Xác định con người là mục tiêu và động lực của sự phát triển
đất nước, Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán thực thi đảm bảo quyền con người
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Với quan điểm đó, việc thực hiện quyền
con người ở Việt Nam thời gian qua đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Đó
là điều không thể phủ nhận.
Vừa qua, Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam cho lưu hành Dự thảo “Báo cáo Quốc gia kiểm điểm định kỳ việc thực hiện
quyền con người ở Việt Nam”1 lần thứ ba tại Liên hợp quốc, dự
kiến họp vào đầu năm 2019. Nhân sự kiện này, một số tổ chức, cá nhân luôn thiếu
thiện chí với Việt Nam đã có những chỉ trích, nói đúng hơn là xuyên tạc, phủ
nhận những thành tựu, bước tiến quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người
của Việt Nam. Điển hình là: “Liên đoàn Nhân quyền Quốc tế” (FIDH) và tổ chức
thành viên là “Ủy ban Bảo vệ Quyền làm người Việt Nam” (VCHR), cho rằng: “Chính
phủ Việt Nam không đạt được một tiến bộ nào trong việc thay đổi những luật lệ
hà khắc theo các tiêu chuẩn quốc tế và họ cũng không cải tổ về luật pháp theo
các nguyên tắc dân chủ…”, “Việt Nam che giấu vi phạm nhân quyền trong báo cáo
định kỳ phổ quát”, v.v.
Sự thật có đúng như vậy không? Phải chăng Việt Nam “không
đạt được một tiến bộ nào” trên lĩnh vực quyền con người trong những năm qua?
Câu trả lời là không. Sự thật không như nhận định của họ. Đó là nhận định hết
sức chủ quan, thiên kiến, áp đặt, hòng phủ nhận, xuyên tạc đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam.
Trước hết, phải khẳng định rằng: Báo cáo của Bộ
Ngoại giao Việt Nam đã tuân thủ đúng yêu cầu của Liên hợp quốc, trình bày
đầy đủ nội dung theo quy định, quy trình soạn thảo; có các cơ quan, tổ chức
tham gia xây dựng văn kiện. Việt Nam luôn coi trọng và thực hiện các cam kết và
nghĩa vụ theo cơ chế kiểm điểm phổ quát định kỳ (UPR) và đã thực hiện được hầu
hết các khuyến nghị mà Liên hợp quốc đưa ra trong kỳ kiểm điểm nhân quyền lần
trước cách đây 4 năm (báo cáo lần 2 được thực hiện vào năm 2014). Báo cáo đã
rút ra những kinh nghiệm trong việc bảo đảm quyền con người cũng như những vấn
đề đang tồn tại do nguyên nhân khách quan và chủ quan mà Nhà nước Việt Nam đang
tập trung giải quyết, chứ không hề che giấu như đánh giá của VCHR.
Trên lĩnh vực thể chế, pháp luật, cho đến nay, Việt Nam đã gia nhập, ký kết đầy đủ những
công ước quốc tế cơ bản về quyền con người, trong đó có “Công ước của Liên hợp
quốc về chống tra tấn và trừng phạt hoặc đối xử tàn nhẫn, vô nhân đạo hoặc làm
mất phẩm giá khác” (CAT). Đây là sự cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc bảo
đảm quyền con người; ngăn chặn mọi hành vi tra tấn, đối xử vô nhân đạo hoặc xúc
phạm nhân phẩm con người trong bất cứ hoàn cảnh nào, bởi bất cứ cá nhân, tổ
chức nào, kể cả cơ quan thực thi pháp luật.
Từ năm 2014 đến nay, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã sửa đổi, ban hành nhiều luật, bộ luật nhằm tạo cơ sở pháp lý cho
mọi hoạt động của cá nhân, tổ chức nói chung và đảm bảo quyền con người nói
riêng. Tiêu biểu như: Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (năm 2016); Luật Báo chí (năm
2016), đã đặt nền móng cho việc đảm bảo tự do tín ngưỡng, tôn giáo tốt hơn cho
người dân; thực hiện nguyên tắc không kiểm duyệt đối với việc xuất bản, phát
thanh, truyền hình. Ngoài ra, còn có các luật, như: Luật Trợ giúp pháp lý (năm
2017), Luật Đặc xá (năm 2018), v.v. Đáng chú ý, việc ban hành Bộ luật Tố tụng
hình sự, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam (năm 2015), cùng với Luật Thi hành án
hình sự, đã đảm bảo các phiên tòa và quyền lợi của những người bị tạm giữ, thi
hành án đúng pháp luật, v.v.
