU ĐÁ PHE PHÁI?


Hàng loạt câu hỏi đặt ra như: tại sao từ hàng chục năm trước, Đảng ta đã nhận ra sự nguy hiểm của tham nhũng mà chưa có chuyển biến quan trọng nào, thậm chí tình trạng tham nhũng có xu hướng nghiêm trọng hơn? Phải chăng vì trong Đảng có nể nang hay ràng buộc phe phái khiến cho không thể chống được tham nhũng, hoặc vì cố bảo vệ uy tín, sự đoàn kết mà ngại không chống tham nhũng triệt để trong từng vụ việc?
Không phải chỉ những kẻ chống đối, cố tình khoét sâu vào điểm yếu tham nhũng, mà không ít cán bộ, đảng viên vẫn còn hoài nghi tính hiệu lực, hiệu quả của công tác phòng, chống tham nhũng hiện nay. Là một trong những đội quân xung kích bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng, những người làm công tác tư tưởng, lý luận đã rất tích cực trong việc tuyên truyền, làm rõ quan điểm của Đảng đối với tham nhũng và những thành tựu trong thực tế đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Nhưng để cuộc đấu tranh này có hiệu quả, cần có những lập luận không những vững về khoa học, mà cần có sức thuyết phục từ sự cầu thị, nhìn thẳng vào sự thật, thừa nhận sự thật, để đề xuất các giải pháp thực tiễn, khả thi của người làm công tác tư tưởng, lý luận. Điều cần phải thừa nhận là, nếu không có tiến bộ trong thực tế đấu tranh phòng, chống tham nhũng, thì dù rất cố gắng, việc đấu tranh tư tưởng của đội ngũ những người làm lý luận, tuyên truyền với những thế lực chống đối, những người có quan điểm sai trái sẽ chỉ có kết quả rất hạn chế.
Điều này có thể khẳng định từ một số luận điểm:
1. Không phải vì một đảng mà nảy sinh tham nhũng, cũng không phải chỉ có đa đảng mới có thể diệt trừ được tham nhũng.
Thực tiễn nhiều quốc gia trên thế giới đã chứng minh đa đảng vẫn có thể nảy sinh tham nhũng, vẫn có thể khó khăn đấu tranh, ngăn chặn tham nhũng. Bằng chứng là nhiều nước đa đảng, thường xuyên được xếp hàng đầu thế giới về chống tham nhũng thì cũng chưa nước nào đạt được 90 trên 100 điểm tuyệt đối theo thang điểm của Tổ chức minh bạch quốc tế (Transparency International viết tắt là TI). Ví dụ, năm 2017, Niu Dilân xếp thứ nhất đạt 89 điểm; Đan Mạch xếp thứ hai đạt 88 điểm; Phần Lan thứ ba, Na Uy thứ tư, Thụy Sĩ thứ năm cùng 85 điểm; Thụy Điển thứ sáu với 84 điểm; Canada thứ bảy với 82 điểm; Luxembourg thứ tám với 82 điểm; Hà Lan thứ chín với 82 điểm; Anh thứ mười cùng 82 điểm; Đức thứ mười một với 81 điểm... Như vậy là tham nhũng vẫn hiện diện ở ngay những nước đa đảng vốn được phương Tây tự coi là dân chủ và trong sạch nhất.
Vậy đâu là những nhân tố quan trọng nhất tạo điều kiện nảy sinh và phát triển tham nhũng? Theo tổng kết của các nhà nghiên cứu và các tổ chức chống tham nhũng quốc tế, đó là: Hệ thống chính trị và hành chính thiếu cơ chế kiểm soát quyền lực, tạo điều kiện cho người có chức vụ, quyền hạn có thể thu lợi bất chính mà không bị ngăn chặn từ bên trong; Thể chế thiếu minh bạch, dân chủ, tạo ra nhiều “vùng tối” khiến người dân khó giám sát và tố cáo hành vi tham nhũng; Chính sách đãi ngộ không đủ bảo đảm mức sống xứng đáng, nhất là trong môi trường kinh tế thị trường, khiến cho người có chức vụ quyền hạn phải tham nhũng như hành vi bất đắc dĩ; Hệ thống pháp luật thiếu nghiêm minh, khiến cho người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi tham nhũng mà không sợ bị trừng phạt; Văn hóa chính trị và công vụ thiếu chú trọng danh dự, liêm sỉ, thiếu đề cao sự trung thực khiến cho kẻ có chức, có quyền không sợ mất danh dự khi tham nhũng; Hệ thống báo chí, truyền thông thiếu dũng khí, không trở thành công cụ hữu hiệu để giám sát, tố cáo hành vi tham nhũng và gây áp lực với đấu tranh chống tham nhũng.
Bất cứ ở đâu, dù là một đảng hay đa đảng, song còn những nhân tố như trên thì đều có thể là mảnh đất nuôi dưỡng tham nhũng, gây khó khăn trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Nói cách khác, chống tham nhũng là “thuốc thử” cho phẩm chất và năng lực lãnh đạo của đảng cầm quyền. Điều này càng đúng đối với Đảng Cộng sản.
Thực tiễn của nhiều nước chuyển đổi từ một đảng lãnh đạo tới đa đảng cạnh tranh tự do cho thấy, nếu chưa thiết lập được thể chế kinh tế thị trường vững vàng, thể chế pháp lý chặt chẽ, nền công vụ có kỷ luật thì quá trình chuyển đổi đó càng tạo điều kiện cho tham nhũng nảy nở, phát triển mạnh mẽ, thậm chí thành đại dịch của đất nước (nước Nga đã từng mất hàng chục năm như vậy và hiện nay vẫn còn bị xếp vào nhóm dưới của bảng xếp hạng tham nhũng với thứ hạng 135/180 với 29/100 điểm, thấp hơn khá nhiều so với Việt Nam).
Nhìn lại thể chế chính trị và văn hóa của nước ta trong những thập niên vừa qua, nhất là từ khi thực hiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phải thẳng thắn thừa nhận có nhiều khiếm khuyết tạo điều kiện cho tham nhũng phát triển, mặc dù điều này đi trái bản chất của Đảng và Nhà nước ta. Trước hết, chúng ta chưa có kinh nghiệm trong việc thiết kế, xây dựng các thể chế pháp lý cho kinh tế thị trường, trong quản lý các dự án, chương trình phát triển của nhà nước; xây dựng các cơ chế, giải pháp phòng ngừa và chống tham nhũng.
Chúng ta cũng chưa quyết liệt trong đổi mới tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế. Đặc biệt chế độ tiền lương của cán bộ, công chức vẫn còn bị kìm hãm bởi tư duy cũ về công bằng, bình đằng trong phân phối, hưởng thụ, khiến cho tham nhũng trở thành “nguồn sống” đối với không ít cán bộ, công chức.
Từ khi thực hiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều dự án, chương trình, kế hoạch được triển khai nhưng thiếu cơ chế quản lý giám sát ngay từ đầu đã tạo cơ hội cho tham nhũng. Các khoản hoa hồng, chia chác, gửi giá... gần như đã thành thông lệ giữa các bên A, B. Việc đấu thầu công khai đã trở thành bình phong của sự sắp đặt, sau đó có ăn chia giữa các bên. Có thể nói, tham nhũng dưới nhiều hình thức, nhiều mức độ đã trở thành thói quen của một bộ phận công chức thực hiện chính sách, dự án.
Vì những nguyên nhân chủ yếu đó, theo xếp hạng của Tổ chức minh bạch quốc tế, chỉ số cảm nhận tham nhũng (Coruption perceptions index - CPI) của Việt Nam trong nhiều năm luôn ở mức trung bình. Từ 2012 đến 2015 chỉ dừng ở mức 31/100 điểm. Nhờ có những nỗ lực của Đảng và Nhà nước trong chống tham nhũng, năm 2016 CPI tăng được 2 điểm lên đến 33 và 2017 tăng lên đến 35 điểm, xếp thứ 107 trên tổng số 180 quốc gia, vùng lãnh thổ. Điều đó cho thấy, yếu tố quyết định để đánh giá tình trạng tham nhũng chính là sự quyết tâm và biện pháp có hiệu quả của Đảng và Nhà nước, cụ thể là của người đứng đầu nhà nước. Nếu không có điều này thì dù có thể chế dân chủ hoàn thiện đến mấy cũng không thể triệt tiêu được tham nhũng.
Từ yêu cầu của thời đại và phát triển đất nước, đã đến lúc phải nhận thức rõ hơn về ý nghĩa của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng đối với vận mệnh của Đảng ta và hơn thế là với vận mệnh, sự sống còn của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang định hướng xây dựng.
2. Trong thể chế một đảng cộng sản cầm quyền, có thể đấu tranh phòng, chống tham nhũng có kết quả, cần phải có quyết tâm triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, quyết liệt.
Trong điều kiện một đảng cầm quyền, có thể tham nhũng sẽ giảm xuống, thậm chí bị hạn chế tối đa nếu đảng khắc phục được những nhân tố trên. Thực tiễn đấu tranh quyết liệt với tham nhũng ở Trung Quốc trong những năm gần đây dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình đã đưa Trung Quốc vào nhóm xếp hạng tương đối cao về chống tham nhũng.
Những nỗ lực chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta thời gian qua, với việc đưa ra truy tố, xét xử những cán bộ cao cấp liên quan tới các vụ việc tại các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã được quần chúng và đông đảo cán bộ vui mừng, tin tưởng và ủng hộ, nhiều tổ chức quốc tế đánh giá tích cực.
Người dân hiểu rõ, với nguyên tắc tổ chức và hoạt động của mình, trong Đảng Cộng sản Việt Nam có thể có những quan điểm, ý kiến khác nhau giữa các cá nhân, thậm chí giữa một số đảng viên này với một số đảng viên kia, nhưng chưa bao giờ và không bao giờ được phép tồn tại các phe phái. Do đó, đấu tranh chống tham nhũng, có thể động chạm đến bất cứ ai, nhưng không phải là đấu tranh phe phái như thường thấy ở nhiều đảng chính trị khác.
Hơn thế, cuộc đấu tranh chống tham nhũng đang diễn ra có kết quả chứng tỏ rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ năng lực lãnh đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng.
Điều đó cho thấy, dù ở Việt Nam chỉ một đảng lãnh đạo, thì không những có thể mà còn có nhiều thuận lợi trong đấu tranh chống tham nhũng. Thuận lợi đó trước hết bắt nguồn từ bản chất vì dân, vì nước của một Đảng Cộng sản trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, được Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện; vì có được sự yêu mến, tin tưởng, ủng hộ của nhân dân với Đảng; từ nguyên tắc tổ chức thống nhất, đoàn kết của Đảng. Vấn đề đặt ra là khơi nguồn và phát huy những nhân tố thuận lợi trên như thế nào. Những khuyến cáo của tổ chức Minh bạch thế giới với mọi quốc gia nói chung, với Việt Nam nói riêng là đúng đắn, dựa trên những nghiên cứu khoa học, khách quan. Ở đây, xin nhấn mạnh thêm một số khẳng định:
Điều đầu tiên, phải thừa nhận ở Việt Nam cũng như các nước khác, tham nhũng có thể nảy sinh trong đội ngũ cán bộ ở tất cả các cấp, các ngành, trong các cơ quan Nhà nước và Đảng. Dù mang bản chất vì dân, vì nước, nhưng không phải đảng cộng sản có thể miễn trừ với tham nhũng, nhất là trong phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường. Do đó, phòng ngừa và chống tham nhũng là nhiệm vụ thường xuyên của Đảng và Nhà nước, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng, với chế độ. Hoàn thiện pháp luật về phòng ngừa và chống tham nhũng cần luôn cập nhật với thực tiễn phát triển của đất nước, tiếp cận chuẩn mực quốc tế.
Thứ hai, phải coi phòng ngừa và chống tham nhũng là một trong các mục tiêu của mọi chiến lược, kế hoạch phát triển của đất nước. Nói cách khác, phải gắn mục tiêu phòng ngừa và chống tham nhũng với mục tiêu phát triển; gắn cơ chế, giải pháp phòng ngừa, chống tham nhũng vào cơ chế, giải pháp thi hành chính sách, pháp luật. Hiện nay, điều này chưa được quán triệt, nên còn nhiều khe hở tạo điều kiện cho những người có chức, có quyền, kể cả doanh nghiệp lợi dụng thực hiện hành vi tham nhũng.
Phát triển Chính phủ điện tử là một giải pháp hữu hiệu cần phải được thúc đẩy. Thực tiễn cho thấy, các quốc gia có trình độ phát triển Chính phủ điện tử cao thì cũng là các quốc gia có môi trường kinh doanh tốt và mức độ tham nhũng thấp (ví dụ các nước Phần Lan, Thụy Điển, Na Uy, Đan Mạch, Anh, Singapore, Canada….). Trong những năm 2016, 2017, khi Việt Nam cải thiện được Chỉ số phát triển Chính phủ điện tử (trong đó có chỉ số về Dịch vụ công trực tuyến) thì không những nâng cao được chỉ số môi trường kinh doanh (năm 2018 tăng 14 bậc); đồng thời, cũng nâng cao được điểm chống tham nhũng (tăng 4 điểm so với 2012-2015).
Cần phải coi cải cách chế độ tiền lương theo hướng công bằng thực chất, không phải là cào bằng, là bình quân chủ nghĩa là một giải pháp quan trọng, tạo động lực của đội ngũ cán bộ công chức trong khu vực công tận tụy, có trách nhiệm và đạo đức công vụ, tránh xa các hành vi tham nhũng.
Thứ ba, cần có quyết tâm cao của toàn Đảng, nhất là cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng. Để có được điều này, đòi hỏi Đảng phải lựa chọn được những người lãnh đạo xứng đáng đủ năng lực lãnh đạo và phẩm chất đạo đức trong sáng, có quyết tâm cao chống tham nhũng./.
http://www.nguoiconyeunuoc.org/