Chủ Nhật, 18 tháng 8, 2019

“Phi chính trị hóa” Quân đội - một thủ đoạn không mới, nhưng phải luôn cảnh giác


“Phi chính trị hóa” Quân đội là một thủ đoạn nguy hiểm mà các thế lực thù địch thực hiện, nhằm vô hiệu hóa công cụ bạo lực để bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ ta. Tuy không mới, nhưng hết sức nguy hiểm, cần cảnh giác và chủ động có giải pháp phòng, chống hiệu quả.
Từ sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu (những năm 90, thế kỷ XX), cho thấy, một trong những nguyên nhân có ý nghĩa quyết định đến sự kiện đó là các thế lực thù địch đã thành công trong việc xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với quân đội - tức “phi chính trị hóa” quân đội.
Đối với Việt Nam, các thế lực thù địch xác định “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, liên tục. Thực tế cho thấy, từ những năm 90, thế kỷ XX, mưu đồ chống phá Quân đội của chúng đã hiện hữu; mục đích sâu xa là làm cho Quân đội xa rời sự lãnh đạo của Đảng, phân rã về tư tưởng, lỏng lẻo về tổ chức, mơ hồ về đối tượng, đối tác. Cán bộ, chiến sĩ xa rời mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, “chán Đảng, khô đoàn, xa rời chính trị”. Chúng đưa ra mô hình quân đội một số nước và viện dẫn “lý luận” để chứng minh quân đội không liên quan đến chính trị. Chúng lập luận rằng: Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; vì thế, Quân đội chỉ cần trung thành, bảo vệ lợi ích của nhân dân, không cần đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Các vấn đề liên quan đến quân sự, quốc phòng phải được nhân dân bàn bạc công khai và quyết định, thông qua diễn đàn Quốc hội. Lợi dụng chủ trương tinh giản biên chế, cơ cấu lại các doanh nghiệp quân đội, chúng ra sức xuyên tạc, chia rẽ, kích động, quy chụp,... cho đó là biểu hiện tham nhũng, lợi ích nhóm, đặc quyền, đặc lợi của một bộ phận cán bộ trong Quân đội. Đồng thời, lợi dụng những khó khăn về đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội để kích động, gây mâu thuẫn giữa lãnh đạo, chỉ huy với cán bộ, chiến sĩ, phá hoại khối đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Quân đội. Nguy hiểm hơn, chúng còn sử dụng in-tơ-net để tán phát những bài viết, clip, thổi phồng, xuyên tạc sự thật, khoét sâu mâu thuẫn,... nhằm kích động tư tưởng công thần, địa vị, bè phái, cục bộ địa phương, đòi hưởng thụ đãi ngộ; kêu gọi Quân đội ta từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, liên minh với quân đội một số nước để tiến lên hiện đại, trở thành quân đội “nhà nghề” như quân đội các nước tư bản, v.v.
Về bản chất, âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội của chúng là nhằm chuyển hướng chính trị của Quân đội ta từ quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân sang kiểu quân đội tư bản, nhà nghề do giai cấp tư sản lãnh đạo, phục vụ cho mục đích của giai cấp tư sản. Từ đó, làm cho Quân đội ta mất phương hướng chính trị, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiến hành các bước tiếp theo giống như kiểu: “Mùa xuân A-rập”, “Cách mạng Hoa hồng”, “Cách mạng Đường phố”, “Cách mạng Cam”,... mà chúng đã thành công ở hàng loạt nước trên thế giới. Bởi vậy, đề cao cảnh giác, chủ động nhận diện và đấu tranh, làm thất bại những thủ đoạn, nhất là những thủ đoạn mới của chúng vẫn là nhiệm vụ mang tính thời sự cấp bách, cần có hệ thống giải pháp phòng, chống đồng bộ, hiệu quả.
Thứ nhất, bất luận trong hoàn cảnh nào, Quân đội nhân dân Việt Nam cũng luôn phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là nguyên tắc bất biến, được rút ra từ thực tiễn lịch sử nhân loại và quá trình tổ chức, xây dựng Quân đội từ khi thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đến nay. Về bản chất, quân đội bao giờ cũng là công cụ bạo lực vũ trang của một giai cấp, một nhà nước nhất định. “Quân đội không thể và không nên trung lập. Không lôi kéo quân đội vào chính trị - đó là khẩu hiệu của bọn tôi tớ giả nhân giả nghĩa của giai cấp tư sản”1. Chính trị của Quân đội ta là chính trị của Đảng; mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng; hệ tư tưởng chính trị của Quân đội ta là hệ tư tưởng chính trị của Đảng, với nền tảng là chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Bản chất của Quân đội ta mang bản chất giai cấp công nhân; trong đó, tính nhân dân, tính dân tộc được biểu hiện hết sức sâu sắc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội ta đã cùng nhân dân đánh thắng những kẻ thù hùng mạnh nhất thế giới, lập nên những kỳ tích vĩ đại nhất trong lịch sử chiến tranh của nhân loại. Điều đó chứng tỏ: “Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục”2. Trong tình hình mới, sự chống phá của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta nói chung, Quân đội nói riêng ngày càng tinh vi, xảo quyệt, quyết liệt,... đòi hỏi toàn quân phải nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, giữ vững ổn định chính trị, không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Trong đó, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội là nhân tố quyết định giữ vững định hướng chính trị, bảo đảm cho Quân đội luôn trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; quyết định phương hướng xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; chủ động xử trí kịp thời, hiệu quả mọi tình huống, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.
Thứ hai, tăng cường xây dựng vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội. Đây là nội dung xuyên suốt từ khi ra đời, xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của Quân đội ta đến nay. Trong Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (tiền thân của Quân đội ta) tháng 12-1944, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Tên ĐỘI VIỆT NAM TUYÊN TRUYỀN GIẢI PHÓNG QUÂN nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự”3. Trước diễn biến phức tạp, khó lường của tình hình thế giới hiện nay và sự chống phá của các thế lực thù địch, yêu cầu đặt ra đối với xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức là phải luôn nắm vững, vận dụng sáng tạo những nguyên lý xây dựng quân đội kiểu mới của chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng: “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng; vững mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân”4. Theo đó, cấp ủy, chỉ huy các cấp trong toàn quân cần đặc biệt chú trọng nâng cao chất lượng hoạt động công tác đảng, công tác chính trị; thực hiện tốt Đề án “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới”; tăng cường giáo dục truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm của dân tộc; truyền thống lịch sử của Quân đội, đơn vị; nâng cao ý chí quyết tâm bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân trong tình hình mới. Thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, gắn với Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, phong trào Thi đua Quyết thắng và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”. Thường xuyên nắm chắc diễn biến tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ, bảo đảm chất lượng công tác phát triển đảng viên, đoàn viên; xây dựng tổ chức đảng và các tổ chức quần chúng vững mạnh, nhạy bén về chính trị, kịp thời ngăn chặn sự thẩm thấu, xâm nhập của các luận điệu “phi chính trị hóa” Quân đội.
Thứ ba, tiếp tục xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam thực sự “tinh, gọn, mạnh, linh hoạt”. Cụ thể hóa Nghị quyết Trung ương 6 (khóa XII) “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã và đang triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp điều chỉnh tổ chức lực lượng Quân đội theo hướng “tinh, gọn, mạnh, linh hoạt”, phù hợp xu hướng phát triển quân sự trên thế giới và sự tác động của cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư hiện nay. Tập trung xây dựng Quân đội vững mạnh về mọi mặt, không những giỏi đấu tranh vũ trang, mà còn giỏi trong đấu tranh phi vũ trang và tác chiến trên không gian mạng,... đáp ứng yêu cầu “giữ nước từ khi nước chưa nguy”; “ngăn ngừa, loại bỏ các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa”; làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” của các thế lực thù địch. Cấp ủy, chỉ huy các cấp cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc, quyết liệt quan điểm của Đảng và Quân ủy Trung ương về xây dựng Quân đội trong tình hình mới; bảo đảm quân số hợp lý, chất lượng cao, đồng bộ về tổ chức, biên chế, thành phần lực lượng. Kết hợp giữa công tác tư tưởng với công tác tổ chức và công tác chính sách; quản lý chặt chẽ tình hình nội bộ, nhất là các tiêu chí: phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực,... khi tuyển dụng cán bộ, nhân viên, chiến sĩ vào các cơ quan, đơn vị.
Thứ tư, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ, xây dựng môi trường văn hoá quân sự lành mạnh. Thực tiễn cho thấy, nếu điều kiện đời sống vật chất, tinh thần và môi trường văn hóa quân sự đáp ứng tốt nhu cầu chính đáng của cán bộ, chiến sĩ sẽ thường xuyên tác động đến mọi mặt hoạt động, giúp bộ đội yên tâm công tác, lạc quan, tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Qua đó, tạo sự “miễn dịch”, tăng sức “đề kháng” phòng ngừa sự tác động, xâm nhập của mặt trái xã hội vào môi trường Quân đội, góp phần phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm thất bại thủ đoạn “phi chính trị hóa” Quân đội. Để làm được điều đó, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan đơn vị cần thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở cơ sở, tổ chức tốt việc bảo đảm đúng, đủ, kịp thời mọi chế độ, tiêu chuẩn theo quy định về đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội. Tích cực xây dựng môi trường tập thể quân nhân lành mạnh, đảm bảo mỗi cơ quan, đơn vị thực sự là một điểm sáng văn hoá, nơi giáo dục, rèn luyện cán bộ, chiến sĩ thành con người mới, cùng chung lý tưởng cách mạng, mục tiêu phấn đấu và hiệu quả công tác. Mọi hoạt động liên quan đến quyền lợi của cán bộ, chiến sĩ phải được công khai và thực hiện nghiêm túc. Động viên bộ đội tích cực tăng gia sản xuất, cải thiện đời sống; tổ chức tốt các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, giao lưu, kết nghĩa, làm công tác dân vận, quan tâm đúng mức đến gia đình quân nhân và giải quyết tốt chính sách hậu phương Quân đội.
Thường xuyên nêu cao cảnh giác, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” Quân đội là vấn đề trọng yếu hiện nay, quyết định đến việc giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống của Quân đội ta, bảo đảm cho Quân đội luôn trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Đó là trách nhiệm của mọi cán bộ, chiến sĩ, trước hết thuộc về cấp ủy, chỉ huy các cấp trong toàn quân.
          Nguồn: tapchiqptd.vn
1 - V.I. Lê-nin - Toàn tập, Tập 12, Nxb Tiến Bộ, M. 1979, tr. 136.
2 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 14, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 435.
3 - Sđd, Tập 3, tr. 539.
4 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 149.


Chủ động bảo vệ chủ nghĩa Mác


Bảo vệ chủ nghĩa Mác là đấu tranh để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Cuộc đấu tranh đó, đòi hỏi phải được tiến hành chủ động, đồng bộ, bằng nhiều giải pháp phù hợp.
Chủ nghĩa Mác bao gồm ba bộ phận hợp thành: Triết học, Kinh tế chính trị học và Chủ nghĩa xã hội khoa học. Kế thừa và phát triển sáng tạo những thành tựu tư tưởng của loài người về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội1, được bổ sung bằng thực tiễn của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, chủ nghĩa Mác xuất hiện trên vũ đài chính trị thế giới với tư cách là một học thuyết khoa học, cách mạng và nhân văn, chứ không phải là sản phẩm của “sự tư biện chủ quan”, hay xuất phát từ “những ảo giác”, như những kẻ chống cộng xuyên tạc.
Bằng hai phát kiến vĩ đại: chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, chủ nghĩa Mác đã làm cho lý luận chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học. Với hạt nhân là phép biện chứng duy vật, chủ nghĩa Mác đã lý giải một cách khoa học và sâu sắc quy luật vận động, phát triển của xã hội loài người; khẳng định sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa cộng sản là xu thế tất yếu; đồng thời, phát hiện ra sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh để hiện thực hóa xu thế đó. Với bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn, chủ nghĩa Mác đã trang bị cho giai cấp vô sản, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới vũ khí tư tưởng, lý luận sắc bén để đấu tranh xóa bỏ sự thống trị của chế độ tư bản chủ nghĩa, tiến lên xây dựng một chế độ xã hội do nhân dân lao động làm chủ. Dưới ánh sáng dẫn đường của chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội hiện thực trong thế kỷ XX, khởi đầu từ Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga, sau đó là sự ra đời hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, châu Á, châu Mỹ và phong trào giải phóng dân tộc theo xu hướng xã hội chủ nghĩa, đã làm thay đổi bộ mặt của thế giới đương đại, chấm dứt sự độc quyền thống trị của chủ nghĩa tư bản trên trái đất.
Từ khi xuất hiện đến nay, chủ nghĩa Mác liên tục phải đấu tranh với sự phê phán, phủ nhận, xuyên tạc dưới nhiều hình thức của các thế lực chống cộng và của mọi khuynh hướng tư tưởng, lý luận phi xã hội chủ nghĩa; bởi, chủ nghĩa Mác đụng chạm đến một tín điều bất khả xâm phạm của giai cấp tư sản là chế độ tư hữu. Cũng qua quá trình đấu tranh đó, chủ nghĩa Mác khẳng định bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn của mình; trở thành nền tảng tư tưởng của các đảng cộng sản và công nhân chân chính trong cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, bất công.
Cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận nhằm bảo vệ chủ nghĩa Mác không chỉ là tất yếu mà còn trở nên cấp bách trong điều kiện hiện nay; nhất là khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa đế quốc ráo riết thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, chống phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở những nước còn lại, mà Việt Nam là một trọng điểm. Để thực hiện chiến lược đó, họ sử dụng bộ máy thông tin tuyên truyền khổng lồ gồm hàng chục đài phát thanh, hàng trăm tạp chí và tờ báo để xuyên tạc bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn, cũng như sức sống của chủ nghĩa Mác. Họ cho rằng: “Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tan rã vào cuối thế kỷ XX đã minh chứng cho sự cáo chung của chủ nghĩa Mác”(!) Vin vào một số khuyết điểm, sai lầm trong quá trình lãnh đạo cách mạng của các đảng cộng sản cầm quyền; sự tha hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên cộng sản, họ cho rằng “Chủ nghĩa Mác là một giải pháp sai, độc hại” và  “Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin làm nền tảng tư tưởng là sai lầm”(!) Được sự hậu thuẫn của các thế lực phản động bên ngoài, các phần tử cơ hội chính trị, chống đối ở trong nước cũng ra sức tung hứng những luận điệu sai trái, hòng hạ bệ chủ nghĩa Mác, xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Họ đòi xét lại những nguyên lý cơ bản có tính chất thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác, như: lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp, lý luận giá trị lao động, học thuyết giá trị thặng dư, học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội,… với lý do: “Chủ nghĩa Mác ra đời từ cuối thế kỷ XIX, nên không còn phù hợp với bối cảnh toàn cầu hóa của thế kỷ XXI”(!) Từ đây, họ kêu gọi Đảng Cộng sản Việt Nam hãy “thoát khỏi cái vòng kim cô ý thức hệ” để chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập (!)
Đây là một thủ đoạn rất tinh vi, thâm độc của các thế lực thù địch, nhằm tạo ra khoảng trống ý thức hệ trong cán bộ, đảng viên của Đảng, cũng như trong toàn xã hội, để từ đó thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng và trong xã hội, tiến tới làm tan rã Đảng Cộng sản, đưa đất nước đi theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Đáng tiếc là, trước những thủ đoạn đó cùng với những tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường và quá trình hội nhập quốc tế, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân ta đã tin vào những luận điệu sai trái nói trên, để từ sự dao động về tư tưởng, mà tích cực cổ súy cho những luận điệu chống đối.
Trước tình hình ấy, cần “chủ động tiến công, triển khai có hiệu quả cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình”, âm mưu bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch”2. Đồng thời, phải “triển khai đồng bộ, chủ động cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, phản bác các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, vu cáo, chống phá Đảng, Nhà nước ta…”3. Để thực hiện các chủ trương trên, Ban Bí thư đã lập ra một số ban chỉ đạo làm đầu mối chỉ đạo cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên từng lĩnh vực.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận những năm qua đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng; củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, “Chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận chưa cao. Chậm khắc phục có hiệu quả những hạn chế của công tác tư tưởng như thiếu sắc bén, chưa thuyết phục. Đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” còn bị động, hiệu quả chưa cao. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới”4. Trong thực tiễn, công tác giáo dục lý tưởng cách mạng còn chung chung, sáo mòn, thiếu chiều sâu và tính bền vững, làm cho “tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn”5. Một bộ phận cán bộ, đảng viên do hạn chế về trình độ lý luận và bản lĩnh chính trị tỏ ra lúng túng, không đủ khả năng phân tích, phê phán các quan điểm sai trái để định hướng tư tưởng cho chính mình và cho quần chúng; một số khác lại né tránh đấu tranh. Sau 30 năm đổi mới đất nước, “Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ được một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước”6. Hoạt động nghiên cứu cơ bản các bộ môn lý luận Mác – Lê-nin chưa có nhiều đóng góp xứng đáng để cùng toàn Đảng giải đáp kịp thời những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong điều kiện mới, v.v. Vì thế, công tác này chưa đáp ứng được yêu cầu cao của cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Những hạn chế đó, có nguyên nhân khách quan từ sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới và từ nhiều vấn đề mới nảy sinh trong công cuộc đổi mới chưa đủ thời gian để tổng kết và khái quát thành lý luận. Song, một trong những nguyên nhân chủ quan là do chúng ta chưa thật chủ động đấu tranh; trong nhiều trường hợp, việc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch còn thụ động, phê phán theo kiểu áp đặt, nên thiếu tính thuyết phục. Bởi vậy, một vấn đề vừa cơ bản, lâu dài và vừa cấp bách hiện nay trong công tác tư tưởng, lý luận là kết hợp chặt chẽ các biện pháp “xây” và “chống”; trong đó, phải hết sức chủ động đấu tranh chống lại âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch hòng phủ nhận bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn của chủ nghĩa Mác.
Để bảo vệ chủ nghĩa Mác trong thời gian tới, phải chủ động triển khai đồng bộ nhiều nội dung, giải pháp; trong đó, tập trung vào một số vấn đề sau:
Một là, các cơ quan, đơn vị, tổ chức đảng trong toàn bộ hệ thống chính trị cần tiếp tục quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng liên quan đến công tác tư tưởng, lý luận và đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa; trọng tâm là Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) “Về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới”, Chỉ thị 34, ngày 25-6-2009 của Ban Bí thư “Về tăng cường cuộc đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa”, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Trên cơ sở đó, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của mọi cán bộ, đảng viên, nhất là trong các cơ quan nghiên cứu, các học viện, nhà trường và các phóng viên, biên tập viên của các cơ quan báo chí đối với nhiệm vụ đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, bảo vệ bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn của chủ nghĩa Mác. Các cơ quan, đơn vị, tổ chức cần thống nhất nhận thức về vị trí, vai trò của cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận hiện nay là đấu tranh bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng, quan điểm, đường lối của Đảng; củng cố vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong xã hội; tăng cường khả năng “miễn dịch” cho cán bộ, đảng viên, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Hai là, cần coi trọng hơn nữa công tác nghiên cứu cơ bản các môn lý luận Mác – Lê-nin trong các nhà trường, các trung tâm nghiên cứu, để việc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch có chỗ dựa vững chắc về lý luận và tăng sức thuyết phục. Các hoạt động nghiên cứu cơ bản cần làm rõ trong chủ nghĩa Mác – Lê-nin những luận điểm còn giữ nguyên giá trị, những luận điểm cần nhận thức lại cho đúng và những luận điểm cần phát triển cho phù hợp với bối cảnh lịch sử mới. Trong đó, tập trung vào những vấn đề lý luận đang nổi cộm, những vấn đề lý luận và thực tiễn chưa có sự trùng khớp và đó cũng là những vấn đề bức xúc mà thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đang đặt ra. Đồng thời, chống lại các khuynh hướng đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lê-nin, hòng phủ nhận vai trò của cả chủ nghĩa Mác – Lê-nin lẫn tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam.
Ba là, tích cực đổi mới và nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, bồi dưỡng lý luận Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết trong hệ thống nhà trường, cho đội ngũ cán bộ chủ chốt; đảm bảo việc học tập các bộ môn Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh được tiến hành một cách thực chất, để người học nắm được bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn trong những nguyên lý cơ bản, làm cơ sở xem xét, phân tích, đánh giá các vấn đề chính trị, xã hội diễn ra trong đời sống hiện thực. Do vậy, cấp ủy các cấp cần thực hiện nghiêm túc “kế hoạch học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận bắt buộc hằng năm đối với cán bộ, đảng viên gắn với việc cung cấp thông tin, cập nhật kiến thức mới phù hợp với từng đối tượng, từng cấp, từng ngành, từng địa phương”7. Quá trình giảng dạy, cần kết hợp làm sáng tỏ bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh với sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng; tăng cường đối thoại, tránh áp đặt một chiều.
Bốn là, không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Chỉ đạo 94 các cấp. Theo đó, các ban chỉ đạo cần chủ động củng cố, kiện toàn thành phần và nâng cao trách nhiệm của các thành viên ban chỉ đạo; tích cực, chủ động duy trì hoạt động đấu tranh, nhất là đấu tranh trên không gian mạng. Ban Chỉ đạo Trung ương 94 cần thường xuyên kiểm tra các ban chỉ đạo cấp dưới về tổ chức thực hiện đấu tranh tư tưởng, lý luận trên cả hai phương diện “xây” và “chống”; có cơ chế cung cấp thông tin và định hướng kịp thời cho các ban chỉ đạo cấp dưới và các cơ quan báo chí trước những vấn đề “nóng” mà xã hội quan tâm.
Năm là, coi trọng xây dựng lực lượng nòng cốt để chủ động đấu tranh bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tập trung vào đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị, khoa học xã hội và nhân văn; cán bộ hoạt động trên các lĩnh vực báo chí, xuất bản, văn hóa, nghệ thuật. Theo đó, cần lựa chọn những cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ lý luận chính trị và khả năng diễn đạt các vấn đề cần đấu tranh,… để động viên, khích lệ họ chủ động tham gia đấu tranh chống các quan điểm sai trái, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Để phát huy vai trò của lực lượng này, phải có cơ chế cung cấp thông tin kịp thời, phương tiện tác nghiệp phù hợp và có những chính sách hợp lý.
Tiến hành đồng bộ các giải pháp nói trên, cùng với thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa trong thực tiễn sẽ là phương thức bảo vệ có hiệu quả bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn của chủ nghĩa Mác trong bối cảnh hiện nay.
____________
1 - Gồm: Thuyết Tiến hóa của Đác-Uyn, Triết học cổ điển Đức, Kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh và Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
2 - ĐCSVN - Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb. CTQG, H. 2002, tr. 137.
3 - Sđd, tr. 45.
4 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H. 2016, tr. 192 -193.
5 - ĐCSVN - Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H. 2016, tr.22.
6 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H. 2016, tr. 67.
7 - ĐCSVN - Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H. 2016, tr. 36-37.
                                                                            NGUỒN: tapchiqptd.vn

Bảo vệ độc lập dân tộc - gốc rễ là bảo vệ bản sắc văn hóa


Tròn 590 năm (1428) về trước, trong áng thiên cổ hùng văn “Bình ngô đại cáo” của Đại thi hào dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi đã khẳng định: Như nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn hiến đã lâu. Cách nay 230 năm (1788-2018), Hoàng đế Quang Trung-Nguyễn Huệ đọc lời hịch đánh giặc giữ nước, trong đó có nội dung tuyên thệ bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc: Đánh cho để dài tóc/ Đánh cho để đen răng/… Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ.
Ra đời cách đây 75 năm, bản “Đề cương văn hóa 1943” của Đảng ta lần đầu tiên nêu rõ văn hóa Việt Nam được xây dựng trên cơ sở ba nguyên tắc: Dân tộc, đại chúng, khoa học. Tròn 20 năm trước (1998), Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII của Đảng đã nhấn mạnh quan điểm: “Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
Tuy diễn đạt khác nhau, song từ những lời tiền nhân chỉ dẫn đến quan điểm của Đảng đều khẳng định một vấn đề hệ trọng liên quan đến sự tồn vong của dân tộc: Muốn bảo vệ độc lập dân tộc, cần phải coi nhiệm vụ bảo vệ bản sắc văn hóa là gốc rễ.   
Bài 1: Dân tộc trường tồn nhờ “dây neo” văn hóa
Trải qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, trong đó lịch sử giữ nước chiếm phần lớn thời gian của tiến trình dân tộc đã cho chúng ta một chân lý: Nước có thể mất, nhà có thể tan, nhưng nhất định không thể để mất tổ tiên, gia phả, dòng họ, không thể mất phong tục, tập quán của ông cha để lại. Lịch sử Việt đã đúc kết rằng, sức sống bền bỉ, trường tồn, mãnh liệt của dân tộc Việt chủ yếu bắt nguồn từ “sức mạnh mềm”, tức là từ văn hóa của con người Việt Nam.
Từ ý chí giữ gìn tâm thức văn hóa dân tộc trong hoàn cảnh ngặt nghèo nhất
Ít có dân tộc nào trên thế giới có đặc điểm lịch sử như dân tộc Việt Nam. Theo sử liệu ghi chép lại, nếu tính từ cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tần vào khoảng cuối thế kỷ thứ III trước công nguyên đến nay, trong 22 thế kỷ qua, dân tộc Việt đã phải trực tiếp kháng chiến trong 13 thế kỷ, trong đó có gần 100 cuộc khởi nghĩa quy mô lớn và hơn 10 cuộc kháng chiến để bảo vệ núi sông bờ cõi. Như vậy, trong tiến trình lịch sử, dân tộc ta đã dành tới gần 60% thời gian để thực hiện nhiệm vụ đấu tranh giữ nước, bảo vệ chủ quyền độc lập dân tộc.
Từ trong tiềm thức sâu xa, người Việt luôn có tâm thế, ý thức bảo vệ những giá trị truyền thống lịch sử và bản sắc văn hóa của cộng đồng dân tộc mình, nhất là mang mặc, sinh hoạt, nếp sống, nghi lễ gắn liền với nghề nông và cộng đồng làng xã. Lịch sử ghi lại rằng, dưới thời Bắc thuộc cả nghìn năm, nhưng người Việt đã nỗ lực tìm mọi cách để lưu giữ, trao truyền cho nhau phong tục, tập quán, lối sống của tổ tiên, từ tục nhuộm răng, ăn trầu, đóng khố, mặc váy, đến “việc hôn nhân lấy gói đất làm đầu” và chôn người chết trong các thân cây khoét rỗng hình thuyền độc mộc.
Theo GS sử học Lê Văn Lan, tổ tiên, ông cha ta giành được thắng lợi chống đồng hóa không phải bằng đấu tranh vũ trang, mà chủ yếu bằng tài trí. Đó là giữ được sự khác biệt về văn hóa, về chủng tộc, về ngôn ngữ, đặc biệc là giữ được ý thức tự chủ “có thể mất nước nhưng không thể mất làng”. Hàm ý triết lý này là dù chủ quyền lãnh thổ quốc gia bị kẻ thù xâm lược, thôn tính, nhưng “hồn cốt” của quốc gia dân tộc nhất quyết không thể bị đánh đổi, hòa tan. Vì làng xã không chỉ là nơi cố kết cộng đồng dân cư, mà chính là nơi hội tụ, bảo tồn, lưu giữ những tâm thức văn hóa của tổ tiên, ông cha đã để lại. Bởi thế, từng có thời kỳ nghìn năm bị kẻ thống trị thực hiện chính sách “cưỡng bức văn hóa” nhằm bài trừ tận gốc phong tục, tập quán, nhưng ông cha ta đã kiên cường bám làng, thề nguyền sống chết với làng, tìm mọi cách để cất giấu, lưu giữ những gia phả, nghi thức, nghi lễ, luật lệ của làng, cương quyết không để cho kẻ thống trị cướp phá, tẩu tán, tiêu tan những di sản quý báu đó của quê hương.
Như vậy, từ trong những hoàn cảnh lịch sử tối tăm nhất tưởng như không có đường ra, tổ tiên, ông cha ta vẫn tìm ra lối thoát cho chính mình. Đó là muốn giữ được quê cha đất tổ lâu dài, muốn cho tổ tiên không bị mất gốc thì không bao giờ được phép lãng quên và làm “đứt gãy” mạch nguồn văn hóa được người Việt vun trồng, bồi đắp, trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bài học về sự kiên trì, ý chí kiên quyết bảo vệ các giá trị văn hóa đã làm nên căn tính, cốt cách dân tộc cách nay cả ngàn năm chưa bao giờ mất đi ý nghĩa của nó, mà vẫn còn sức sống mãnh liệt đến hôm nay và mai sau.
Đến những lời tuyên bố đanh thép của tiền nhân về nền văn hiến Việt và bảo vệ văn hóa Việt
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, các bậc danh nhân văn hóa, anh hùng xuất chúng của dân tộc ta luôn có ý thức, tầm nhìn sâu sắc về bảo vệ cội nguồn văn hóa của ông cha.
Trong bài thơ thần “Nam quốc sơn hà” được coi là của Lý Thường Kiệt, lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, vấn đề độc lập chủ quyền lãnh thổ của dân tộc được khẳng định: Nam quốc sơn hà Nam đế cư/ Tiệt nhiên định phận tại thiên thư (Sông núi nước Nam vua Nam ở/ Rành rành định phận ở sách trời). Được coi như bản tuyên ngôn độc lập chủ quyền đầu tiên của nước Đại Việt trong thế kỷ XI, dù chưa đề cập tới yếu tố văn hóa, nhưng từ trong 4 chữ “Nam quốc sơn hà” (sông núi nước Nam) đã toát lên niềm kiêu hãnh thiêng liêng, niềm tự hào sâu sắc đối với mỗi con dân Đại Việt. Đó có thể gọi là một thông điệp đầy chất văn hóa vì nó đã khơi gợi trong tâm khảm sâu xa nhất của người dân Đại Việt về bổn phận gìn giữ giang sơn bờ cõi nước nhà.
Sang thế kỷ XV, sau khi đánh tan giặc Minh xâm lược, thay mặt vương triều nhà Lê và muôn dân Đại Việt, năm 1428, Nguyễn Trãi đã viết bản “Bình Ngô đại cáo” bất hủ, trong đó lời mở đầu có những câu tuyên bố hùng hồn về chủ quyền văn hóa của nước ta: Như nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn hiến đã lâu/ Núi sông bờ cõi đã chia/ Phong tục Bắc Nam cũng khác. 
Như vậy, nước Đại Việt không chỉ có chủ quyền độc lập về lãnh thổ, mà còn có một nền văn hiến rất lâu đời. Nền văn hiến ấy không phải ngẫu nhiên mà có, mà đó là công sức, trí tuệ, mồ hôi và cả biết bao xương máu của các thế hệ người Việt đã tưới và thấm vào cho “cây độc lập” nước nhà được nảy nở, sinh trưởng trên gốc rễ văn hóa dân tộc.
Kế thừa lời tiền nhân, ý thức về bảo vệ nền văn hóa dân tộc tiếp tục có bước phát triển mới khi lần đầu tiên, quan niệm về giữ gìn phong tục, tập quán của ông cha để lại đã được người anh hùng áo vải cờ đào Quang Trung-Nguyễn Huệ nêu ra trong thế kỷ XVIII. Cách nay 230 năm, ngày 22-12-1788, trước khi chỉ huy nghĩa quân Tây Sơn hành quân ra Bắc đánh đuổi quân xâm lược, Hoàng đế Quang Trung-Nguyễn Huệ khảng khái tuyên thệ: Đánh cho để dài tóc/ Đánh cho để đen răng/ Đánh cho nó chích luân bất phản/ Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn/ Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ.
Theo Thiếu tướng, PGS, TS Vũ Quang Đạo, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, lời hịch trên của Quang Trung-Nguyễn Huệ thể hiện 3 nội dung rõ ràng: Đánh cho để dài tóc/ Đánh cho để răng đen nhằm mục tiêu bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc; Đánh cho nó chích luân bất phản/ Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn nhằm mục tiêu thắng lợi về mặt quân sự; Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ nhằm mục tiêu chính trị là giành lấy lại vị thế nước Nam đã có chủ.
Không ngẫu nhiên mà Hoàng đế Quang Trung-Nguyễn Huệ đặt mục tiêu bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc lên trước mục tiêu thắng lợi quân sự và mục tiêu giành lại vị thế chính trị của đất nước. Vì “răng đen, tóc dài” không đơn thuần chỉ là những bộ phận trên cơ thể của người Việt xưa, mà hơn thế, đó là hình ảnh thân thương của đồng bào ta, là phong tục, tập quán, là diện mạo văn hóa truyền thống bao đời của dân tộc Việt. Nhìn từ góc độ văn hóa quân sự, lời hịch Đánh cho để dài tóc/ Đánh để cho đen răng thực chất là lời quyết chiến, quyết đánh đuổi quân xâm lược đến cùng để bảo toàn những giá trị gốc gác của người Việt, của linh hồn văn hóa truyền thống Việt. Lời hịch ấy của Hoàng đế Quang Trung-Nguyễn Huệ góp phần thức tỉnh tâm can, lay động lòng người, vì thế đã quy tụ, lôi cuốn được muôn dân đồng tâm hiệp lực thành một sức mạnh phi thường để đánh tan 29 vạn quân xâm lược Thanh trong mùa Xuân Kỷ Dậu 1789, làm nên một trận đại thắng Ngọc Hồi-Đống Đa lẫy lừng trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Có thể khẳng định rằng, từ buổi bình minh của lịch sử, qua thời kỳ một nghìn năm Bắc thuộc và đến thời kỳ phong kiến vừa độc lập, vừa đấu tranh giành lại chủ quyền lãnh thổ của đất nước, dân tộc ta, người Việt ta ngày càng ý thức, nhận thức rõ ràng, sâu sắc hơn về giá trị bất biến của văn hóa dân tộc, từ đó không ngừng tìm ra những cách thức, biện pháp sáng tạo, linh hoạt, phù hợp với từng thời kỳ, giai đoạn lịch sử để cương quyết giữ gìn, bảo vệ bằng được những giá trị phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa do chính mình tạo dựng, bồi đắp nên. Đây là cơ sở, là tiền đề quan trọng hàng đầu để nước Việt có thể vượt qua mọi phong ba bão táp của thời cuộc, vượt qua mọi sự thử thách khốc liệt của chiến tranh để tiếp tục sinh tồn, tiếp tục khẳng định dân tộc Việt Nam có đủ tư cách là một quốc gia có chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và có nền văn hóa lâu đời đã sinh sôi, nảy nở tốt tươi trên chính mảnh đất thiêng liêng ấy.
Nguồn: www.qdnd.vn

Hồ Chí Minh - tấm gương đạo đức sáng ngời


Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng mác-xít sáng tạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX. Tư tưởng của Người không chỉ là sự vận dụng mà còn phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam, phản ánh tinh thần thời đại, xu thế vận động và phát triển của thế giới hiện đại và đương đại.
1. Tấm gương đạo đức trong chỉnh thể tư tưởng - đạo đức và phong cách của Hồ Chí Minh. Tư tưởng của Người hợp thành một hệ thống các quan điểm, nguyên tắc và phương pháp ở tầm chiến lược và sách lược về cách mạng và con đường cách mạng Việt Nam. Đó là cách mạng giải phóng dân tộc, chống đế quốc thực dân và phong kiến, xóa bỏ ách áp bức, bóc lột và nô dịch của chúng, giành lại độc lập cho Tổ quốc, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho đồng bào mình và cho các dân tộc đang bị đế quốc thực dân thống trị. Khát vọng tự do và quyền làm chủ của nhân dân trong một xã hội công bằng, bình đẳng, dân chủ với thể chế pháp quyền là một trong những điểm nổi bật, nhất quán của tư tưởng Hồ Chí Minh. Động cơ thúc đẩy Người hành động không mệt mỏi để thực hiện, là: lòng yêu nước, thương dân vô hạn. Suốt đời, Người phấn đấu và theo đuổi hệ giá trị Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Đó là những giá trị cốt yếu của phát triển. Chủ nghĩa Mác – Lê-nin, Cách mạng Tháng Mười Nga và thời đại được Người giác ngộ, đem lại cho Người niềm tin khoa học và lập trường cách mạng kiên định, đó cũng là nguồn sáng chiếu rọi cuộc hành trình tư tưởng - lý luận và tranh đấu trong thực tiễn của Người trên “Đường cách mệnh”1. Bởi thế, với Hồ Chí Minh: giải phóng là điều kiện, tiền đề của phát triển, giải phóng dân tộc để phát triển dân tộc, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đặt giải phóng dân tộc lên hàng đầu, trên lập trường của giai cấp công nhân; đặt cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ đạo của cách mạng kiểu mới - cách mạng vô sản, do Đảng kiểu mới - Đảng Cộng sản cách mạng chân chính lãnh đạo; xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, từng bước quá độ tới chủ nghĩa xã hội, đó là sự lựa chọn của Hồ Chí Minh và là chủ kiến, chủ thuyết phát triển của Người2.
Với Hồ Chí Minh, cách mệnh là phá cái cũ lỗi thời, lạc hậu đổi ra cái mới tiến bộ, phát triển. Cách mệnh trước hết phải có Đảng. Đảng phải có chủ nghĩa làm cốt. Đảng không có chủ nghĩa giống như người không có trí khôn. Chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lê-nin (Mác – Lê-nin). Người cách mệnh, Đảng cách mệnh phải giác ngộ, phải theo đuổi chủ nghĩa đó đến cùng. Cách mệnh do Đảng lãnh đạo phải có lực lượng, Công - Nông là gốc của cách mệnh, phải đoàn kết toàn dân thành lực lượng to lớn thì cách mệnh mới thành công. Đoàn kết là một tư tưởng chiến lược, nổi bật, xuyên suốt đường lối và phương pháp cách mạng của Hồ Chí Minh. Theo Người, thắng lợi của cách mạng không chỉ dựa vào thiên thời, địa lợi mà quan trọng, quyết định nhất là nhân hòa, cho nên mọi quyết sách, việc làm và hành động phải thuận lòng dân, hợp với ý nguyện của dân, không làm điều gì trái ý dân. “Vì dân” là mục đích của cách mạng, là lẽ sống của người cách mạng. Việc gì có lợi cho dân thì quyết làm cho bằng được. Việc gì có hại tới dân phải quyết tránh cho bằng được. Phục vụ nhân dân là phục tùng chân lý cao nhất. Suốt đời làm công bộc tận tụy, làm đầy tớ trung thành của nhân dân là lựa chọn lẽ sống cao thượng nhất.
Là một điển hình mẫu mực của sự nhất quán giữa nhận thức và hành động, giữa nói và làm, đã nói là làm và sống theo phương châm: nói ít làm nhiều, chủ yếu là hành động, Hồ Chí Minh trở thành biểu tượng kiệt xuất về một lãnh tụ của dân, suốt đời vì dân, gắn bó máu thịt với dân, dấn thân và dâng hiến cả đời mình trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do và hạnh phúc của dân tộc và nhân dân. Tận trung với Nước, tận hiếu với Dân để tận hiến, dâng hiến cả cuộc đời và sự nghiệp cho dân tộc, cho cả nhân loại. Đó là sự cao thượng, vĩ đại của Hồ Chí Minh. Bởi thế, Người sống mãi trong lòng dân và trong trái tim nhân loại. Không một chút riêng tư, Người suốt đời đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, kẻ thù nguy hiểm nhất; thứ “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng”, làm hư hỏng không ít người cách mạng, làm suy yếu Đảng như thực tế đã xảy ra, làm cho dân mất niềm tin, kết cục là thất bại và đổ vỡ. Bài học đau đớn, phải trả giá đắt ở Liên Xô, Đông Âu cách đây 1/4 thế kỷ vẫn còn nguyên tính thời sự và ý nghĩa cảnh báo. Điều đó cho thấy đạo đức cách mạng của người cách mạng, của Đảng cách mạng, nhất là khi Đảng đã cầm quyền quan trọng biết nhường nào. Qua đó, thấy được sự mẫn cảm đặc biệt, tầm nhìn xa trông rộng của Hồ Chí Minh về vấn đề hệ trọng này.
Năm 1927, khi viết tác phẩm “Đường cách mệnh” - đặt nền móng tư tưởng lý luận, đồng thời chuẩn bị về chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng, Người đã đặt lên hàng đầu vấn đề “Tư cách của người cách mệnh”, trong đó nổi bật yêu cầu “phải giữ chủ nghĩa cho vững”, “phải ít lòng tham muốn về vật chất”. Di chúc để lại cho đồng bào, đồng chí trước lúc đi xa, Người căn dặn “Trước hết nói về Đảng”, phải: giữ gìn đoàn kết thống nhất như giữ gìn con ngươi của mắt mình; ra sức thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng; thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, thật sự xứng đáng là người lãnh đạo và người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Người còn căn dặn “đầu tiên là công việc với con người”, Đảng và Chính phủ phải có kế hoạch và chính sách thật cụ thể, đúng đắn để chăm lo đời sống của dân, miễn thuế nông nghiệp cho bà con nông dân, giáo dục truyền thống dân tộc và cách mạng, chăm lo cuộc sống cho các gia đình chính sách, những người có công với nước, quan tâm tới sự tiến bộ, trưởng thành của phụ nữ, thanh niên, v.v. Tình thương yêu của Người dành cho tất cả mọi người, mọi cảnh đời, mọi số phận, không sót một ai. Nhân ái - Vị tha - Bao dung là những đặc trưng nổi bật của đạo đức, nhân cách Hồ Chí Minh, hiện thân sinh động và cảm động nhất về một “Con Người lý tưởng”, hài hòa Chân - Thiện - Mỹ, kết tinh và thăng hoa những phẩm chất tốt đẹp nhất của dân tộc Việt Nam hòa quyện với tinh hoa văn hóa nhân loại và tinh thần thời đại.
2. Tấm gương đạo đức sáng ngời trong cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh. Trong cuộc hành trình 30 năm tìm đườngnhận đường và chọn đường đi cho sự phát triển của dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã giác ngộ chủ nghĩa Mác, đã đến với nguồn sáng Lê-nin, tìm thấy trong “Luận cương về quyền tự quyết của các dân tộc” do V.I. Lê-nin khởi thảo con đường mà bấy lâu nay Người vẫn hằng mong mỏi tìm kiếm. Người đã nhận thấy chân lý, nhận ra “con đường giải phóng” - “con đường cứu sống chúng ta”, “cái cẩm nang chỉ dẫn hành động”. Ánh sáng từ Mác – Lê-nin đến Cách mạng Tháng Mười Nga và thời đại mới đã tạo nên bước ngoặt trong cuộc hành trình lịch sử của Người. Từ một người yêu nước, thương dân vô hạn, với tinh thần dân tộc sâu sắc, Nguyễn Ái Quốc trở thành một người cộng sản, thấm nhuần lý tưởng cộng sản và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, suốt đời tranh đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp vĩ đại ấy thúc đẩy Người dấn thân và hy sinh, một lòng một dạ vì sự nghiệp cách mạng, mà sâu xa là vì Độc lập - Tự do - Hạnh phúc của nhân dân, từ dân tộc mà đến với thế giới nhân loại, từ yêu nước mà đến với chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức cách mạng, tranh đấu quên mình, hy sinh cả cuộc sống riêng tư vì sự nghiệp mà Người tự nhủ và căn dặn những người cách mạng - những học trò xuất sắc của Người thuộc thế hệ đầu tiên lập Đảng. Cả cuộc đời và sự nghiệp, Hồ Chí Minh đã làm tất cả vì Dân, vì Nước; trong gian lao khó nhọc, cả lúc hiểm nguy thử thách khi bị giam cầm, đọa đầy trong lao tù của chế độ Tưởng Giới Thạch, mất liên lạc với Đảng, với dân, Người vẫn một lòng kiên trinh với lý tưởng, giữ trọn niềm tin với nghị lực phi thường vượt lên hoàn cảnh. Trước sau như một: “Cả đời tôi chỉ có mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân”3. Đồng thời, Người không ngừng phấn đấu với một ham muốn tột bậc làm cho Tổ quốc được độc lập, dân tộc được tự do, đồng bào có hạnh phúc - hạnh phúc bình dị mà vĩ đại: có cơm ăn, áo mặc, được học hành. Tấm gương đạo đức ấy không gì có thể mờ phai.
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, là đạo đức chiến đấu và hy sinh, từ dấn thân đến dâng hiến, suốt một đời gần dân, vì dân, thấu hiểu cuộc sống của dân và thấu cảm lòng dân. Trả lời nhà báo Cộng sản Cu Ba, Người nói: “Tôi tự nguyện dâng hiến đời tôi cho dân tộc” và “Mỗi người có một nỗi đau riêng, mỗi gia đình có một nỗi khổ riêng. Gộp tất cả nỗi đau khổ đó lại thành ra nỗi đau khổ của bản thân tôi!”. Lời nói chân thành tự trái tim Người có sức lay động muôn triệu trái tim.
Người luôn căn dặn cán bộ, đảng viên và công chức “dân là chủ và dân làm chủ”. Phải dân chủ chứ không được “quan” chủ, là đầy tớ công bộc của dân chứ không lên mặt “quan” cách mạng. Theo Người, đối với nhân dân của mình, họ là những người chủ đích thực chứ không phải thần dân, và Người “không phải là vua”4 mà là đầy tớ, công bộc của dân, “kính trọng lễ phép với dân”, “gần dân, học dân, hỏi dân, hiểu dân, tin dân để thương dân và suốt đời chỉ vì dân mà sống mà tranh đấu”. Bày tỏ lòng biết ơn, lời cảm ơn trước tình cảm thương mến của mọi tầng lớp nhân dân dành cho mình, Người nói: “Từ trước đến giờ tôi đã là người của đồng bào thì từ giờ về sau, tôi mãi mãi thuộc về đồng bào”. Đó là điển hình cho tình yêu, sự thủy chung của lãnh tụ vì dân.
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ ở chỗ Người nêu gương đạo đức trong tranh đấu, từ chống giặc ngoại xâm đến chống “giặc nội xâm” mà Người còn nêu gương suốt đời trong thực hành cần kiệm liêm chính, chí công vô tư để toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc. Là Chủ tịch Nước, ở cương vị nguyên thủ quốc gia, đồng thời là Chủ tịch Đảng5, Người là tấm gương sáng ngời về cần, kiệm, liêm, chính, tuyệt đối không màng danh lợi, đứng ngoài vòng danh lợi, chỉ luôn coi mình là một người lính vâng lệnh quốc dân đồng bào, làm tròn nhiệm vụ do dân ủy thác. Khi chủ trì phiên họp đầu tiên của Chính phủ (ngày 03-9-1945), Người đưa ra sáu vấn đề cấp bách phải làm ngay để lo cuộc sống cho dân6. Đặc biệt, Người chủ trương: “mở cuộc vận động kêu gọi các thành viên chính phủ” nhịn ăn để lấy gạo nuôi dân, cứ 10 ngày nhịn một bữa không chết đâu nhưng dân thì có bữa cơm bữa cháo, mỗi bữa là một bơ gạo, góp chung lại cứu dân nghèo và tôi xin làm trước tiên”. Người còn cẩn thận đến mức nếu đến ngày quy định nhịn ăn mà Người có việc phải tiếp khách thì Người sẽ nhịn bù vào hôm sau. Đã nói là làm, từ việc nhỏ đến việc lớn, lời nói đi đôi với việc làm, làm gương và nêu gương cho mọi người. Tấm gương ấy của Người làm cảm động muôn người; là tấm gương sống, quý hơn hàng trăm bài diễn văn tuyên truyền. Bởi thế, Chính phủ do Người đứng đầu thực sự là Chính phủ, là Nhà nước của dân, vì dân, hành động vì dân bởi rất mực thương dân.
Đạo đức Hồ Chí Minh có sức lay động, cảm hóa muôn triệu đồng bào trong nước và thu hút sự ngưỡng mộ, kính trọng của bạn bè quốc tế. Ngày đầu tiên trong hoạt động của Nhà nước (03-9-1945), Người đã có thư gửi quốc dân đồng bào, công bố lịch tiếp dân, tiếp đại biểu các giới đồng bào và các đoàn thể, “từ văn hóa giới, công giáo, công hội, thương giới, thanh niên, phụ nữ, công chức, Phật giáo, cho đến nông hội, Hoa kiều và các cháu nhi đồng”7. Trong đó, nêu rõ: “Xin gửi thư nói trước để tôi sắp xếp thời giờ rồi trả lời bà con, khỏi mất thời giờ chờ đợi mất công”. Người nêu yêu cầu “mỗi đoàn không quá mười vị, mỗi lần không quá một tiếng đồng hồ”8. Tôn trọng dân chủ, thiết tha lắng nghe tiếng nói của người dân như vậy, đó thực sự là đạo đức, là văn hóa đạo đức trong chính trị của Hồ Chí Minh.
Hiếm có vị chủ tịch nước nào như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sống đạm bạc, đến mức khắc khổ trong cái ăn, cái mặc hằng ngày; bởi thương dân mà tiết kiệm, bởi lãng phí là không thương dân, bởi mỗi đồng tiền bát gạo mà ta tiêu dùng đều do mồ hôi, nước mắt của dân làm ra. Người lên án gay gắt và nghiêm trị theo luật pháp những hành vi tham ô, tham nhũng, coi đó là bất liêm, bất chính, bất nghĩa, phải trừng trị như trừng trị một tội ác. Người nói cho cán bộ, công chức rõ, đồng bào đem mồ hôi nước mắt để làm ra tiền của, để trả lương cho ta. Nếu lười biếng và vô trách nhiệm trong công việc hàng ngày là lừa gạt dân chúng. Người lấy mình làm gương, chú trọng giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên, công chức và rèn luyện kỷ luật công vụ, xiết chặt kỷ cương, nề nếp hành chính, sớm thành lập thanh tra chính phủ để kiểm soát hoạt động của bộ máy và hành vi công chức. Những biện pháp ấy đều chỉ vì mục đích “phục vụ dân” và “bảo vệ dân”.
Tấm gương Hồ Chí Minh còn được thể hiện ở đức trung thực, khiêm tốn, vị tha, nhân ái, khoan dung, thấm nhuần chất nhân văn trong tham chính và cầm quyền, trong ứng xử với người, với việc, mà cao hơn tất cả là tình thương yêu dành cho dân chúng mãi không bao giờ thay đổi. Khi gửi thư chúc mừng thượng thọ một cụ già 80 tuổi (lúc đó Người đã 60 tuổi) mà Người xưng hô là cháu: “Cháu xin thay mặt Chính phủ chúc thọ Cụ. Chúc Cụ sống lâu muôn tuổi để cùng con cháu kháng chiến kiến quốc tới ngày thắng lợi”. Người lấy tiền tiết kiệm của mình để mua nước ngọt gửi ra trận địa cho bộ đội đang trực chiến giữa những trưa hè nóng nực. Người viết thư loan báo cho đồng bào rõ: để tỏ lòng biết ơn các liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc và những gia đình có công với nước, Người sẽ nhận tất cả con liệt sĩ là con mình, v.v. Mỗi một chiến sĩ ngã xuống trên chiến trường, Người như đứt từng khúc ruột. Người rộng lòng bao dung khoan thứ, kiềm chế ngay cả những lúc Người không hài lòng trước những việc làm sai, những người làm hỏng. Người căn dặn “phê bình việc chứ không phê bình (với ý xúc phạm) người”. Trong Di chúc, Người căn dặn “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”, phê bình có lý có tình, ứng xử có tình có nghĩa,... Người để lại muôn vàn tình thương yêu cho đồng bào, đồng chí và không quên gửi lời chào bạn bè quốc tế và nhân dân thế giới, v.v.
Một con người, một nhân cách, với tấm gương đạo đức sáng ngời như thế mà lại tự thấy mình chưa xứng đáng, từ chối nhận huân chương. Người đã trở về với thế giới người Hiền gần nửa thế kỷ, nhưng không lúc nào ta cảm thấy Người đi xa, Người vẫn ở bên ta như động viên, nhắn nhủ, thúc giục để ở đời thì phải thân dân, làm người thì phải chính tâm, xứng đáng là đầy tớ trung thành, công bộc tận tụy của dân. Tấm gương đạo đức ngời sáng Hồ Chí Minh còn sáng mãi trong cuộc đời, trong dân tộc và thế giới, còn sống mãi với thời gian.
Như thế, nhà tư tưởng Hồ Chí Minh còn đồng thời là nhà đạo đức học Hồ Chí Minh, Anh hùng giải phóng dân tộc, người chiến sĩ kiên cường đấu tranh cho tự do, cho phẩm giá con người, người bạn lớn của nhân dân các dân tộc trên thế giới, nhà văn hóa kiệt xuất. Thực hành biền bỉ và nêu gương mẫu mực về đạo đức ở đời và làm người, đó là tư tưởng mà cũng là đạo đức, đó là phương pháp mà cũng là phong cách Hồ Chí Minh mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang ra sức học tập và làm theo.
Tấm gương đạo đức sáng ngời của Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc, của Đảng ta, là niềm tự hào của mọi thế hệ người Việt Nam, là sức mạnh tinh thần, trở thành động lực thúc đẩy chúng ta trong đổi mới, hội nhập để phát triển. Tấm gương đó tỏa sáng trong tư tưởng, đạo đức và phong cách của Người, trở thành giá trị chuẩn mực và định hướng giá trị trong giáo dục và thực hành đạo đức cho các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau. Đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh còn có ảnh hưởng và hiệu ứng rộng rãi trong đời sống tinh thần của nhân dân các dân tộc trên thế giới, bởi những người bạn bè, anh em của Việt Nam với tất cả tấm lòng chân thành, tin cậy đều dành cho Người sự khâm phục, ngưỡng mộ và kính trọng. “Việt Nam - Hồ Chí Minh”, “Việt Nam - Bác Hồ”, từ lâu đã được các bạn bè quốc tế của chúng ta cất lên tiếng nói, tiếng gọi trìu mến, thân thương khi đến Việt Nam - Tổ quốc của Người, khi đến thăm nơi ở và làm việc của Người tại Thủ đô Hà Nội, “ngôi nhà sàn đơn sơ giản dị, ngát hương thơm cây cỏ hoa vườn nhưng tâm hồn lộng gió bốn phương thời đại” (Phạm Văn Đồng). “Hồ Chí Minh” và “Bác Hồ” đã từ lâu trở thành từ vựng quen thuộc, không chỉ là biểu tượng của nhà chính trị lỗi lạc mà sâu xa, rộng lớn hơn là nhà văn hóa lớn, biểu trưng cho văn hóa đạo đức, cho văn hóa nhân cách Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Sự thật ấy của lịch sử, tự nó đã bác bỏ tất cả những gì mà những kẻ thù địch đang ra sức xuyên tạc, chống phá cách mạng Việt Nam, mưu toan hạ thấp giá trị Hồ Chí Minh, gieo rắc những giả tượng xuyên tạc bản chất, cố tình ngụy tạo, với ác ý thâm độc gây ra những hoài nghi về đạo đức và tấm gương đạo đức của Người, nhất là đối với những người trẻ tuổi sinh ra và lớn lên trong thời hiện tại, không có những trải nghiệm thực tiễn trong quá khứ như các lớp cha anh của họ. Cũng có những kẻ cơ hội, xu thời, đã từng thụ hưởng những ân huệ đầy tình nghĩa của chế độ dân chủ cộng hòa do Hồ Chí Minh sáng lập, chỉ vì lòng dạ không còn trong sáng nữa, mang nặng những thiên kiến chủ quan, chủ nghĩa cá nhân, hám danh, vụ lợi và vị kỷ mà cố tình xuyên tạc sự thật hoặc đồng lõa với những kẻ xuyên tạc. Họ chẳng thể vấy bẩn được ai mà tự vấy bẩn chính mình, tự hạ thấp mình mà thôi.
Lịch sử vốn công minh, khách quan. Trí tuệ của nhân dân là sáng suốt. Dư luận thế giới là rộng lớn. Những ai có lương tri và trọng phẩm giá con người đều nói tiếng nói trung thực, có cốt cách của học thức và văn hóa trong cảm nhận, đánh giá về Hồ Chí Minh. Và đây là dòng chủ đạo, tự nó đã có sức mạnh phủ định và phê phán những giọng điệu lạc lõng xuyên tạc về Việt Nam, về Đảng và Bác Hồ.
________________
1 - Đây là một trong năm tác phẩm của Người được xếp hạng Bảo vật quốc gia.
2 - Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo (chủ biên) - Chủ thuyết phát triển của Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, H. 2017.
3 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 272.
4 - Người nói với những người giúp việc trong mỗi buổi sáng đi tập thể dục, khi nhìn thấy Người đều xuống xe đạp để chào: “Bác có phải là vua đâu mà các cô các chú cứ “hạ mã” thế!”.
5 - Đại hội II (1951), Đại hội III (1960) đều bầu Người là Chủ tịch Đảng.
6 - Chống giặc đói, giặc dốt, như chống giặc ngoại xâm; ra sắc lệnh bãi bỏ tất cả các thứ thuế phi lý và phi nhân là tàn tích của chế độ thực dân để lại; khẩn trương soạn thảo Hiến pháp dân chủ để xác lập quyền làm chủ của người dân; xây dựng nền văn hóa mới, tuyên bố tự do tín ngưỡng, cải tạo phong tục tập quán lạc hậu là tàn tích của chế độ thực dân phong kiến để lại và thực hành đại đoàn kết.
7 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 9.
8 - Sđd, Tập 4, Nxb CTQG. H. 2011, tr. 9.
          Nguồn: http://tapchiqptd.vn

Đoàn kết tôn giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh – lý luận và thực tiễn bác bỏ mọi xuyên tạc


Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Ðảng, Nhà nước ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán thực hiện đoàn kết lương - giáo, đoàn kết giữa những người theo các tôn giáo khác nhau. Bất chấp thực tiễn đó, vẫn có ý kiến cho rằng, nước ta kỳ thị tôn giáo, chia rẽ lương - giáo. Vậy đâu là sự thật?
Việt Nam là nước đa tôn giáo1, trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước của nhân dân ta, các thế lực thực dân, đế quốc thường lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng. Âm mưu, thủ đoạn của chúng không chỉ là chia rẽ nhân dân các vùng, miền, giữa thành thị với nông thôn, đồng bào kinh với đồng bào dân tộc thiểu số, mà còn triệt để thực hiện chính sách chia rẽ đồng bào có tôn giáo với đồng bào không tôn giáo, giữa đồng bào các tôn giáo khác nhau, thậm chí gây chia rẽ đồng bào ngay trong nội bộ một tôn giáo. Vì thế, theo Hồ Chí Minh, đoàn kết tôn giáo góp phần tập hợp, đoàn kết toàn dân tộc, tạo sức mạnh tổng hợp, thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước có vai trò đặc biệt quan trọng. Chính vì vậy, sau khi nước nhà độc lập, trong Phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (03-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào Giáo và đồng bào Lương, để dễ thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: TÍN NGƯỠNG TỰ DO và Lương Giáo đoàn kết”2.
Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết tôn giáo trước hết, phải lấy mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội làm điểm tương đồng, dùng cái tương đồng để khắc phục sự dị biệt. Giải phóng dân tộc ở nước ta là mục tiêu trước nhất, là nền tảng cho sự giải phóng giai cấp, là điều kiện để có độc lập, tự do cho các tôn giáo, Người nói: Nước không độc lập thì tôn giáo không được tự do, nên chúng ta phải làm cho nước độc lập đã. Độc lập rồi phải quan tâm đến đời sống người dân, vì nước độc lập, mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập chẳng nghĩa lý gì. Sự đoàn kết và phát triển theo xu hướng tích cực, tiến bộ của tôn giáo sẽ góp phần giành và giữ vững nền độc lập cho Tổ quốc, đem lại cuộc sống ấm no cho nhân dân. Người khẳng định: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài. Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị”3. Với mục tiêu rõ ràng, Hồ Chí Minh đã quy tụ, tập hợp được toàn dân tham gia kháng chiến và kiến quốc thắng lợi.
Để đoàn kết tôn giáo thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra nguyên tắc cụ thể trong thực hiện. (1) Lấy lợi ích quốc gia dân tộc làm mẫu số chung. Nguyên tắc này dựa trên phương châm “Dân tộc trên hết - Tổ quốc trên hết” và “tất cả do con người, tất cả vì con người”. Lợi ích của từng tôn giáo gắn chặt với lợi ích của cả cộng đồng dân tộc, muốn đoàn kết được đồng bào tôn giáo vào trong khối đại đoàn kết dân tộc thì phải đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết. Vì đây là lợi ích của cả cộng đồng, trong đó có lợi ích sống còn của các tôn giáo. (2) Không chạm đến đức tin của tôn giáo nói chung và của từng tôn giáo nói riêng. Hồ Chí Minh chú ý nhiều đến việc chỉ ra cái chung, cái thống nhất của các tôn giáo với mục tiêu, lý tưởng của chủ nghĩa xã hội. Người viết “Mục đích cao cả của Phật Thích Ca và Chúa Giêsu đều muốn mọi người có cơm ăn, áo mặc, bình đẳng, tự do và thế giới đại đồng”4. Đồng thời nhấn mạnh, lòng yêu nước và đức tin tôn giáo không có gì mâu thuẫn, trái lại còn gắn bó chặt chẽ với nhau. Một người dù theo tôn giáo nào thì trước hết người đó phải là công dân, có nghĩa vụ với dân tộc, đất nước. (3) Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Đây là điều kiện tiên quyết, là nguyên tắc cơ bản để có thể đoàn kết được đồng bào tôn giáo vào khối đại đoàn kết chung của dân tộc. Bởi, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo tức là tôn trọng nhân dân, tôn trọng nhu cầu tâm linh của một bộ phận nhân dân, tôn trọng một yêu cầu về tự do, dân chủ trong đời sống văn hóa, tinh thần của xã hội.
Hồ Chí Minh còn đề ra các phương pháp đoàn kết tôn giáo trong quá trình hoạt động của mình. Tôn trọng giáo chủ, tranh thủ giáo sĩ và quan tâm đến giáo dân là phương pháp quan trọng để tập hợp và đoàn kết được tôn giáo. Trong các tôn giáo, giáo chủ, giáo sĩ là những người không chỉ có sự hiểu biết giáo lý, giáo luật mà còn hiểu biết về tình hình chính trị - xã hội và cũng là những người có đạo đức cao cả nên có tầm ảnh hưởng lớn đối với đồng bào tín đồ tôn giáo. Nếu không nắm được giáo chủ, giáo sĩ thì rất khó thuyết phục được đồng bào có đạo tham gia vào khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Với thái độ tôn trọng những người theo các tôn giáo khác nhau, các vị giáo sĩ và nhất là sự quan tâm sâu sắc đến đời sống đồng bào có đạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thu hút, tập hợp được nhiều giáo sĩ, nhà tu hành và đông đảo giáo dân tham gia kháng chiến và xây dựng đất nước. Thực tiễn cho thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tin tưởng và giao cho nhiều người trong các tôn giáo giữ các chức vụ cao cấp, như: Giám mục Lê Hữu Từ, Giám mục Hồ Ngọc Cẩn là cố vấn tối cao cho Chính phủ; Linh mục Phạm Bá Trực là Phó Ban Thường trực Quốc hội; các trí thức Công giáo, như: Nguyễn Mạnh Hà, Ngô Tử Hạ, Vũ Đình Tụng là Bộ trưởng trong Chính phủ của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; ông Cao Triều Phát - Chủ tịch Hội Cao Đài cứu quốc 12 phái hiệp nhất, là Cố vấn Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ, v.v. Sự thực này bác bỏ mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù lợi dụng tôn giáo, hòng chia rẽ, phá hoại chính sách tôn giáo và dân tộc, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng, Nhà nước ta.
Thứ hai, khai thác các giá trị nhân bản, đề cao sự tương đồng, tôn trọng sự khác biệt giữa tôn giáo và chủ nghĩa cộng sản. Hồ Chí Minh nhận thấy trong bản chất tôn giáo và trong cả tư tưởng của những người sáng lập ra nó chẳng có ai là không mong muốn cho cuộc sống của con người ngày càng tốt đẹp hơn, đạo đức hơn. Xét cho cùng thì tất cả các tôn giáo đều hướng tới những giá trị chung của con người là: Chân - Thiện - Mỹ. Người viết: “Chúa Giêsu dạy: Đạo đức là bác ái. Phật Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi. Khổng Tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa”5. Tư tưởng: nhân đạo của Giêsu; từ bi hỷ xả, bình đẳng của Phật Thích Ca; hòa mục xã hội của Khổng Tử đã gặp gỡ với mục tiêu lý tưởng của chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng. Với phương pháp tiếp cận này, đã giúp Hồ Chí Minh xóa nhòa khoảng cách giữa đồng bào lương và đồng bào giáo, tập hợp được đông đảo đồng bào theo các tôn giáo khác nhau vào trong khối đoàn kết chung, vì sự nghiệp cách mạng cao cả của dân tộc. Đây là bài học quý để Đảng và Nhà nước vận dụng linh hoạt trong hoạt động xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc hiện nay.
Như vậy, để đoàn kết được đồng bào tôn giáo vào khối đại đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh đã đưa ra mục tiêu, nguyên tắc và phương pháp cơ bản cần thực hiện trong quá trình làm công tác tôn giáo. Nhờ đó, Người đã thành công trong việc đoàn kết đồng bào tôn giáo vào khối đại đoàn kết dân tộc. Tư tưởng đoàn kết tôn giáo của Hồ Chí Minh còn là cơ sở nền tảng cho các giáo hội đề ra tôn chỉ, mục đích hành đạo theo hướng gắn bó với dân tộc, như: “Đạo pháp - Dân tộc và Chủ nghĩa xã hội” (Phật giáo); “Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc” (Công giáo); “Sống Phúc âm phụng sự Thiên Chúa, phụng sự Tổ quốc và dân tộc” (đạo Tin lành); “Nước vinh đạo sáng” (đạo Cao Đài); “chấn hưng nền đạo gắn bó với dân tộc; phù hợp với chính sách và pháp luật của Nhà nước góp phần tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Phật giáo Hòa Hảo), v.v.
Quan điểm, tư tưởng về đoàn kết tôn giáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa lớn cả về lý luận và thực tiễn. Về lý luận, Hồ Chí Minh chính là Người mở ra khả năng kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản và tôn giáo, có thể cùng chung sống một cách hòa bình vì có những điểm chung nhất định và có thể kế thừa được những giá trị tiến bộ của tôn giáo, nhất là ở khía cạnh nhân bản. Tôn trọng tự do tín ngưỡng gắn liền với việc tăng cường tình đoàn kết và hòa hợp dân tộc là phương pháp rất hữu hiệu để giải quyết vấn đề tôn giáo, hướng mọi người vào mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh.
Về thực tiễn, tư tưởng đó là kim chỉ nam để Đảng và Nhà nước ta hoạch định chủ trương, chính sách giải quyết vấn đề tôn giáo một cách đúng đắn trong suốt quá trình cách mạng. Theo quan điểm, tư tưởng đoàn kết tôn giáo của Hồ Chí Minh, chúng ta đã hướng đồng bào có đạo đi theo cách mạng, không để kẻ thù lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng phục vụ tâm địa xấu xa của chúng. Qua đó, làm cho đồng bào các tôn giáo tin tưởng vào chế độ xã hội mới, gắn kết được đạo với đời, lấy lý tưởng “tốt đời, đẹp đạo” làm mục tiêu hành động.
Tư tưởng đoàn kết tôn giáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn được Đảng ta kế thừa, phát triển và vận dụng sáng tạo với tình hình thực tiễn. Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo nào của nhân dân; đồng thời xác định: “Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo”6. Điều này được thể hiện rõ tại Khoản 1, Điều 14 Hiến pháp năm 2013: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” và tại Điều 6 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo có hiệu lực từ ngày 01-01-2018.
Sự thật hiển nhiên là thế, nhưng các thế lực thù địch luôn lợi dụng vấn đề tự do, tín ngưỡng, dân chủ, nhân quyền để xuyên tạc, kích động,… hòng chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Họ thường vu cáo Việt Nam đàn áp các tôn giáo. Nhưng sự thật, cũng như các quốc gia có chủ quyền khác, Việt Nam chỉ xử lý những đối tượng lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ đoàn kết dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia. Đó chỉ đơn thuần là việc chính quyền đang ngăn chặn các hoạt động đi ngược lại quy định của pháp luật.
Có thể nói, không một quốc gia đa tôn giáo nào trên thế giới mà các tôn giáo lại sống bình đẳng như ở Việt Nam, một đất nước không có xung đột sắc tộc, xung đột tôn giáo. Đó là sự thật! Tự nó bác bỏ mọi sự xuyên tạc, kích động hòng chia rẽ tôn giáo với chính quyền, chia rẽ những người theo tôn giáo và không theo tôn giáo, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
                                                Nguồn: http://tapchiqptd.vn