Đặc biệt, trước đó, Quốc hội đã ban hành Hiến pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, là một bước tiến mới trên lĩnh vực thể
chế Quốc gia về quyền con người. Tại Chương II về “Quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân”, các quyền về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội
và văn hóa đã quy định đầy đủ, tương thích với các công ước quốc tế về quyền
con người của Liên hợp quốc mà Việt Nam tham gia. Ba nguyên tắc về quyền con người
cũng đã được quy định tại chương này. Đó là: 1. Tất cả các quyền
con người được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm (Điều 14.1); 2.
“Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật
trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (Điều 14.2); 3.
“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo
trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật…”
(Điều 31). Điều 25 của Hiến pháp cũng đã quy định: “Công dân có quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc
thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Điều này cho thấy, Nhà nước
Việt Nam đã rất tích cực và đạt được kết quả quan trọng trong việc xây dựng,
hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người. Không chỉ vậy, luật pháp Việt
Nam còn thể hiện rõ tính nhân văn, nhân đạo, vì con người, chứ không “hà khắc”
như FIDH nói.
Hiến pháp năm 2013 còn quy định rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam
không chỉ giữ vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội, mà còn là một tổ chức “gắn
bó mật thiết với nhân dân”, “chịu trách nhiệm trước nhân dân” và “hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Như vậy, không có chuyện Đảng Cộng sản
Việt Nam, các đảng viên của Đảng “độc quyền”, “đứng trên pháp luật” như một số
người nhắm mắt cố nói và viết trên mạng.
Về phương diện bảo đảm quyền con người trên thực tế, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý,
tổ chức của Nhà nước, sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta tiếp tục đạt được nhiều
thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử trên các lĩnh vực: an sinh xã hội được
bảo đảm và tăng cường. Đây chính là cơ sở quan trọng để quyền con người, nhất
là những quyền cơ bản được đảm bảo ngày một tốt hơn. Đến năm 2015, Việt Nam đã
hoàn tất các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ trước thời hạn. Nhờ đó, 43 triệu
người Việt Nam đã thoát khỏi nghèo đói; tính theo chuẩn mới đến năm 2017, tỷ lệ
người nghèo giảm xuống còn 7%. Việt Nam đã hoàn thành việc phổ cập giáo dục
tiểu học vào năm 2010 và mầm non năm 2017. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân
có nhiều tiến bộ, hệ thống cơ sở y tế được hình thành rộng khắp trong cả nước;
số bác sĩ, số giường bệnh trên một vạn dân tăng nhanh. Chất lượng hệ thống dịch
vụ y tế ngày càng được nâng cao. Đây là sự cố gắng lớn của Đảng, Nhà nước Việt
Nam, hiếm có một quốc gia nào trong điều kiện vừa thoát ra khỏi cuộc chiến
tranh kéo dài có thể đạt được. Trong những năm gần đây, thực hiện Nghị quyết
Đại hội XII của Đảng, bầu không khí chính trị, xã hội, diện mạo kinh tế, quan
hệ đối ngoại của đất nước đã có những thay đổi quan trọng. Cuộc bầu cử đại biểu
Quốc hội khóa XIV (nhiệm kỳ 2016 - 2021), cả nước có tới 67.485.482 cử tri đi
bầu, đạt 99,35%, là minh chứng hùng hồn về việc thực thi quyền tự do, dân chủ,
đồng thời phản ánh ý thức chính trị cao của công dân đối với đất nước, mà không
thế lực nào có thể xuyên tạc, phủ nhận.
Quyền tự do ngôn luận báo chí ngày càng rộng rãi hơn. Cho
đến năm 2017, Việt Nam có 982 cơ quan báo, tạp chí được cấp phép hoạt động2,
đã thông tin kịp thời, phản ánh hơi thở đời sống xã hội, góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống người dân. Mọi người có quyền sáng tạo
tác phẩm báo chí, cung cấp, phản hồi thông tin trên báo chí, bày tỏ ý kiến về
tình hình đất nước và thế giới, tham gia góp ý, xây dựng và thực hiện đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phê bình, kiến
nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí, v.v. Với chính sách tiến bộ, phù hợp, đón
trước sự phát triển của khoa học - công nghệ, Việt Nam đã đầu tư cơ sở hạ tầng,
tạo điều kiện cho người dân phát triển, truy cập in-tơ-nét, tiếp cận tin tức
của các cơ quan thông tấn, báo chí trong nước và quốc tế một cách rộng rãi.
Theo Tổ chức Nghiên cứu về mạng xã hội quốc tế “Next Web”, hiện nay, Việt Nam
nằm trong “Top 10” quốc gia có nhiều người dùng Facebook nhất thế
giới, với 64 triệu người, chiếm 3% tổng số tài khoản Facebook toàn cầu.
Ngoài ra, Việt Nam có tới 336 mạng xã hội, 1.174 trang thông tin điện tử
được cấp phép hoạt động.
Trên lĩnh vực kinh tế, theo báo cáo của Chính phủ năm 2017,
tình hình kinh tế vĩ mô ổn định, tăng trưởng GDP đạt 6,7%; các cân đối lớn của
nền kinh tế cơ bản được bảo đảm; GDP bình quân đầu người ước tính đạt 53,5 triệu
đồng, tương đương 2.385 USD, tăng 170 USD so với năm 2016. Theo báo cáo của
Chính phủ tại phiên Họp báo thường kỳ tháng 8-2018, tăng trưởng GDP năm 2018 có
khả năng hơn 6,7%, thu ngân sách vượt dự toán 3%-5%; nợ công giảm, lạm phát
dưới 4%; năng suất lao động tăng; bảo đảm sự phát triển của đất nước không chỉ
tăng trưởng theo số lượng mà chất lượng cũng được nâng lên. Nhờ đó, đời sống
của nhân dân được nâng lên, niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước ngày càng
được củng cố, uy tín quốc tế của Việt Nam ngày càng cao.
Để bảo đảm quyền bình đẳng, sự phát triển công bằng cho mọi
người, có thể nói, hiếm có một quốc gia nào lại có nhiều chính sách hướng đến
nhóm xã hội yếu thế, đồng bào vùng sâu, vùng xa, dân tộc thiểu số như Việt Nam.
Chẳng hạn như: tổ chức tín dụng phục vụ người nghèo, “Ngân hàng Chính sách xã
hội”, v.v. Với các tổ chức này, người nghèo có thể vay trực tiếp hoặc vay ủy
thác qua các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội của mình, như: Hội Nông dân,
Hội Cựu chiến binh, v.v. Ngoài ra, Nhà nước còn dành một khoản ngân sách lớn
cho Chương trình 135, nhằm phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, dịch vụ công cộng
địa phương thiết yếu, như: điện, trường học, trạm y tế, nước sạch. Qua đó, góp
phần nâng cao đời sống, sinh hoạt cho các xã đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc
thiểu số và miền núi. Theo kế hoạch, giai đoạn 2016 - 2020, có gần 2.300 xã
được đầu tư; riêng hai năm (2014 - 2015), Chương trình đã dành số vốn từ ngân
sách nhà nước lên đến 7.790 tỷ đồng. Việc thực hiện bình đẳng giới, vì sự tiến
bộ của phụ nữ được quan tâm, đạt kết quả cao. Hiện nay, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc
hội ở Việt Nam khóa XIV (nhiệm kỳ 2016 - 2021) là 26,72%, tăng so với hai khóa
trước đó, cao hơn mức trung bình của thế giới (23,6%), giữ vị trí tương đối
trong khu vực và lần đầu tiên Quốc hội Việt Nam có Chủ tịch Quốc hội là nữ.
Với những minh chứng trên, có thể khẳng định rằng, so với
thời điểm báo cáo lần 2 (năm 2014), việc bảo đảm quyền con người của Việt Nam
trên các lĩnh vực, từ thể chế Quốc gia, pháp luật và trên thực tế đã đạt được
nhiều thành tựu quan trọng, có bước phát triển mới. Đó là sự thật không ai có
thể phủ nhận.
1 - Báo cáo Quốc gia kiểm điểm định kỳ việc thực hiện quyền
con người ở Việt Nam thực hiện theo Nghị quyết 5/1 ngày 18-06-2007 của Hội đồng
Nhân quyền Liên hợp quốc.
2 - Số lượng báo in là 193 (trung ương: 86, địa phương:
107); 639 tạp chí (trung ương: 525, địa phương: 114); báo điện tử là 150.
Nguồn: tapchiqptd.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét