Tháng
8-1945, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã lãnh đạo nhân dân ta nhất tề đứng lên Tổng khởi nghĩa, đập tan ách thống trị của thực
dân, phong kiến, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, mở
ra kỷ nguyên mới cho dân tộc - kỷ nguyên độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội. Thế nhưng, các thế lực thù địch, phản động lại
tìm mọi cách xuyên tạc, phủ nhận giá trị vĩ đại đó. Âm mưu, thủ đoạn
của chúng cần được nhận diện và kiên quyết đấu tranh bác bỏ.
Để phủ nhận giá trị lịch sử cuộc Cách mạng
Tháng Tám năm 1945, nhất là phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam và sức mạnh của quần chúng nhân dân trong cuộc Cách mạng vĩ đại này, với
góc nhìn thiên kiến, lệch lạc, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị
đã đưa ra quan điểm phản động. Chúng cho rằng: không cần phải tiến
hành Cách mạng Tháng Tám vì Chính phủ của ông Trần Trọng Kim khi đó đã tiếp
quản, giành độc lập cho dân tộc; hoặc: không Tổng khởi nghĩa thì nền độc lập vẫn được các nước Đồng
minh tự nguyện trao trả (!).
Hùa theo quan điểm đó, có nhân vật đã đánh giá: chỉ tồn tại 128 ngày,
nhưng chính quyền của ông Trần Trọng Kim đã giải quyết được rất nhiều việc để
tiến tới độc lập dân tộc.
Cùng với cách nhìn nhận và đánh giá sai lệch đó, lại có quan điểm thể hiện một
cách rất chủ quan, thiếu khoa học, không căn cứ vào thực tiễn, như: tháng
8-1945 có sự xuất hiện “khoảng trống quyền lực”, nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám chỉ là “ăn may”, v.v.
Để nhìn nhận khách quan, đúng bản chất của một
sự kiện, vấn đề quan trọng nhất là phải đặt sự kiện ấy trong dòng chảy liên tục
của lịch sử và tình hình thực tế tại thời điểm đó. Đối với sự kiện Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 của nhân dân Việt Nam cũng vậy. Thực tế, vào ngày 30-3-1945,
ông Trần Trọng Kim được Nhật đưa từ Băng Cốc về Sài Gòn, sau đó ra Huế cùng với
vị vua bù nhìn Bảo Đại thành lập Chính phủ vào ngày 17-4-1945 theo sự chỉ đạo
của người Nhật. Đây thực chất là Chính phủ bù nhìn, cho dù một số người trong
Nội các đã có cố gắng nhất định, nhưng vẫn bị lệ thuộc nặng nề vào người Nhật.
Chúng ta trân trọng ông Trần Trọng Kim với tư cách là một nhà giáo dục, nhà sử
học, nhất là công trình nghiên cứu về lịch sử, văn hóa, như: Việt Nam sử lược,
Việt Nam văn phạm,… của Ông. Song, trên thực tế hơn 04 tháng sau khi thành lập,
Chính phủ của Ông đã tỏ ra bất lực, không giải quyết được các vấn đề rất cấp
bách đang đặt ra đối với đất nước lúc đó, nhất là việc ký hiệp ước với Nhật để
công nhận nền độc lập của Việt Nam cũng không thực hiện được. Chính phủ của Ông
cũng không có đường lối chính trị rõ ràng, không có biện pháp đem lại hạnh phúc
cho nhân dân. Điển hình như: nạn đói ở miền Bắc năm 1945 đã làm cho hàng triệu
người chết mà Chính phủ lúc đó không có bất cứ biện pháp giải quyết nào, có
chăng:“vận chuyển gạo từ miền Nam để cứu đói” chỉ là lời hứa suông. Không những thế,
họ lại còn kêu gọi: quốc dân phải gắng sức làm việc, chịu nhiều hy sinh hơn nữa và
phải thành thật hợp tác với nước Đại Nhật Bản; không thể quên ơn nước Đại Nhật
Bản đã giải phóng cho ta; hoặc: quốc dân, đồng bào hãy tin tưởng vào Chính phủ và tin vào lòng
thành thực của nước Đại Nhật Bản để xây đắp cơ đồ nước Việt Nam, v.v. Rõ ràng, Chính phủ của ông Trần Trọng Kim
khi đó đã bất lực trước thực tế phức tạp, rối ren của xã hội; sự ra đời của
Chính phủ này chỉ là hiện thực hóa chiến lược và kế hoạch chiếm đóng Việt Nam
của người Nhật sau khi đã đảo chính, lật đổ người Pháp. Vì vậy, Chính phủ Trần
Trọng Kim “được Nhật trao độc lập” thì đó chỉ là thứ độc lập giả hiệu.
Ngược lại, ngay từ khi ra đời (đầu năm 1930),
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập đã xây dựng cương lĩnh,
đường lối đúng đắn, khoa học, lấy mục tiêu là đem lại cuộc sống tự do, ấm no,
hạnh phúc cho các tầng lớp nhân dân làm phương hướng hành động; đã đề ra nhiệm
vụ “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, đứng lên đấu tranh giành độc lập dân
tộc, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra
(1939), Đảng đã nhận định chính xác về tình hình thế giới và trong nước, chủ
động nắm chắc thời cơ, chuẩn bị lực lượng, xây dựng căn cứ địa làm tiềm lực cho
Cách mạng. Năm 1941, Đảng quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh; dưới sự chỉ
đạo của Mặt trận, nhiều tổ chức, đoàn thể, lực lượng đoàn kết yêu nước đã ra
đời và tập hợp thành khối đại đoàn kết toàn dân tộc, như: Hội Công nhân cứu
quốc, Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Tự vệ cứu quốc,
v.v. Đây là lực lượng quần chúng đông đảo để chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa khi
có thời cơ. Năm 1943, trước diễn biến mới của tình hình, Thường vụ Trung ương
Đảng quyết định mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất và xúc tiến chuẩn bị khởi
nghĩa vũ trang; đồng thời, đặt ra nhiệm vụ giải phóng dân tộc bằng cuộc tổng
khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay nhân dân.
Đêm ngày 09-3-1945, quân Nhật đồng loạt nổ
súng và nhanh chóng đè bẹp sự kháng cự của quân Pháp; toàn bộ Đông Dương trở
thành thuộc địa của phát xít Nhật. Trước tình hình đó, Ban Thường vụ Trung ương
Đảng đã ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Đêm
13-8-1945, Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc được thành lập và ra Quân lệnh số 1, hạ
lệnh Tổng khởi nghĩa; theo đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Ủy ban Dân tộc
giải phóng đã gửi thư cho đồng bào và chiến sĩ cả nước, kêu gọi nổi dậy Tổng
khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Nhờ có chủ trương, đường lối đúng
đắn, hành động kịp thời, nhất là sự ủng hộ đông đảo của quần chúng nhân dân cả
nước, nên cách mạng Việt Nam liên tục phát triển, đi từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác và kết thúc bằng cuộc Tổng khởi nghĩa. Đó là thắng lợi của sự
chuẩn bị chu đáo, nghệ thuật tạo và chớp thời cơ, huy động lực lượng,
hành động kiên quyết, kịp thời của Đảng ta. Nó chứng tỏ tính chủ động, khả
năng nhận định, đánh giá tình hình chính xác và khả năng quy tụ, phát động quần
chúng đồng loạt đứng lên đấu tranh của Đảng. Đó là cơ sở để khẳng định: đây
thực sự là một cuộc cách mạng của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng,
chứ không phải là “ngẫu nhiên”, “ăn may”, hay “không cần Tổng khởi nghĩa giành
độc lập, mà nền độc lập sẽ được các nước Đồng minh tự nguyện trao trả” như luận
điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Chúng ta không phủ nhận thời cơ thuận lợi khi
phe Đồng minh đánh thắng chủ nghĩa phát xít trong Chiến tranh Thế giới thứ hai,
làm cho quân Nhật và các thế lực tay sai ở Đông Dương hoang mang, mất hết tinh
thần; buộcNhật phải đầu hàng vô điều kiện, tạo ra thời cơ thuận lợi để dân tộc
ta đứng lên giành chính quyền. Nhưng, phải khẳng định rằng: ở nước ta khi đó
“khoảng trống quyền lực” là không! Bởi, ngay từ tháng 9-1940, Quân đội Nhật đã
bắt đầu tiến vào Việt Nam; phía Pháp đã phải nhượng bộ, cho phép 6.000 quân
Nhật đóng ở Bắc kỳ, được quyền sử dụng 04 sân bay và cảng Hải Phòng để vận
chuyển một sư đoàn thuộc Quân đoàn 21; đồng thời, được quyền chuyển 25.000 quân
qua Bắc kỳ vào Vân Nam, v.v. Cuối tháng đó, Hải quân Nhật tiến hành đổ bộ
4.500 lính bộ binh và hơn một chục xe tăng vào Hải Phòng. Đến tháng 7-1941,
chúng tiến vào Sài Gòn và đến năm 1945, đã có hàng vạn quân Nhật vào Việt
Nam với nhiều vũ khí, trang bị hiện đại. Sau khi Nhật đảo chính Pháp ở Đông
Dương, Quân đội Nhật đã nhanh chóng tiếp quản, làm chủ toàn bộ Đông Dương. Mặc
dù quân đội phe phát xít bị đánh ở nhiều nơi, nhưng ở Việt Nam, quân đội Đồng
minh chỉ vào giải giáp quân Nhật trên danh nghĩa; nên tiềm lực quân sự của Nhật
ở Việt Nam khi đó vẫn rất mạnh cả về quân số (khoảng 100.000
quân) lẫn vũ khí, trang bị hiện đại và vẫn đồn trú nguyên trạng tại
các vị trí mà chúng chiếm đóng. Khi đó, Nhật vẫn kiên quyết bám giữ sự thống
trị ở Việt Nam; bởi, họ cho rằng: đây là mắt xích kết nối cuối cùng của họ với
vùng Đông Nam Á. Mặt khác, nếu Việt Nam giành độc lập, thì Nhật không chỉ bị
mất về quyền lợi kinh tế, mà danh dự của họ cũng chẳng còn. Điều đó chứng tỏ
không hề có “khoảng trống quyền lực”, như các thế lực thù địch thường rêu rao.
Như vậy, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 nổ ra và
giành thắng lợi ở Việt Nam là do sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo và
khéo léo của Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh, chứ hoàn
toàn không phải là có sự xuất hiện “khoảng trống quyền lực" nào.
Thành công vĩ đại đó không phải tự nhiên mà có, đó là kết quả
tất yếu của tiến trình lịch sử, của quá trình chủ động chuẩn bị
công phu, chu đáo về mọi mặt. Đó là kết quả đấu tranh bền bỉ, vượt qua muôn vàn
gian khổ, hy sinh, với khát vọng độc lập cháy bỏng của toàn thể dân tộc Việt
Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã
nhất tề đứng lên tự “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, chứ không hề
ngồi yên trông mong, chờ đợi vào một “khoảng trống quyền lực” nào hết.
Trước khi cuộc Tổng khởi nghĩa nổ ra thì nhiều tổ chức chính trị, đảng phái
cũng nhìn ra cơ hội xuất hiện và ráo riết chạy đua để giành địa vị chính trị
của mình. Song, với vị trí, vai trò và uy tín, đặc biệt là được quần
chúng nhân dân tin theo, hết lòng ủng hộ, cuối cùng Việt Minh, Đảng Cộng
sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã giành thắng lợi. Điều này lại
càng chứng minh những quan điểm trên của các thế lực thù địch không những hoàn
toàn không có cơ sở thực tiễn, mà còn biểu hiện rõ ý đồ xấu xa của chúng.
Nghiên cứu kỹ về lịch sử sẽ giúp mỗi người
chúng ta thấy rõ hơn giá trị của hòa bình, độc lập, tự do; thấy rõ sự lãnh đạo
đúng đắn, tài tình, công lao to lớn của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và
sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hiện nay, cùng với những
luận điệu xuyên tạc phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, sức mạnh của quần chúng
nhân dân trong thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945, những kẻ tự xưng là
người “bất đồng chính kiến”, “đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền”, chống “độc
tài toàn trị”,… chúng dùng mọi âm mưu, thủ đoạn, tuyên truyền sai lệch về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ Đảng ta. Vì vậy, nhận diện và kiên quyết đấu tranh
vạch trần những quan điểm sai trái, thù địch, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn
chống phá của các thế lực thù địch là trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên và
mọi công dân, để cùng “xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ và giàu mạnh”, như Di nguyện thiêng liêng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cách đây 50 năm trước lúc
Người đi xa.
Nguồn: http://tapchiqptd.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét