Thứ Tư, 28 tháng 11, 2018

Xử lý trí thức - đảng viên sai phạm không phải là kỳ thị cả đội ngũ


Sau khi báo chí, công luận gần đây thông tin về việc xử lý những sai phạm của ông Chu Hảo theo kết luận của Ủy ban Kiểm tra (UBKT) Trung ương, dư luận cán bộ, đảng viên và nhân dân bày tỏ sự đồng tình. Tuy nhiên, trên mạng xã hội và đài, báo nước ngoài lại xuất hiện một số ý kiến cố tình làm sai lệch sự việc với dụng ý nói xấu Đảng, Nhà nước Việt Nam; cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đang kỳ thị, “gạt ra bên lề”, “đánh” những trí thức “chân chính”…
Những lời thương vay khóc mướn
Trang BBC tiếng Việt thời gian gần đây có một số bài viết với thông tin cho rằng ông Chu Hảo là “trí thức chân chính”, bị kỷ luật Đảng thì sẽ “trở về với nhân dân”, đóng góp cho sự phát triển đất nước tốt hơn “với tư cách là người tự do”. Trang này lượm lặt thông tin về một số nhân vật bất mãn để “thổi” lên thành sự kiện: “Rộ trào lưu bỏ Đảng sau vụ TS Chu Hảo bị đề nghị kỷ luật”.
Trên trang cá nhân, một số nhân vật tự cho mình là những nhà dân chủ, cấp tiến thay vì nhìn thẳng vào sự thật lại lấp liếm, đổi trắng thay đen, biến những việc làm vi phạm pháp luật Nhà nước, kỷ luật Đảng của ông Chu Hảo thành những công lao, như: Đã dũng cảm cho in những cuốn sách có giá trị, thúc đẩy tự do, dân chủ; bỏ nhiều công sức cho việc chấn hưng dân trí... Họ nêu, kỷ luật ông Chu Hảo “với những lý do đầy tính chất vu khống là “đánh vào những người trí thức yêu nước, có tài và có tâm”, sẽ dẫn đến tình trạng “sĩ phu ngoảnh mặt”. Đài Á Châu tự do vẫn với giọng điệu cực đoan vốn có còn dựng chuyện: “Kỷ luật Giáo sư Chu Hảo là tuyên chiến chống giới trí thức Việt Nam”.
Một số người với cái nhìn cảm tính, phiến diện vội quy kết cho rằng Đảng, Nhà nước Việt Nam hành xử thô bạo với đội ngũ trí thức. Họ cố tình gạt bỏ, không đếm xỉa đến những sai phạm về pháp luật và kỷ luật Đảng của ông Chu Hảo mà quay sang đả phá Đảng, Nhà nước, cho rằng đây là một “nỗi đau”, một sự “lạc hậu”…
Pháp luật Nhà nước, kỷ luật của Đảng phải nghiêm minh, công bằng
Với một số sai phạm được nêu trong thông báo của UBKT Trung ương cho thấy ông Chu Hảo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Đảng. Ở đây hoàn toàn không có chuyện “kỷ luật ông Chu Hảo với những lý do đầy tính chất vu khống” hay Đảng Cộng sản Việt Nam  “đánh vào người trí thức yêu nước, có tài và có tâm” như những ý kiến phiến diện từng rêu rao.
Từ tháng 11-2011, Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành Quy định số 47-QĐ/TW thay thế Quy định số 115-QĐ/TW vẫn có những nội dung hết sức chặt chẽ về vấn đề trên. Theo đó, đảng viên không được: 1-Nói, làm trái hoặc không thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, kết luận của Đảng; làm những việc mà pháp luật không cho phép. 2-Cung cấp, để lộ, làm mất hoặc viết bài, đăng những thông tin, tài liệu bí mật của Đảng và Nhà nước hoặc những việc chưa được phép công bố; tàng trữ, tuyên truyền, tán phát hoặc xúi giục người khác tuyên truyền, tán phát thông tin, tài liệu dưới mọi hình thức để truyền bá những quan điểm trái với đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước... 6-Tổ chức, tham gia các hội trái quy định của pháp luật; biểu tình, tập trung đông người gây mất an ninh, trật tự.
Thế nhưng, trong suốt nhiều năm qua, ông Chu Hảo đã nhiều lần vi phạm các điều nêu trên. Theo UBKT Trung ương, trong việc nói, viết và làm theo Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước, ông Chu Hảo đã có những vi phạm được đánh giá là rất nghiêm trọng. Trong đó, có việc tham gia ký vào các thư kiến nghị, thư ngỏ và có nhiều bài viết trên báo chí trong và ngoài nước, mạng xã hội, như: “Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992” nêu lên 7 kiến nghị tập trung vào 3 vấn đề cốt lõi: (1) Đòi bỏ Điều 4 Hiến pháp; (2) Yêu cầu đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; (3) Đòi phi chính trị đối với lực lượng vũ trang; “Thư ngỏ gửi Ban Chấp hành Trung ương và toàn thể đảng viên Đảng Cộng sản”, nội dung thư ngỏ cho rằng Đảng đã dẫn dắt dân tộc đi theo đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội cùng với bộ máy cầm quyền quan liêu, tha hóa đã đưa đất nước lâm vào khủng hoảng toàn diện... “Thư kiến nghị về Luật An ninh mạng” trong đó kiến nghị bãi bỏ hoàn toàn một số điều của luật, tự ý đưa tên một vị tướng công an (không được sự đồng ý của vị tướng này) vào danh sách những người đứng tên thư kiến nghị, đưa lên mạng xã hội gây xôn xao dư luận, ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình chính trị, tư tưởng của nhân dân. Ông Chu Hảo còn có nhiều bài viết trên mạng xã hội với nội dung sai trái, cùng nhiều bài trả lời phỏng vấn các đài, báo nước ngoài (BBC, RFA, RFI) có các nội dung sai trái. Ông Chu Hảo cũng là người sáng lập, tham gia các hội, nhóm, diễn đàn, câu lạc bộ và các tổ chức có các hoạt động truyền bá tư tưởng, quan điểm sai trái; là một trong những thành viên đầu tiên của cái gọi là “Nhóm kiến nghị 72”, thành viên tích cực của “Diễn đàn xã hội dân sự”, “Nhóm kiến nghị 61”, “Nhóm tinh thần khai minh”...
Đại diện lãnh đạo Ban Tuyên giáo Trung ương đã mời ông Chu Hảo đến làm việc, trao đổi, phân tích, làm rõ và yêu cầu chấm dứt vi phạm từ năm 2016 nhưng ông không chuyển biến và tiếp tục tái phạm. Trả lời phỏng vấn đài BBC tháng 9-2017, ông Chu Hảo nêu rõ quan điểm muốn thay đổi thể chế, ủng hộ cái gọi là xã hội dân sự: “Bên cạnh nhà nước, doanh nghiệp, thì xã hội dân sự có thể là chìa khóa dẫn đến những áp lực để thay đổi thể chế”.
Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra 9 biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Nếu đối chiếu vào những thông tin, việc làm nêu trên, ông Chu Hảo vi phạm nhiều biểu hiện, như: 1-Phản bác, phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; đòi thực hiện "đa nguyên, đa đảng". 2-Phản bác, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN), Nhà nước pháp quyền XHCN; đòi thực hiện thể chế "tam quyền phân lập", phát triển "xã hội dân sự". Phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai. 3-Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước...
Tại Điều 7, Quy định số 102/QĐ-TW của Bộ Chính trị ban hành cuối năm 2017 cũng chỉ ra nhiều vi phạm về quan điểm chính trị và chính trị nội bộ mà đối chiếu theo đó, ông Chu Hảo đã có rất nhiều sai phạm. Các quy định tại Khoản 3, Điều 7, Quy định số 102/QĐ-TW nêu rõ sẽ xử lý bằng hình thức khai trừ khỏi Đảng với đảng viên: a) Cố ý nói, viết có nội dung xuyên tạc lịch sử, xuyên tạc sự thật, phủ nhận vai trò lãnh đạo và thành quả cách mạng của Đảng và dân tộc. b) Phản bác, phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nguyên tắc tập trung dân chủ, nền dân chủ XHCN, nhà nước pháp quyền XHCN, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; đòi thực hiện thể chế "tam quyền phân lập", "xã hội dân sự", "đa nguyên, đa đảng".
Như vậy, việc kết luận những vi phạm của ông Chu Hảo là rõ ràng, đúng theo quy định của kỷ luật Đảng và pháp luật Nhà nước, hoàn toàn không có chuyện kỳ thị, “đánh” trí thức.
Theo thông tin từ Cổng thông tin điện tử UBKT Trung ương, nguyên nhân cơ bản, chủ quan và lớn nhất dẫn đến sai phạm là do bản thân ông Chu Hảo thiếu tu dưỡng, rèn luyện, không giữ vai trò tiền phong, gương mẫu của người cách mạng chân chính. Đứng trước nhiều vấn đề bức xúc của đời sống xã hội, ông Chu Hảo đã lựa chọn phương pháp sai lầm trong tư duy, hành động và kết cục là vi phạm như hiện nay. Trong thời gian công tác, lúc đương chức, ông không góp ý với Đảng trên cương vị công tác của mình trong phạm vi tổ chức, nhưng khi nghỉ hưu lại có những hành động sai trái. Khi bị kiểm điểm, nhắc nhở, ông khôn khéo thừa nhận sai lầm, khuyết điểm của mình ở mức độ nhất định nhằm tránh bị kỷ luật và giữ vững vai trò “hợp pháp” để rồi vẫn giữ quan điểm, lập trường riêng, không chấp hành yêu cầu của các cơ quan chức năng và sau đó lại tiếp tục có vi phạm.
Sai phạm trên còn do sự thiếu kiên quyết xử lý vi phạm của tổ chức đảng, chính quyền để xảy ra vi phạm kéo dài. Việc kiểm điểm, nhắc nhở đối với ông Chu Hảo diễn ra nhiều lần nhưng có phần nể nang, né tránh; không được tổ chức đảng thực hiện bằng văn bản; không giám sát hay yêu cầu báo cáo kết quả sửa chữa khuyết điểm và cũng không có biện pháp quản lý chặt chẽ hoạt động của đảng viên có vấn đề về “tư tưởng chính trị”. Vi phạm của ông Chu Hảo ngày càng nghiêm trọng. Qua sự việc vi phạm của ông Chu Hảo, vấn đề đặt ra đối với tổ chức đảng là phải làm tốt hơn công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên, để đảng viên thường xuyên được rèn luyện, giữ vững lập trường, quan điểm. Mặt khác, sự chống phá của các thế lực thù địch, cơ hội là môi trường “dung dưỡng” cho các quan điểm, hành vi sai trái của ông Chu Hảo. Các quan điểm sai trái đó được các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội về chính trị lôi kéo, cổ vũ, tiếp sức, các hội, nhóm, diễn đàn…
Để thanh lọc bộ máy và giữ nghiêm kỷ luật Đảng
Ngay tại Điều 1, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đã quy định về tiêu chuẩn đảng viên, có tiêu chí đảng viên phải chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Ðiều lệ Ðảng, các nghị quyết của Ðảng và pháp luật của Nhà nước. Tại Điều 2 về nhiệm vụ đảng viên chỉ rõ đảng viên phải: Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Ðảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Ðiều lệ Ðảng, nghị quyết, chỉ thị của Ðảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Ðảng.
Với những người như ông Chu Hảo, về thực chất đã từ bỏ lý tưởng, từ bỏ hàng ngũ, không còn xứng đáng với tiêu chuẩn, danh hiệu đảng viên cộng sản. Lẽ ra, với những sai phạm trên, ông Chu Hảo đã bị xử lý từ lâu, nhưng Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn trên tinh thần tôn trọng đội ngũ trí thức, cân nhắc, thận trọng, xem xét toàn diện khi xử lý những vụ việc liên quan tới những trí thức có ảnh hưởng nhất định trong đời sống xã hội, từng là cán bộ lãnh đạo cấp cao. Dư luận cho rằng, thời gian gần đây, có một số hiện tượng cán bộ, đảng viên có biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" phức tạp, công khai phủ nhận, tuyên truyền trái đường lối, quan điểm của Đảng… nhưng chưa bị xử lý làm ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng. Vì vậy, đã đến lúc phải xử lý nghiêm một số sự việc để làm gương, tránh tình trạng “nhờn luật”, “nhờn kỷ luật của Đảng”. Những sai phạm của ông Chu Hảo có cả sai phạm về mặt pháp luật thì phải được xử lý đúng pháp luật, không dừng ở việc chỉ xem xét kỷ luật Đảng. Xử lý một vài trường hợp trí thức vi phạm không phải là tuyên chiến hay kỳ thị đội ngũ trí thức mà chính là làm trong sạch đội ngũ trí thức.
Kỷ luật của Đảng Cộng sản Việt Nam là tự giác và nghiêm minh, đồng thời cũng bình đẳng trong Đảng, không phân biệt đảng viên đương chức hay nghỉ hưu, đảng viên là lao động bình thường hay là lãnh đạo, nguyên lãnh đạo. Ai vi phạm đều được kiểm điểm, làm rõ và xử lý nghiêm minh, bảo đảm sự trong sạch đội ngũ. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng cho rằng, nếu kỷ luật của Đảng lỏng lẻo thì những kẻ cơ hội, những phần tử phản động dễ dàng chui vào hàng ngũ để phá hoại Đảng.
Những biểu hiện sai phạm của ông Chu Hảo cũng để lại bài học đắt giá đối với mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn rèn luyện, tu dưỡng suốt đời như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn. Thật đáng tiếc khi ông Chu Hảo sinh ra và trưởng thành trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng, có cha từng là cán bộ cao cấp của ngành công an và ngành văn hóa. Bản thân ông những năm chiến tranh đã được Nhà nước ưu đãi, cho đi du học, làm việc ở Liên Xô suốt nhiều năm và kinh qua nhiều vị trí công tác quan trọng, từng là Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ. Lẽ ra, với tri thức và kinh nghiệm sâu sắc của mình, ông có thể chọn cho mình con đường, cách thức phù hợp hơn, đúng đắn hơn để phát huy vai trò người trí thức chân chính, cống hiến nhiều hơn, thiết thực hơn cho đất nước, thay cho những việc làm lợi bất cập hại, đi ngược với chính mục tiêu, lý tưởng của Đảng, với lời thề của người đảng viên cộng sản mà chính ông từng tuyên thệ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời cũng từng căn dặn: Để xây dựng nước nhà, chúng ta cần càng ngày càng nhiều trí thức tốt… Đảng và Chính phủ phải giúp bằng cách giáo dục, để trí thức có lập trường vững vàng, quan điểm đúng đắn, tư tưởng sáng suốt, tác phong dân chủ. Nói tóm lại: Giúp đỡ các bạn trí thức chính tâm và thân dân. Tinh thần ấy cũng đã thấm sâu trong mọi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với đội ngũ trí thức. Vì vậy, cùng với quan tâm, tạo điều kiện mọi mặt thì việc tăng cường quản lý, chấn chỉnh và xử lý nghiêm túc những hiện tượng sai phạm là cần thiết và bình thường. Trí thức dù là tầng lớp tinh hoa, nhạy cảm với thời cuộc nhưng không thể đứng trên, không thể đi ngược con đường của Tổ quốc và nhân dân, không thể làm trái pháp luật, càng không thể đi ngược, làm trái đường lối, quan điểm của Đảng khi trí thức ấy đứng trong hàng ngũ của Đảng. Việc xử lý một vài hiện tượng cá nhân sai phạm là sự thanh lọc cần thiết để Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch hơn, luôn giữ vững vai trò tiên phong, bản chất giai cấp công nhân và mục tiêu lý tưởng nhất quán; đó cũng là sự thanh lọc cần thiết đối với đội ngũ trí thức cách mạng, chân chính, giúp cho đội ngũ trí thức ngày càng hoàn thiện hơn, đóng góp hiệu quả hơn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Nguồn: www.qdnd.vn


Không thể xuyên tạc, bôi đen hình ảnh đất nước trong đổi mới, hội nhập quốc tế


Hơn 30 năm qua kể từ khi Đảng và Nhà nước Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới (từ năm 1986 đến nay), nhìn tổng thể, công cuộc đổi mới của đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, xã hội-nhất là sau cuộc khủng hoảng, sụp đổ của Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) Đông Âu (1985-1991). Từ tình trạng một quốc gia kém phát triển, lương thực không đủ… đến nay Việt Nam trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình; sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên: Chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao.
Thế nhưng lợi dụng internet, mạng xã hội (MXH) và những mặt tiêu cực trong xã hội chưa được khắc phục, một số kẻ đã tán phát luận điệu, xuyên tạc bản chất của xã hội XHCN, bôi đen hình ảnh của đất nước Việt Nam. Về tình hình trong nước, họ cường điệu những khó khăn trên lĩnh vực kinh tế, rằng “nền kinh tế Việt Nam đang đứng bên bờ vực thẳm”. Về cuộc đấu tranh chống tham nhũng họ viết: Đó chỉ là “cuộc đấu đá giữa nhóm tham nhũng mới với nhóm tham nhũng cũ”. Về chế độ xã hội họ viết: Ở Việt Nam “các quyền của người, nhất là quyền tự do ngôn luận, quyền “tự do internet, MXH” bị xâm phạm bởi Luật An ninh mạng…".
Tuy nhiên, nhìn từ thực tiễn có thể thấy, từ khi được hoàn toàn giải phóng đến nay, Việt Nam đã trải qua những thời kỳ đầy khó khăn, do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trong thời kỳ trước đổi mới (1975-1985), dân tộc Việt Nam đã phải đấu tranh với cuộc bao vây cấm vận nghiệt ngã của Mỹ (từ năm 1975 đến năm 1994). Trong thời kỳ này, Mỹ đã cản trở các tổ chức tài chính quốc tế và các nước cho Việt Nam vay tín dụng… Đến năm 1994, Mỹ mới tuyên bố bãi bỏ hoàn toàn cấm vận Việt Nam và bình thường hóa quan hệ với Việt Nam vào tháng 7-1995. Cũng trong thời kỳ 1975-1985, những sai lầm của mô hình xây dựng xã hội theo mô hình chủ nghĩa xã hội (CNXH) kiểu cũ khiến nền kinh tế đất nước trì trệ, đời sống của nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Là một quốc gia nông nghiệp, đất đai phì nhiêu, người dân cần cù, sáng tạo thế nhưng ở nhiều nơi đã xuất hiện tình trạng thiếu đói. Còn nhớ thời kỳ này, trong khi vết thương chiến tranh chưa được hàn gắn, thì dân tộc Việt Nam lại phải tiến hành hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Bước sang thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay), mở đầu là Đại hội VI (năm 1986), dựa trên đổi mới tư duy lý luận-chính trị và kinh tế, Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện đường lối chính sách xây dựng xã hội theo mô hình mới của CNXH. Về chính trị, đó là xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Trong mô hình này, các quyền bình đẳng về dân sự và chính trị được bảo đảm (về phương diện pháp lý). Về kinh tế đó là nền kinh tế thị trường, nhiều thành phần, cạnh tranh bình đẳng… theo định hướng XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Về đối ngoại, Việt Nam thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, với phương châm đa dạng hóa, đa phương hóa; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Như vậy có thể nói, trong mô hình mới của CNXH các quyền bình đẳng về chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội và văn hóa đã được bảo đảm.
Nét đặc sắc trong xây dựng xã hội theo mô hình mới của CHXH, đó là các quyền con người, quyền công dân được bảo đảm bằng pháp luật cũng như trên thực tế. Hiến pháp năm 2013 dành một chương (Chương II) quy định về đầy đủ về “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Những quy định về quyền con người tại chương này hoàn toàn tương thích với các công ước quốc tế về quyền con người, trong đó có những quyền được xem là “nhạy cảm” cũng đã được đưa vào văn kiện này. Thể chế hóa Hiến pháp năm 2013 và nội luật hóa các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã gia nhập, ký kết, Quốc hội Việt Nam vừa qua đã sửa và xây dựng nhiều đạo luật mới. Đó là Luật Báo chí (năm 2016), Luật Tiếp cận thông tin (năm 2013), Luật An ninh mạng (năm 2018)... Các quy định của những bộ luật trên đều nhằm bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự công cộng và quyền con người. Việt Nam hòa mạng internet toàn cầu khá sớm so với nhiều quốc gia trong khu vực-từ ngày 1-12-1997. Theo tổ chức nghiên cứu về MXH quốc tế-Next Web, hiện nay Việt Nam nằm trong “Top 10 quốc gia có nhiều người dùng Facebook nhất thế giới” với 64 triệu người, chiếm 3% tổng số tài khoản Facebook toàn cầu.
Trên lĩnh vực kinh tế, hình ảnh đất nước, cuộc sống của nhân dân đã được nâng cao đáng kể. Triển khai Chương trình 135 về phát triển kinh tế-xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc ít người, miền núi, vùng sâu, vùng xa… cho đến nay các xã, cụm dân cư đã có đủ cơ sở xã hội thiết yếu, như: Điện, đường giao thông, trường học, trạm y tế. Tỷ lệ hộ đói, nghèo giảm nhanh, luôn đạt và vượt mục tiêu đề ra qua các giai đoạn, hoàn thành và vượt mức mục tiêu Thiên niên kỷ về giảm nghèo trước 10 năm… Giai đoạn 1992-1998, tỷ lệ đói nghèo ở Việt Nam bình quân mỗi năm giảm 2-3%. Đến hết năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo của Việt Nam là 9,45%, vượt mục tiêu đề ra là 10%. Chính phủ Việt Nam đã xây dựng Định hướng giảm nghèo giai đoạn 2011-2020 với mục tiêu giảm số hộ nghèo còn 4-5% vào năm 2020. Theo đánh giá của Liên hợp quốc, Việt Nam đã giảm được một nửa tỷ lệ đói nghèo trong hơn một thập kỷ và là một trong những quốc gia đạt tốc độ giảm đói nghèo nhanh nhất thế giới.
Về cuộc đấu tranh chống tham nhũng, có thể nói chưa nhiệm kỳ nào Đảng Cộng sản Việt Nam triển khai một chiến lược bài bản, quy mô như hiện nay. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cuộc đấu tranh này là “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ” và “phải làm đến cùng”; là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Trong quan hệ quốc tế, vị thế quốc tế của Việt Nam được nâng cao vượt bậc. Cho đến nay Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 13 quốc gia; Việt Nam cũng đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Ấn Độ, Nga, Trung Quốc. Với Hoa Kỳ, Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác toàn diện. Trong thời kỳ đổi mới Việt Nam tham gia vào nhiều cơ quan quan trọng của tổ chức quốc tế rộng lớn: (1) Là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ 2008-2009; (2) thành viên Hội đồng Kinh tế-xã hội nhiệm kỳ 2016-2018; (3) Việt Nam được bầu vào Hội đồng Nhân quyền (nhiệm kỳ 2014-2016)… Ngày 25-5-2018 vừa qua, trong cuộc họp của Nhóm châu Á-Thái Bình Dương tại Liên hợp quốc, các nước trong khu vực đã nhất trí thông qua đề cử Việt Nam là ứng cử viên duy nhất của nhóm vào vị trí Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an (nhiệm kỳ 2020-2021-tại cuộc bầu cử sẽ được tổ chức vào tháng 6-2019).
Là thành viên có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế, Việt Nam đã và đang tham gia vào lực lượng Gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. "Từ năm 2014, Việt Nam đã cử các sĩ quan tham gia các phái bộ gìn giữ hòa bình ở Cộng hòa Trung Phi và ở Nam Sudan. Mới đây, ngày 25-6-2018, Cục Hỗ trợ thực địa Liên hợp quốc đã công bố kết quả thanh sát địa điểm huấn luyện gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc tại các nước thuộc ASEAN, theo đó Việt Nam cùng với 3 nước là Campuchia, Indonesia, Thái Lan được chọn làm địa điểm huấn luyện gìn giữ hòa bình quốc tế luân phiên. Việt Nam cũng đang nỗ lực để triển khai Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 1 tại Nam Sudan”[1].
Đi theo con đường của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam không chỉ đã giành được quyền con người mà còn có những đóng góp to lớn trên lĩnh vực này từ tư tưởng lý luận cho đến thực tiễn. Công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế là một thời kỳ phát triển vượt bậc của Việt Nam về các phương diện, trong đó có quyền con người. Các quyền con người đều có những bước bảo đảm cao hơn, vị thế của dân tộc, đất nước được nâng cao hơn; được cộng đồng quốc tế trân trọng ghi nhận.
Nguồn: www.qdnd.vn

ĐẬP TAN LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC PHẨM CHẤT TRUNG THÀNH CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN


Nhằm làm cho Quân đội ta mất phương hướng chính trị, các thế lực thù địch đã và đang dùng mọi thủ đoạn vừa âm thầm, vừa trắng trợn, xuyên tạc, phủ định bản chất, truyền thống của “Bộ đội Cụ Hồ”, nhất là sự trung thành tuyệt đối của Quân đội ta với Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Thứ Ba, 27 tháng 11, 2018

NẠN THAM NHŨNG VÀ NGUY CƠ CỦA NÓ


Tham nhũng không phải là loại tệ nạn xã hội chỉ mới xuất hiện trong thời đại chúng ta; trái lại, trong lịch sử nhân loại nó đã tồn tại từ rất lâu ở hầu hết tất cả các quốc gia. Tuy nhiên, tham nhũng trong xã hội hiện đại tồn tại dưới rất nhiều biến thể vô cùng tinh vi, hết sức khéo léo, cực kỳ xảo quyệt, nhiều khi rất khó phát hiện, mặc dù mọi người đều có thể cảm nhận được. Đáng nói là, trong lịch sử đương đại, ở các nước phát triển, nơi có nhà nước pháp quyền và ít sử dụng tiền mặt trong mọi giao dịch kinh tế thì việc phát hiện tham nhũng, kể cả những vụ đã diễn ra nhiều năm trước đó, có nhiều điều kiện hơn các nước kém phát triển.
Tham nhũng, theo định nghĩa của Từ điển Bách khoa Việt Nam, là “hành vi của những người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ và quyền hạn để sách nhiễu, tham ô, nhận hối lộ hoặc cố ý làm trái chính sách, chế độ, thể lệ về kinh tế - tài chính vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan nhà nước và tổ chức chính trị, xã hội” . Luật phòng, chống tham nhũng ban hành năm 2005 của Việt Nam coi “tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”, trong đó, “người có chức vụ, quyền hạn bao gồm: a) Cán bộ, công chức, viên chức; b) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sỹ quan, hạ sỹ quan nghiệp vụ, sỹ quan, hạ sỹ quan chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; c) Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước, cán bộ lãnh đạo, quản lý là người đại diện phần góp vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp; d) Người được giao nhiệm vụ thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó”.
Như vậy, tham nhũng không thể liên quan đến những người dân bình thường, bởi vì họ không nắm quyền lực, không có quyền lực, không liên quan đến quyền lực, đến công vụ; nghĩa là họ không có điều kiện, không có cơ hội để vụ lợi cho cá nhân mình hoặc gia đình mình. Nói cách khác, tham nhũng chỉ giới hạn trong phạm vi những người gánh vác một trách nhiệm công quyền nào đó thuộc các lĩnh vực khác nhau của Nhà nước, từ vị thế cấp thấp nhất cho đến vị thế cấp cao nhất.
Những biến cố trong lịch sử nhân loại và những sự kiện nóng hổi vừa xảy ra trong thế giới đương đại cùng những bài học rút ra từ đó cho phép chúng ta chỉ ra các nguy cơ do nạn tham nhũng có thể gây ra cho đất nước ta. Về mặt lý thuyết và đối chiếu với hiện thực đang diễn ra trên thế giới thì tham nhũng có nhiều loại như tham nhũng trong kinh tế, tham nhũng về quyền lực, thậm chí cả tham nhũng trong chính trị. Trong nhiều trường hợp các loại tham nhũng này liên kết với nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau, bao che cho nhau, đổi chác và mặc cả với nhau. Một khi quyền lực câu kết với sức mạnh kinh tế thì đó là nguy cơ vô cùng lớn đối với sự tồn vong của chế độ, của đất nước, của dân tộc. Phải thẳng thắn thừa nhận rằng, ở nước ta hiện nay bất kể ngành nào, từ ngành xây dựng, giao thông, thuế vụ, hải quan, tài chính, ngân hàng, đăng kiểm, v.v., cho đến các cấp trong ngành giáo dục, trong các cơ quan nghiên cứu khoa học và bất kể địa phương nào, cấp nào cũng đều có tham nhũng tuy mức độ có khác nhau.
Trước hết, nói về tham nhũng trong lĩnh vực kinh tế. Tham nhũng trong lĩnh vực kinh tế là loại tham nhũng phổ biến nhất từ trước đến nay trên thế giới. Ở nước ta tình hình cũng không khác là bao và đã kéo dài nhiều năm, nhưng chưa có thuốc chữa trị đặc hiệu. Người nắm kinh tế hoặc làm việc trong lĩnh vực kinh tế là người có môi trường thuận lợi nhất để tham nhũng. Những người nắm quyền điều hành trong lĩnh vực này càng dễ có điều kiện hơn những người khác để tham nhũng. Các vụ án lớn ở nước ta trong thời gian vừa qua là minh chứng cụ thể nhất cho điều này. Hàng chục, hàng trăm nghìn tỷ đồng tiến thuế của dân, tiền ngân sách nhà nước đã bị bọn sâu mọt này lấy làm của riêng hoặc tiêu xài phung phí theo nhiều cách khác nhau. Điển hình là các vụ tham nhũng ở Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam, PMU18, Vinashin, Vinalines, Công ty cho thuê tài chính 2 cũng thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam, v.v.. Khi các vụ tham nhũng bị phát hiện, thì khả năng thu hồi thường là rất nhỏ. Chẳng hạn, trong vụ án tại Công ty cho thuê tài chính 2 thất thoát tới 531 tỉ đồng, nhưng chỉ thu giữ được 5,8 tỉ đồng. Tệ hại hơn nữa, loại tham nhũng trong lĩnh vực này còn tồn tại dưới dạng mách nước, vạch đường, bảo kê để trốn thuế, khai man thuế, phá rừng nguyên sinh, rừng đầu nguồn, vườn quốc gia, v.v. để rồi nhận phần chia chác, kể cả chia chác với các đối tác nước ngoài gây thiệt hại rất lớn cho đất nước.
Tham nhũng quyền lực và tham nhũng nhờ quyền lực, bằng quyền lực, nhờ vị trí công việc đang được giao cũng phổ biến không kém. Điều này thể hiện rõ nhất trong khâu tuyển công chức các cấp, kể cả tuyển giáo viên, nhất là giáo viên bậc phổ thông, trong việc mở trường, mở ngành, v.v., đã rộ lên từ nhiều năm nay mà nhiều người dân đều biết, nhưng đến nay mới được người có trách nhiệm nói đến. Một số người có quyền lực, dù là rất nhỏ, vẫn đang cố níu kéo thủ tục hành chính cũ để thu lợi ích bất chính. Không quá khó để nhận diện những loại tham nhũng này.
Để chống lại nạn tham nhũng thì cần phải: Thứ nhất, Nhà nước pháp quyền phải được củng cố thật sự vững chắc. Luật pháp phải được nhanh chóng bổ sung, nhất là bịt ngay những lỗ hổng nhằm ngăn chặn có hiệu quả tình trạng lợi dụng rất phổ biến những lỗ hổng này, trước hết là bổ sung Luật Công vụ vì tham nhũng chỉ gắn với những người thực thi công vụ các cấp, chứ không liên quan đến người dân bình thường. Thứ hai, Quốc hội phải thực sự là cơ quan lập pháp, chứ không phải chỉ là cơ quan thông qua luật pháp do các bộ, các ngành chấp bút đệ trình nhằm tránh tình trạng lợi ích nhóm, lợi ích ngành chi phối luật pháp và các chính sách. Thứ ba, cơ quan phòng chống tham nhũng phải có thực quyền, có cơ chế đặc biệt dưới sự giám sát của Quốc hội và độc lập đối với mọi thành phần của Chính phủ. Cơ quan này được lập ra để kiểm soát hoạt động của Chính phủ, của các cơ quan công quyền thì người đứng đầu Chính phủ không thể là người đứng đầu cơ quan này. Thứ tư, phải đẩy nhanh tiến trình kiểm soát tài sản và kiểm soát thu nhập. Việc kê khai tài sản của công chức đứng đầu các cơ quan, của những người có trách nhiệm nhất định phải được công khai tại nơi công tác và nơi cư trú như Nghị quyết Trung ương 4 đòi hỏi. Nói cách khác, mọi thứ phải được công khai, minh bạch và thực chất chứ không hình thức. Tình trạng không công khai, không minh bạch là điều kiện hết sức thuận lợi cho hành vi tham nhũng. Thứ năm, phải minh bạch trong thông tin và minh bạch trong việc trao quyền; chấm dứt tình trạng gửi gắm, mặc cả, dọn sẵn chỗ tốt và vị trí quan trọng cho người thân có lý lịch gia đình tốt, nhưng bất tài, kém đức, không đáp ứng đòi hỏi của công việc được giao. Thứ sáu, sửa đổi Luật phòng, chống tham nhũng, khuyến khích tố giác người tham nhũng; không đánh đồng người đòi hối lộ với người buộc phải đưa hối lộ nếu người bị buộc đưa hối lộ tự giác và tố cáo người đã đòi hối lộ, đã hoặc sẽ nhận hối lộ với nhà chức trách. Đồng thời, phải xử lý thật nghiêm những kẻ mắc tội tham nhũng, dù kẻ đó ở bất cứ cương vị nào, dù đang làm việc hay đã “hạ cánh an toàn” và cần coi tham nhũng là nội xâm phải kiên quyết diệt trừ.
Tham nhũng đang là quốc nạn, là nạn nội xâm cực kỳ nguy hiểm. Nó đang làm xói mòn lòng tin của người dân vào chính quyền các cấp, vào Nhà nước, vào sự lãnh đạo của Đảng. Các cơ quan công quyền cần lấy lại niềm tin của người dân chứ đừng phung phí niềm tin ấy. Mất niềm tin của dân là nguy cơ lớn nhất đối với sự tồn tại và sự bền vững của đất nước, của chế độ. Mất niềm tin của dân là mất tất cả, bởi vì “chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”. Không thể dẹp được nạn tham nhũng ngay tức khắc, nhưng nếu không kiên quyết và nếu luật pháp không công minh, thì nguy cơ đối với chế độ do quốc nạn tham nhũng gây ra sẽ vô cùng to lớn.
Nguồn: Tạp chí khoa học xã hội Việt Nam

Chủ nghĩa dân tộc: Quan điểm và một số yếu tố tác động trong điều kiện hiện nay


Trong những năm gần đây, chủ nghĩa dân tộc là một trong những khái niệm được sử dụng phổ biến trong lý luận chính trị quốc tế. Tuy nhiên, khái niệm này cũng được nhiều chuyên gia đánh giá là khó nắm bắt nhất và nghiên cứu về nó vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Hiện nay, trước xu thế phát triển khách quan của toàn cầu hóa, chủ nghĩa dân tộc đã có nhiều biểu hiện mới tùy thuộc vào từng quốc gia và bối cảnh cụ thể. Từ nhiều góc độ khác nhau, các học giả trên thế giới đã nghiên cứu và đưa ra những quan điểm về chủ nghĩa dân tộc. Bài viết tổng hợp quan điểm của các nhà khoa học tiêu biểu về các nội dung của chủ nghĩa dân tộc, đồng thời làm rõ một số yếu tố tác động đến chủ nghĩa dân tộc trong điều kiện hiện nay.
Sự đa dạng của các quan điểm về chủ nghĩa dân tộc
Thuật ngữ “chủ nghĩa dân tộc” (tiếng Anh: “nationalism”, tiếng Pháp: “le nationalisme”) được sử dụng chủ yếu và phổ biến trong lý luận chính trị quốc tế. Thuật ngữ này trước hết là một sản phẩm của lịch sử, mang tính lịch sử, đồng thời là một hiện tượng chính trị - xã hội, mang tính thời đại. Khó có thể xác định được chính xác thời điểm ra đời của thuật ngữ này là vào thế kỷ XVIII hay XIX, song một thực tế không thể phủ nhận là chủ nghĩa dân tộc đã trở thành một trong những động lực chính trị và xã hội quan trọng trong lịch sử, có vai trò không nhỏ trong định hướng phát triển cơ bản của đa số các quốc gia, dân tộctrên thế giới ở những thế kỷ tiếp theo.
Theo một số quan điểm, chủ nghĩa dân tộc còn là yếu tố ảnh hưởng chính hay là nguyên nhân của Chiến tranh thế giới thứ Nhất (1914-1918) và thứ Hai (1939-1945). Khoảng cuối thế kỷ XX - đầu thế kỷ XXI, sự ra đời của nhiều “nhà nước - dân tộc” mới và sự hình thành của các tư tưởng “dân tộc tự quyết” đã đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ hơn của chủ nghĩa dân tộc. Chủ nghĩa dân tộc hiện nay vẫn tiếp tục được sử dụng để luận chứng cho nhà nước dân tộc từ phương diện tư tưởng chính trị. Do đó, nhiều người đã coi chủ nghĩa dân tộc như làtrào lưu tư tưởng, là nguyên tắc chính trị, là hệ tư tưởng chính trị hay phong trào chính trị. Những học giả chủ yếu theo quan điểm này gồm: E. Kedourie (1993) xác định chủ nghĩa dân tộc như là một học thuyết, Gellner (1983) quan niệm nó là một nguyên tắc chính trị, Calhoun (1997) cho rằng nó là một hình thức lập luận hay Kellas (1991) quan niệm nó là một dạng hành vi… Trong đó, quan điểm tiêu biểu của Anthony D.Smith trong cuốn sách Nationalism cho rằng: “Chủ nghĩa dân tộc là hệ tư tưởng đặt dân tộc (nation) vào trung tâm các mối quan tâm của nó và tìm cách thúc đẩy sự thịnh vượng của chính dân tộc ấy… Theo đó, sự thịnh vượng của dân tộc nhằm hướng tới đầy đủ tất cả ba mục tiêu chung là: tự chủ dân tộc, thống nhất dân tộc và bản sắc dân tộc. Như vậy, chủ nghĩa dân tộc chính là ‘phong trào ý thức hệ’ (ideological movement) để đạt được và duy trì tính tự chủ, thống nhất và bản sắc cho cộng đồng mà số thành viên của cộng đồng đó được coi là để tạo thành ‘dân tộc’ mang tính hiện thực hoặc tiềm năng”.
Trước tình hình chính trị thế giới phức tạp hiện nay, tùy thuộc vào những đặc trưng, giá trị, chuẩn mực hay lợi ích cụ thể của quốc gia, dân tộc được đề cao là yếu tố nào (chẳng hạn như màu da, sắc tộc, lãnh thổ, nhà nước, lịch sử,…) và theo mức độ ra sao (ôn hòa, bảo thủ, cấp tiến, cứng rắn, quá khích, cực đoan, hiếu chiến…) mà chủ nghĩa dân tộc có nhiều hình thức biểu hiện khác nhau, như: chủ nghĩa dân tộc tự do, chủ nghĩa dân tộc cánh tả, chủ nghĩa dân tộc cánh hữu, chủ nghĩa sôvanh nước lớn, chủ nghĩa khủng bố, chủ nghĩa ly khai dân tộc, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa quân phiệt, chủ nghĩa phát xít… Khi bị đẩy lên mức cực đoan, chủ nghĩa dân tộc ở các hình thức biểu hiện như thế chủ yếu bị người ta xem xét, nhìn nhận với con mắt ác cảm. Mặc dù được quan niệm và lý giải như là hệ tư tưởng, học thuyết hay phong trào chính trị nhưng trên thực tế các quan điểm dân tộc chủ nghĩa khá phức tạp và khó định hình. Nó thường không có cấu trúc lý luận chặt chẽ, mà có thể là sự pha trộn, vay mượn nhiều chủ thuyết, tư tưởng, thậm chí tôn giáo khác nhau nhưng có điểm chung là đều đưa ra những lời giải thích về các vấn đề xã hội thông qua lăng kính và góc nhìn dân tộc.
Như vậy, khái niệm chủ nghĩa dân tộc có nhiều cách hiểu và cách tiếp cận khác nhau, được xem xét ở các phương diện nội dung chính trị, văn hóa - xã hội và tâm lý của nó. Song, điểm quan trọng và chủ yếu của khái niệm này liên quan đến sự sinh tồn, phát triển và quyền lợi của dân tộc, được tạo ra trên cơ sở lòng nhiệt huyết và sự quan tâm sâu sắc của các thành viên đối với lợi ích dân tộc mình. Đặc điểm này của chủ nghĩa dân tộc có tính chất hai mặt, do đó chúng ta cần có thái độ và cách nhìn nhận khách quan, tránh tình trạng phiến diện, cực đoan và nhất là không bị các thế lực phản động lạm dụng bởi nếu không sẽ dẫn đến những hậu quả nguy hiểm khôn lường.
Một số yếu tố tác động đến chủ nghĩa dân tộc trong điều kiện hiện nay
Chủ nghĩa dân tộc là một vấn đề phức tạp và nhạy cảm. Trong bối cảnh hiện nay, chủ nghĩa dân tộc đang ngày càng gia tăng và phát triển mạnh mẽ ở nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới. Xem xét về sự gia tăng này, các nghiên cứu đều cho rằng, toàn cầu hóa là một trong những yếu tố chính tác động không nhỏ đến chủ nghĩa dân tộc. Trong khi một số học giả cho rằng chủ nghĩa dân tộc trở nên ít được chú ý trong quan hệ quốc tế, thì số khác lại cho rằng chủ nghĩa dân tộc được hưởng lợi từ toàn cầu hóa và ngày càng trở nên quan trọng.
Có ba quan điểm chính về mối quan hệ giữa toàn cầu hóa và chủ nghĩa dân tộc: Một là, toàn cầu hóa làm xói mòn chủ nghĩa dân tộc; Hai là, toàn cầu hóa và chủ nghĩa dân tộc có mối quan hệ tương hỗ, phát triển hài hòa; Ba là, toàn cầu hóa đã và đang khiến chủ nghĩa dân tộc trở nên mạnh mẽ hơn.
Ủng hộ quan điểm thứ nhất, các nhà nghiên cứu cho rằng toàn cầu hóa khiến chủ nghĩa dân tộc không còn khả năng gắn kết mọi người trong một nước cũng như ngăn cản họ hòa nhập với những “công dân toàn cầu”. Trong quá khứ, các quốc gia có phân chia biên giới rõ ràng, người dân có ý thức cao về truyền thống và dân tộc, phương thức giao tiếp cá nhân hạn chế. Ngày nay, khi thế giới trở nên “phẳng” hơn thì những rào cản về địa lý không còn là yếu tố gây khó khăn cho giao tiếp cá nhân.
Quan điểm thứ hai cho rằng, toàn cầu hóa và chủ nghĩa dân tộc có mối quan hệ tương hỗ, cùng nhau phát triển hài hòa. Tham gia vào quá trình toàn cầu hóa không có nghĩa là một nước phải từ bỏ hệ tư tưởng hay các giá trị văn hóa của mình để theo một xu hướng chung. Các nước trong quá trình toàn cầu hóa vẫn có thể hợp tác trên nhiều mặt mà không có xung đột về văn hóa, sắc tộc hay tôn giáo.
Quan điểm thứ ba cho rằng, toàn cầu hóa dễ khiến chủ nghĩa dân tộc phát triển mạnh mẽ hơn. Giai đoạn hiện nay, toàn cầu hóa dường như tạo ra sức ép lớn hơn với các địa phương trong một quốc gia cụ thể, đặc biệt về mặt kinh tế và chính trị. Những địa phương này đến lượt mình có khuynh hướng phản ứng lại mạnh mẽ trên cơ sở phát triển chủ nghĩa dân tộc theo hướng cực đoan. Có thể nói theo cách khác là sự mai một dần của các bản sắc địa phương và hồi sinh của chủ nghĩa dân tộc là những hệ quả trực tiếp của toàn cầu hóa. Hiện tượng làn sóng di cư của người dân từ thế giới thứ ba đến các nước phương Tây đã dẫn đến tình trạng căng thẳng về chủng tộc và văn hóa ở nhiều nước Âu, Mỹ, hay việc số dân nhập cư vào châu Âu và Anh gia tăng dẫn đến sự ra đời thêm của các đảng cánh tả ở đây là những minh chứng rất rõ ràng cho trường hợp này. Trong quá trình toàn cầu hóa, các nước phát triển về chính trị, kinh tế, văn hóa sẽ có ảnh hưởng đáng kể đến các nước còn lại của thế giới.
Tác động của toàn cầu hóa lên những khu vực khác nhau sẽ không giống nhau. Nó có thể làm xói mòn chủ nghĩa dân tộc ở nơi này, có thể phát triển hài hòa với chủ nghĩa dân tộc ở nơi kia, và cũng có thể khiến chủ nghĩa dân tộc phát triển lên mức cực đoan. Nhìn chung, quan điểm khác nhau về toàn cầu hóa và ảnh hưởng của nó đối với chủ nghĩa dân tộc dẫn tới những chính sách khác nhau đối với quá trình này. Bên cạnh tác động của toàn cầu hóa, khi xem xét về chủ nghĩa dân tộc, các nhà nghiên cứu còn khẳng định, chủ nghĩa dân tộc còn là kết quả của nhiều nguyên nhân khác nữa như: mâu thuẫn bất đồng do lịch sử để lại; do sức mạnh quân sự và kinh tế tăng lên mạnh mẽ tại một số quốc gia; do sự điều chỉnh trong chính sách ngoại giao của một số nước lớn; do sự gia tăng các biểu hiện cực đoan của một số phong trào chính trị trên thế giới.
Trong điều kiện hiện nay, môi trường thông tin và truyền thông ngày càng mở rộng, đặc biệt là các trang mạng xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho việc lan truyền phổ biến tâm lý dân tộc chủ nghĩa, khiến cho chủ nghĩa dân tộc ngày càng có điều kiện nảy sinh và phát triển. Tùy thuộc vào từng khu vực và từng quốc gia cụ thể mà sự gia tăng, phát triển của chủ nghĩa dân tộc chịu sự chi phối của những nguyên nhân trên khá phức tạp và không thuần nhất. Ở Trung Quốc, những nguyên nhân khiến chủ nghĩa dân tộc đương đại phát triển mạnh mẽ là do vấn đề lịch sử kết hợp với hiện thực, nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài. Trong khi đó, ở khu vực Đông Bắc Á, những nhân tố có vai trò quan trọng đối với chiều hướng biến chuyển của chủ nghĩa dân tộc tại khu vực này xuất phát từ các nguyên nhân như: tình trạng “chủ quyền không trọn vẹn”; tình trạng các tranh chấp lãnh thổ, biển đảo; những mâu thuẫn, bất đồng giữa các dân tộc do khác biệt trong cách giải thích về lịch sử; Trung Quốc tiếp tục trỗi dậy và Mỹ “xoay trục” về châu Á, buộc tất cả các quốc gia và vùng lãnh thổ trong khu vực phải “xoay trục thứ cấp” để thích ứng, cung cấp thêm những yếu tố mới kích thích cho tình cảm dân tộc chủ nghĩa trong dân chúng khu vực Đông Bắc Á; sức mạnh kinh tế và quân sự tăng lên tại hầu hết các nước Đông Bắc Á cũng góp phần thúc đẩy tinh thần dân tộc chủ nghĩa phát triển; Tóm lại, chủ nghĩa dân tộc đa dạng về khuynh hướng và biểu hiện ở nhiều mức độ khác nhau, nhưng xu hướng chung là sự trỗi dậy trở lại một cách mạnh mẽ hơn từ sau Chiến tranh Lạnh. Có giai đoạn, tinh thần dân tộc chủ nghĩa được định hướng nhằm chống lại áp bức, bóc lột, chống lại sự lệ thuộc, thuộc địa và các hình thức kỳ thị chủng tộc khác, khi ấy, nó đã đóng vai trò tiến bộ, góp phần cố kết các tộc người và trở thành phong trào giải phóng dân tộc của các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, khi thổi phồng vai trò của những khác biệt dân tộc và những ưu thế của tộc người, lạm dụng ý thức sắc tộc, lạm dụng tình cảm tự tôn dân tộc thì chủ nghĩa dân tộc đã bị chuyển hóa sang ý nghĩa tiêu cực. Trong giai đoạn hiện nay, trước tác động của toàn cầu hóa, ở nhiều quốc gia và nhiều khu vực trên thế giới, chủ nghĩa dân tộc với những biểu hiện tiêu cực đang có xu hướng gia tăng. Điều đó đòi hỏi các nhà nước sẽ phải có thái độ ứng xử phù hợp và nỗ lực hết mình để điều hòa các mối quan hệ nhằm tránh những xung đột và hậu quả xấu có thể xảy ra.
Nguồn: Thông tin khoa học xã hội






Thứ Hai, 26 tháng 11, 2018

NHẬN DIỆN THÁCH THỨC VÀ BẢO VỆ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG TÌNH HÌNH MỚI


Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam; đó là khoa học, là chân lý, có giá trị vượt thời đại, có sức sống mãnh liệt. 
Những lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ngay từ khi xuất hiện đã bị các thế lực thù địch và phản động không ngừng xuyên tạc, phê phán, bác bỏ và chống phá quyết liệt. Đối với Việt Nam, những năm qua, các thế lực thù địch ra sức tuyên truyền, xuyên tạc nhằm xóa bỏ nền tảng lý luận trong đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam. Đặc biệt, chúng triệt để xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh, bôi lem thân thế, sự nghiệp của Người, hòng đưa tư tưởng Hồ Chí Minh ra khỏi nền tảng lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự tấn công của các thế lực thù địch và phản động ngày càng tinh vi hơn. Các thế lực thù địch dùng “trăm phương nghìn kế” để xuyên tạc, phủ định sạch trơn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng cố tình xuyên tạc, hạ thấp vai trò của chủ nghĩa Mác – Lênin; tập trung tấn công tư tưởng Hồ Chí Minh, hạ thấp tư tưởng Hồ Chí Minh, cho rằng Hồ Chí Minh chỉ nhắc lại tư tưởng của C.Mác, PhĂnghen, V.I.Lênin và các nhà tư tưởng vĩ đại khác chứ không có tư tưởng của riêng mình hoặc tư tưởng không trở thành một hệ thống hoặc là đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin, cho rằng Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không theo chủ nghĩa cộng sản; phủ nhận tính hợp pháp và tính chính đáng của Đảng Cộng sản Việt Nam; phủ nhận mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam,...
Trước những âm mưu, thủ đoạn chống phá của “giặc ngoài”, chúng ta lại phải đối phó với cả “thù trong”. Những khó khăn, thách thức đặt ra trước Đảng, nhân dân và cả chế độ, đó là: niềm tin của dân đối với Đảng, đối với chế độ có sự giảm sút. Nguyên nhân trực tiếp của thách thức trên chính là tệ nạn lợi ích nhóm, tham nhũng, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tình hình mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ,... làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ. Bên cạnh đó lại xuất hiện hiện tượng một bộ phận đảng viên, cán bộ và quần chúng nhân dân lơi là, thậm chí coi thường việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; đề cao, tuyệt đối hóa tăng trưởng kinh tế, ít chú ý đến củng cố nền tảng tư tưởng; xuất hiện tâm lý ngại đấu tranh trên phương diện tư tưởng, lý luận; không gắn liền lý luận với thực tiễn,...
Ngay lúc này đây, nhiệm vụ quan trọng hơn bao giờ hết chính là bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, giữ gìn sự trong sáng của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng ta cần: dùng thực tiễn để bảo vệ lý luận, lấy thành tựu đổi mới, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống người dân làm chỗ dựa vững chắc cho tư tưởng; tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, học tập, giáo dục và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phê phán nền tảng tư tưởng của thế lực thù địch và phản động; đấu tranh với các hình thức cực đoan của các loại chủ nghĩa khác, như chủ nghĩa tự do mới, chủ nghĩa dân tộc dân túy, chủ nghĩa bảo hộ, chủ nghĩa đế quốc,... Bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng trong tình hình mới.
Nguồn: facebook Sách bên hoa


Luận điệu sai trái, thù địch xuyên tạc lịch sử


Gần đây, trên trang mạng “Danlambaovn”, kẻ có bút danh Ng. Dân đã đăng tải bài viết: “Đảng cướp!”. Nội dung bài viết, cố tình xuyên tạc, phủ nhận sự thật lịch sử, nhằm xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, gây hoang mang dao động trong quần chúng nhân dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng Việt Nam hoàn toàn không phải là sự tiếm quyền. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tồn tại, phát triển không vì mục đích tự thân mà vì độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Lãnh đạo toàn dân tộc vượt qua bao khó khăn, thử thách, đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, vững bước trên con đường đổi mới, xây dựng CNXH. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiền phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiền phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Mục tiêu, lý tưởng của Đảng ta là đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, xây dựng xã hội dân chủ, công bằng và văn minh, nhân dân được sống trong tự do, ấm no, hạnh phúc. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh, sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố có ý nghĩa quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam; ngoài lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, Đảng không có lợi ích nào khác. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam là sự lựa chọn của lịch sử và ý nguyện của nhân dân chứ hoàn toàn không như những luận điệu của các thế lực thù địch với mục đích chống phá Đảng, Nhà nước ta, xuyên tạc, bôi nhọ lịch sử của dân tộc, khi cho rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam là một đảng tiếm quyền….đưa đất nước, dân tộc qua bao thảm cảnh điêu linh, tang tóc”.
Dưới sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước đã đạt được nhiều kết quả, thành tựu to lớn.
Cách đây hơn 70 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đây là một mốc son chói lọi, bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc ta. Thắng lợi vẻ vang của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là nguồn sức mạnh to lớn, là tiền đề quan trọng để dân tộc ta liên tiếp giành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến cứu nước vĩ đại, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Với thắng lợi này, cách mạng nước ta chuyển sang một giai đoạn mới, đưa nước ta trở thành một trong những nước đi tiên phong ở Đông Nam Á trong việc xây dựng chế độ mới – chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện hoài bão, ước mơ của bao thế hệ người Việt Nam yêu nước. Sau hơn 30 năm đổi mới, từ một nước nghèo, kém phát triển, bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, với chủ trương, đường lối đúng đắn, Đảng đã lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đưa Việt Nam vươn lên trở thành một quốc gia đang phát triển, tăng trưởng kinh tế bình quân đạt gần 7% năm. GDP tăng gấp gần 7 lần và kim ngạch xuất khẩu tăng gấp hơn 200 lần chạm ngưỡng 400 tỷ USD. …. Vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Những minh chứng trên đã đập tan luận điệu phản động cố tình xuyên tạc sự thật lịch sử với động cơ chia rẽ, phá hoại đoàn kết dân tộc, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và những thành tựu xây dựng đất nước của nhân dân ta trong bài viết của kẻ có bút danh là Ng. Dân
Tóm lại, những luận điệu trong bài viết đã bộc lộ bản chất phản động, thiếu khách quan, cố tình bóp méo sự thật, với mục đích chống phá Đảng và Nhà Nước ta. Chúng ta cần cảnh giác và kiên quyết vạch trần âm mưu, thủ đoạn chống phá hết sức thâm độc của Ng. Dân và các thế lực thù địch.
Nguồn: facebook Sách bên hoa

SỰ PHẢN BIỆN CỦA NGUYỄN ĐÌNH CỐNG


Lợi dụng sự kiện Hội nghị Trung ương 8 Khóa XII của Đảng và các sự kiện trọng đại của đất nước, trong đó có việc ban hành “Quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng”, trên trang mạng Tiếng Dân gần đây, Nguyễn Đình Cống lấy danh nghĩa phản biện, đưa ra bài viết nhằm bôi nhọ, hạ thấp uy tín của Đảng ta khi cho rằng việc ban hành Quy định này “là việc làm vớ vẩn… tệ hại”.
Đọc những luận điệu “gọi là phản biện” của Nguyễn Đình Cống trong bài viết trên, không khó khăn để nhận thấy y mượn “bình phong” là người yêu nước khi tích cực có những ý kiến phản biện để đóng góp vào công tác xây dựng Đảng. Nhưng thực chất, y phần tử cơ hội, phản động, sử dụng lập luận xảo trá, lừa lọc để bôi nhọ, hạ thấp uy tín của Đảng, nhằm làm cho nhân dân tin rằng, cán bộ, đảng viên của Đảng không có phẩm chất, đạo đức, lối sống; Đảng Cộng sản Việt Nam không đủ trí tuệ để lãnh đạo đất nước… Từ đó làm lung lay niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Thực tiễn cánh mạng Việt Nam cho thấy, để xây dựng Đảng đủ sức lãnh đạo đất nước, trong mọi thời kỳ cách mạng, Đảng ta rất coi trọng việc nêu gương của cán bộ, đảng viên. Ngay trong những năm đầu đất nước dành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”. Trước lúc đi xa, trong Di chúc Người đã căn dặn:“Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân”. Mục đích của xây dựng và chỉnh đốn Đảng là làm trong sạch và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp uỷ, tổ chức đảng, bảo đảm cho Đảng luôn luôn xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân. Đặc biệt, trong những năm gần đây, công tác xây dựng Đảng có nhiều chuyển biến, tích cực. Tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, Đảng ta đã ra Nghị quyết về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Nghị quyết đã đánh giá những nguy cơ, thách thức, đó là: “Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiền phong, gương mẫu, còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở… Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống… tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước”.
Để khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm này, Đảng đã chú trọng hơn trong việc gắn trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu và xác định đó là việc làm thường xuyên. Điều này được thể hiện trực tiếp hoặc gián tiếp trong nhiều văn bản của Đảng, cụ thể nhất là Quy định 101/QĐ-TW ngày 7/6/2012 của Ban Bí thư về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp và Quy định 55/QĐ-TW ngày 19/12/2016 của Bộ Chính trị về “Một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên”. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, bên cạnh việc phát huy hiệu quả tích cực trong Đảng và trong xã hội, thời gian qua, các quy định mới dừng ở mức độ như một lời khuyến nghị, cần phải nâng lên thành những ràng buộc trách nhiệm mạnh mẽ hơn. Vì thế, Hội nghị Trung ương 8 Khóa XII thông qua Quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng là việc làm cần thiết. Quy định này đã khẳng định tính kỷ luật về sự nêu gương trong Đảng được tiến hành chặt chẽ, cụ thể, rõ ràng và thống nhất thực hiện từ trên xuống dưới.
Phẩm chất, năng lực của người đứng đầu, sự mẫu mực, nêu gương cũng như thái độ kiên quyết đấu tranh của họ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở mỗi cơ quan, đơn vị. Đồng thời, sự gương mẫu của người đứng đầu còn tạo ra động lực để thúc đẩy, củng cố niềm tin của nhân dân.
Nếu Nguyễn Đình Cống thực sự có trách nhiệm với Tổ quốc thì y đâu có “cái gọi là phản biện” mang tính kích động kiểu mù quáng, chia rẽ, phản động như vậy. Thiết nghĩ Nguyễn Đình Cống có giở trò “ngụy trang”, lập luận theo kiểu lươn lẹo, lừa bịp và xảo trá như thế nào đi chăng nữa thì bản chất phản động của y cũng luôn bị lật tẩy trước tinh thần cảnh giác của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.
Nguồn: facebook Sách bên hoa

“VŨ KHÍ LUẬN” – MỘT HỌC THUYẾT RẺ TIỀN


Hiện nay, trước những sự phát triển vượt bậc về khoa học và công nghệ, sự bùng nổ của cuộc cách mạng 4.0, vũ khí của các quốc gia trên thế giới ngày càng được cải tiến hiện đại, các phương thức tác chiến ngày càng đa dạng, mức độ hủy diệt của vũ khí càng lớn, chiến tranh bùng nổ sẽ càng ác liệt,... Lợi dụng điều đó, những phần tử cơ hội chính trị, dân tộc cực đoan, các thế lực thù địch vẫn luôn thường xuyên kích động chiến tranh, gây tâm lý dao động, phát tán và tìm cách đưa những tư tưởng sợ công nghệ cao, sợ phương tiện, vũ khí chiến tranh hiện đại, sợ hy sinh len lỏi vào trong quân đội bằng chiến lược và học thuyết của chúng: “VŨ KHÍ LUẬN” – MỘT HỌC THUYẾT RẺ TIỀN.
Sự lo lắng của chúng ta không phải không có cơ sở. Bởi lẽ vũ khí có vai trò rất quan trọng trong chiến tranh, bên nào có vũ khí hiện đại, hỏa lực mạnh thường sẽ chiếm ưu thế trên chiến trường; đặc biệt là vũ khí công nghệ cao có sức hủy diệt, sức tàn phá và sát thương vô cùng to lớn.
Nhận thức rõ vị trí, vai trò của vũ khí, Quân đội ta đã chủ động đầu tư, mua mới cũng như nghiên cứu, sáng tạo ra nhiều loại vũ khí mới, hiện đại để góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng Quân đội chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Thế nhưng, khi đi vào nhìn rõ chiều sâu của vấn đề, có thể thấy vũ khí công nghệ cao chỉ là một phần tạo nên sức mạnh tổng hợp trong chiến đấu. Để có thể giành được chiến thắng và làm chủ được cuộc chiến cần có sự kết hợp của cả con người, vũ khí trang bị và nghệ thuật quân sự. Trong các yếu tố ấy, con người là yếu tố quyết định. Vì chỉ có con người mới có lòng trung thành, sự quyết tâm, dám đánh, quyết đánh, quyết thắng và sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc. Hơn nữa, chỉ có tố chất thông minh, sáng tạo trong đánh giặc của con người là sức mạnh to lớn nhất, quyết định nhất mà không có loại vũ khí nào có thể chiến thắng.
Lịch sử đã chứng minh rất rõ điều đó. Trong 2 cuộc chiến tranh của dân tộc chống lại đế quốc, thực dân xâm lược mạnh hơn ta rất nhiều với đầy đủ vũ khí, trang bị hiện đại, đặc biệt là “pháo đài bay” của đế quốc Mỹ mà không một đất nước nào có thể bắn hạ, còn ta chỉ có giáo, mác, tầm vông, cuốc, thuổng, gậy gộc,... nhưng cuối cùng, chiến thắng đã thuộc về dân tộc Việt Nam dù vũ khí chúng ta có thô sơ, bởi lẽ chúng ta có ý chí sắt đá, có quyết tâm giành lấy độc lập dân tộc, có nghệ thuật quân sự tài tình, có lòng yêu nước, sự đoàn kết,.. tất cả đều xuất phát từ con người chúng ta, đó là sức mạnh của dân tộc.
Trên thế giơi cũng có không ít những bài học lịch sử đã minh chứng cho cho sự khác biệt giữa sức mạnh của con người và vũ khí. Vũ khí thật sự vô cùng quan trọng, không ai có thể phủ nhận hay hạ thấp vai trò của nó, tuy nhiên, chúng ta cũng không được tuyệt đối hóa sức mạnh của vũ khí hiện đại, vũ khí công nghệ cao, bởi lẽ chỉ tự vũ khí mà không có con người thì tự nó cũng sẽ trở nên vô dụng; con người trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng luôn là nhân tố quyết định thắng lợi của một trận đánh, còn vũ khí thì có nhiều lắm cũng chỉ là rất quan trọng cho chiến thắng của trận đánh ấy mà thôi.
Thực tế rõ là như vậy, nhưng các thế lực thù địch vẫn đang ráo riết tuyên truyền về cái gọi là sức mạnh quyết định thắng lợi của mọi cuộc chiến là vũ khí. Có phải như vậy không khi thực tiễn 2 cuộc kháng chiến của dân tộc ta đã chứng minh điều ngược lại?; hay chúng chỉ đang lừa bịp, hù dọa người khác bằng cái gọi là “Vũ khí luận” - một “học thuyết rẻ tiền”.
Nguồn: facebook Sách bên hoa

Thủ đoạn bỉ ổi của Trân Văn


Chúng ta đều biết, việc các Đại biểu có ý kiến tranh luận tại các kỳ họp Quốc hội là điều hết sức bình thường. Vậy mà, Trân Văn trong bài viết trên blog Tiếng Dân lại cho rằng: “Trước giờ, tranh luận tại Diễn đàn Quốc hội Việt Nam là chuyện hiếm, tranh luận trực tiếp giữa đại biểu các địa phương với nhau về những dự án đầu tư bằng công quỹ còn hiếm hơn”.
Nếu như Trân Văn ít “quan tâm” theo dõi các chương trình truyền hình trực tiếp về các kỳ họp Quốc hội Việt Nam thì nhận xét, đánh giá đó hoàn toàn có thể “thông cảm”. Tuy nhiên, sự việc không phải là như vậy. Điều mà Trân Văn muốn đề cập ở đây chính là tranh luận giữa một số đại biểu Quốc hội với Đoàn đại biểu Quốc hội Thành phố Hồ Chí Minh về quyết định xây dựng Nhà hát Thủ Thiêm của Thành phố. Chẳng thế mà Trân Văn lại đặt vấn đề về sự tranh luận tại Quốc hội “hình như vì những thắc mắc về hiệu quả kinh tế- xã hội của các dự án, ngay cả cảnh báo về nhân tâm đều không… thức thời”. Rõ ràng, đề cập việc tranh luận xung quanh quyết định của Hội đồng nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà hát của Trân Văn là nhằm làm cho người đọc hiểu không đúng về quyết định của Thành phố Hồ Chí Minh, rằng Quyết định đó là không phù hợp, hiện đang còn vướng mắc, khiếu kiện về đất đai ở khu vực dự án hay nhiều vấn đề khác cần thiết được đầu tư hơn như giáo dục, y tế… Qua đó, kích động người dân chống đối lại chính quyền, gây mất trật tự, làm ảnh hưởng đến sự phát triển của Thành phố.
Thực tế cho thấy, dự án Nhà hát Thủ Thiêm đã được Chính phủ phê duyệt trong tổng thể quá trình phát triển kinh tế – xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh đến 2020; trong đó có xác định đây là ưu tiên đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách Thành phố giai đoạn 2011 – 2015. Tuy nhiên, do xác định vị trí xây dựng chưa tạo được sự đồng thuận, còn ý kiến khác nhau nên đến nay Hội đồng Nhân dân Thành phố mới quyết định xây dựng. Riêng vấn đề triển khai kết luận của Thanh tra Chính phủ về vướng mắc, khiếu nại đất đai tại Khu đô thị Thủ Thiêm, lãnh đạo Thành phố đang tập trung giải quyết một cách thận trọng, chặt chẽ, đảm bảo quyền và lợi ích của người dân theo đúng quy định của pháp luật, phù hợp với thực tiễn địa phương. Trước đó, trong báo cáo gửi Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, tổng vốn đầu tư Nhà hát là hơn 1.500 tỷ đồng đã được Thành phố “dành riêng từ năm 2014 từ nguồn đấu giá đất, không sử dụng cho mục đích khác”. Cũng theo Đoàn đại biểu Quốc hội Thành phố Hồ Chí Minh, lẽ ra nhà hát phải được khởi công xây dựng từ trước năm 2015. Tuy nhiên, kế hoạch sau đó lùi lại do kết luận của Thanh tra Chính phủ về kiểm tra một số nội dung liên quan tới khiếu nại công dân đối với Khu đô thị mới Thủ Thiêm (tháng 9/2018). Đáng lưu ý, thông tin từ Đoàn đại biểu Quốc hội Thành phố Hồ Chí Minh cũng cho thấy, 5 năm qua ngân sách của Thành phố dành cho xây bệnh viện, trường học khoảng 34.600 tỷ đồng; so với chi phí đầu tư này thì chi phí dự kiến xây Nhà hát chỉ chiếm trên 4%. Còn nếu so với tổng mức đầu tư xây dựng trường học, bệnh viện giai đoạn 2006-2020 là 57.860 tỷ đồng, thì chi phí xây dựng Nhà hát chỉ bằng 2,6% và chỉ bằng 0,42% nếu so với tổng chi ngân sách thành phố cùng giai đoạn. Hơn nữa, trong quy hoạch và trên thực tế, diện tích đất xây Nhà hát không nằm trong khu vực tranh chấp, đền bù ở Thủ Thiêm như một số ý băn khoăn. Như vậy, về mặt pháp luật, cũng như trên thực tế, quyết định đầu tư xây dựng Nhà hát Thủ Thiêm là đầy đủ và phù hợp với chủ trương chung, đồng thời vẫn đảm bảo sự phát triển hài hòa, hoàn toàn không như những gì mà Trân Văn “muốn thông tin” đến người đọc.
Qua đó cho thấy, việc xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước nói chung, chủ trương, kế hoạch phát triển, trong đó có quyết định xây dựng Nhà hát của Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng là thủ đoạn bỉ ổi và hết sức nguy hiểm mà Trân Văn và các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, nhất là mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; gây mất ổn định xã hội; tiến tới xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Bởi vậy, mỗi chúng ta phải hết sức cảnh giác, tỉnh táo để không mắc mưu các thế lực thù địch, làm tổn hại đến lợi ích quốc gia – dân tộc./.
https://nhanvanviet.com


Ngăn chặn, xử lý kịp thời các thông tin sai lệch trên mạng


Thực hiện chương trình Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV, đại biểu Quốc hội đã chất vấn các thành viên Chính phủ việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề và chất vấn từ đầu nhiệm kỳ đến hết Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIV. Một số đại biểu đã lo ngại về tình trạng hiện nay trên mạng xã hội có một số cá nhân tự cho mình quyền muốn nói gì thì nói, muốn xúc phạm ai thì xúc phạm, nhất là sau phiên họp lấy phiếu tín nhiệm tại Quốc hội vừa qua, đã có rất nhiều phát ngôn xúc phạm đến các bộ trưởng trên mạng xã hội. Bức xúc trước vấn đề này Đại biểu Quốc hội Nguyễn Sỹ Cương – tỉnh Ninh Thuận đã đặt câu hỏi: Vấn đề này có cần phải xử lý không? Và có thể xử lý được hay không?
Trả lời chất vấn của đại biểu Nguyễn Sỹ Cương, Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm đã cho biết: Bộ Công an đã phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông cùng các cơ quan chức năng xử lý các vụ việc và những người liên quan đến vấn đề này. Tuy nhiên, những hành vi này chưa thể ngăn chặn được, còn có nhiều khó khăn vì: mạng xã hội đã trở thành kênh thông tin quan trọng trong đời sống xã hội, có tác động, ảnh hưởng không nhỏ đến suy nghĩ, nhận thức và hành động của người dân, trong khi đó mô hình quản lý thông tin trên mạng vẫn theo cách thức quản lý báo chí truyền thống, bộc lộ nhiều bất cập. Tính nặc danh của thông tin trên mạng, thậm chí vi phạm đó không chỉ trong nước mà còn có tính quốc tế, xuyên quốc gia. Ngoài ra, một số quy định pháp luật xử lý về vấn đề này chưa được hoàn thiện. Mỗi khi xử lý những thông tin vu khống, xuyên tạc thì cần có chứng cứ, phải được các cơ quan chức năng giám định.
Đề khắc phục tình trạng trên, chúng ta cần phải thực hiện tốt một số vấn đề sau: Nhà nước tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý để đấu tranh, xử lý kiên quyết với những hành vi xúc phạm danh dự người khác, làm nhục, vu khống trên không gian mạng. Trước hết, mọi người phải thực hiện nghiêm Luật An ninh mạng đã được thông qua. Bộ Công an phối hợp với các cơ quan chức năng xây dựng các văn bản thi hành Luật An ninh mạng và có các quy định pháp luật cụ thể để xử lý kịp thời, đủ sức răn đe, ngăn chặn mọi hành vi vu khống, xúc phạm danh dự, làm nhục người khác trên không gian mạng. Bên cạnh đó, Bộ Công an tiếp tục phối hợp với các bộ, ban, ngành tăng cường công tác tuyên truyền, phản bác các hoạt động chống đối, bôi nhọ, xuyên tạc của các đối tượng trên không gian mạng.
Các cơ quan chức năng cần tăng cường hơn nữa công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực an ninh thông tin để bảo đảm an ninh mạng. Bộ Công an phối hợp chặt chẽ với Bộ Thông tin và Truyền thông và các cơ quan có liên quan kiểm soát chặt chẽ các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, internet, ngăn chặn truy cập từ trong nước đối với những trang mạng có nội dung xấu; thanh tra xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật trong ngăn chặn cung cấp thông tin xuyên tạc, sai sự thật; yêu cầu các doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ nước ngoài hợp tác thực hiện những yêu cầu xử lý thông tin vi phạm pháp luật từ Việt Nam.
Đối với các đối tượng hoạt động tuyên truyền chống Nhà nước, bôi nhọ, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm danh dự trên không gian mạng, Bộ Công an nhanh chóng củng cố hồ sơ, tài liệu, chứng cứ để đấu tranh và xử lý nghiêm các đối tượng vi phạm trước pháp luật. Các cơ quan chức năng cần nghiên cứu xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội dành cho các nhà cung cấp dịch vụ và người sử dụng mạng xã hội Việt Nam nhằm phát huy vai trò, thế mạnh của các doanh nghiệp và cộng đồng mạng trong việc chung tay với Nhà nước xây dựng một môi trường mạng xã hội lành mạnh, an toàn tại Việt Nam. Đây sẽ là bộ quy tắc khung cơ bản để các cơ quan, tổ chức, hiệp hội có liên quan có thể triển khai xây dựng bộ quy tắc ứng xử riêng mang tính đặc thù, chuyên ngành, phù hợp với các đối tượng điều chỉnh cụ thể.
Về kỹ thuật, công nghệ chúng ta sớm xây dựng một Trung tâm quốc gia về an toàn thông tin trên không gian mạng để giám sát đánh giá những thông tin sai lệch, độc hại trên không gian mạng. Sau đó, sử dụng các biện pháp kỹ thuật, làm việc với các nhà cung cấp dịch vụ trong và ngoài nước yêu cầu họ tuân thủ làm sao chúng ta có thể sàng lọc được những thông tin xấu độc, làm cho không gian mạng lành mạnh hơn trong thời gian tới./.
https://nhanvanviet.com

Luận điệu sai trái, thù địch xuyên tạc lịch sử


Gần đây, trên trang mạng “Danlambaovn”, kẻ có bút danh Ng. Dân đã đăng tải bài viết: “Đảng cướp!”. Nội dung bài viết, cố tình xuyên tạc, phủ nhận sự thật lịch sử, nhằm xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, gây hoang mang dao động trong quần chúng nhân dân
1. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng Việt Nam hoàn toàn không phải là sự tiếm quyền
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tồn tại, phát triển không vì mục đích tự thân mà vì độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Lãnh đạo toàn dân tộc vượt qua bao khó khăn, thử thách, đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, vững bước trên con đường đổi mới, xây dựng CNXH. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiền phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiền phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Mục tiêu, lý tưởng của Đảng ta là đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, xây dựng xã hội dân chủ, công bằng và văn minh, nhân dân được sống trong tự do, ấm no, hạnh phúc. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh, sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố có ý nghĩa quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam; ngoài lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, Đảng không có lợi ích nào khác. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam là sự lựa chọn của lịch sử và ý nguyện của nhân dân chứ hoàn toàn không như những luận điệu của các thế lực thù địch với mục đích chống phá Đảng, Nhà nước ta, xuyên tạc, bôi nhọ lịch sử của dân tộc, khi cho rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam là một đảng tiếm quyền….đưa đất nước, dân tộc qua bao thảm cảnh điêu linh, tang tóc”
2. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước đã đạt được nhiều kết quả, thành tựu to lớn
Cách đây hơn 70 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đây là một mốc son chói lọi, bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc ta. Thắng lợi vẻ vang của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là nguồn sức mạnh to lớn, là tiền đề quan trọng để dân tộc ta liên tiếp giành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến cứu nước vĩ đại, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Với thắng lợi này, cách mạng nước ta chuyển sang một giai đoạn mới, đưa nước ta trở thành một trong những nước đi tiên phong ở Đông Nam Á trong việc xây dựng chế độ mới – chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện hoài bão, ước mơ của bao thế hệ người Việt Nam yêu nước. Sau hơn 30 năm đổi mới, từ một nước nghèo, kém phát triển, bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, với chủ trương, đường lối đúng đắn, Đảng đã lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đưa Việt Nam vươn lên trở thành một quốc gia đang phát triển, tăng trưởng kinh tế bình quân đạt gần 7% năm. GDP tăng gấp gần 7 lần và kim ngạch xuất khẩu tăng gấp hơn 200 lần chạm ngưỡng 400 tỷ USD. …. Vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Những minh chứng trên đã đập tan luận điệu phản động cố tình xuyên tạc sự thật lịch sử với động cơ chia rẽ, phá hoại đoàn kết dân tộc, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và những thành tựu xây dựng đất nước của nhân dân ta trong bài viết của kẻ có bút danh là Ng. Dân
Tóm lại, những luận điệu trong bài viết đã bộc lộ bản chất phản động, thiếu khách quan, cố tình bóp méo sự thật, với mục đích chống phá Đảng và Nhà Nước ta. Chúng ta cần cảnh giác và kiên quyết vạch trần âm mưu, thủ đoạn chống phá hết sức thâm độc của Ng. Dân và các thế lực thù địch./.

https://nhanvanviet.com