Thứ Tư, 18 tháng 9, 2019

ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG“TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” TRONG CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY


Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, lý luận, bảo vệ và giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải gắn với công tác phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Vì, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách để chống phá sự nghiệp cách mạng Việt Nam với những hình thức, phương pháp, cách thức ngày càng tình vi, thâm độc và xảo quyệt. Theo đó, thời gian tới các cấp, các ngành cần đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng. Xây dựng các tổ chức đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững chắc, quản lý chặt chẽ đội ngũ cán bộ, đảng viên là cơ sở để ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ tác động từ bên ngoài; chú trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ, giữ vững và tăng cường khả năng đề kháng trong chính nội bộ. Tăng cường đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí; nhận diện rõ được những kẻ cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực, chuyên quyền, độc đoán, phe cánh; kiên quyết loại trừ những đối tượng này ra khỏi hàng ngũ của Đảng, làm trong sạch tổ chức đảng và bộ máy chính quyền các cấp. Kịp thời phát hiện, khắc phục những khuyết điểm, thiếu sót từ khi mới nhen nhóm, phát sinh với phương châm “chủ động phòng ngừa, tự bảo vệ mình là chính”. Kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống” trong các giải pháp đấu tranh; chủ động phòng ngừa với đấu tranh chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Không ngừng bổ sung, phát triển nhằm bảo đảm tính khoa học, tính cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện mới.


NHẬN DIỆN ÂM MƯU CHỐNG PHÁ CỦA CÁC LỰC LƯỢNG PHẢN ĐỘNG TRONG “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” Ở CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY


Hiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống thông tin truyền thông, lợi dụng sự thiếu thông tin của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân nên các thế lực thù địch, phản động ra sức tuyên truyền, chống phá cách mạng với những thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc. Chúng lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để chống phá ta. Chúng ra sức lợi dụng những thành tựu của khoa học và công nghệ để thực hiện các mưu đồ đen tối như dàn dựng những hình ảnh, clip giả với nội dung xấu độc và sử dụng sức mạnh của truyền thông để tuyên truyền nhằm kích động, lôi kéo nhân dân thực hiện các mưu đồ đen tối, phá hoại sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Do đó, để đấu tranh, ngăn ngừa có hiệu quả với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên và nhân dân cần phải nhận diện, chỉ mặt những tổ chức phản động cũng như âm mưu, thủ đoạn của chúng giúp nhân dân hiểu rõ bộ mặt thật của chúng, nâng cao cao cảnh giác và không mắc mưu.
Hiện nay, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên trở thành nguy cơ đối với cách mạng Việt Nam. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về nhận thức sớm muộn cũng sẽ dẫn đến sự thay đổi hành vi, hành động chống đối về chính trị của một cá nhân hay một tổ chức. Xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; ca ngợi chủ nghĩa tư bản và phản bác, phủ định chủ nghĩa xã hội rồi sẽ dẫn tới những hoạt động chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa dưới hình thức này hay hình thức khác. Đó là vấn đề có tính quy luật. Vì vậy, cần phải hết sức cảnh giác và không thể coi thường nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Thực hiện đồng bộ các giải pháp để đấu tranh, ngăn ngừa với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên và nhân dân góp phần làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta./.

HIỂU THÊM VỀ CHỦ THỂ PHÒNG, CHỐNG “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA”




Trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có chủ thể lãnh đạo, tổ chức, quản lý, điều hành và chủ thể thực hiện. Chúng ta có thể hiểu rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp chính là chủ thể lãnh đạo phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Sở dĩ như vậy là vì, Đảng ta là Đảng cầm quyền, thực hiện sứ mệnh lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam, theo đó Đảng lãnh đạo Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị, lãnh đạo toàn diện các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
Cuộc đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là một bộ phận của cuộc đấu tranh trên lĩnh vực lý luận, tư tưởng-văn hóa; là một nội dung của công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa, vì vậy Đảng phải lãnh đạo nhiệm vụ này là tất yếu, khách quan. Hệ thống cấp ủy, tổ chức đảng các cấp là chủ thể lãnh đạo phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” theo phạm vi chức năng, quyền hạn của từng cấp. Để thực hiện tốt nhiệm vụ lãnh đạo, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư xác định phương hướng, chủ trương, biện pháp lãnh đạo trong các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị, trong nghị quyết chuyên đề về làm cơ sở để cấp ủy, tổ chức đảng các cấp nghiên cứu, quán triệt, xác định những chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chương trình, kế hoạch... phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở cấp mình.  
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cả cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp là chủ thể quản lý, điều hành nhiệm vụ phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" ở nước ta hiện nay. Hệ thống cơ quan chính quyền các cấp từ Trung ương đến cơ sở là chủ thể quản lý, điều hành các hoạt động và trực tiếp xử lý các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở cơ quan, đơn vị, địa phương thuộc quyền. Để thực hiện vai trò quản lý, điều hành của mình, Nhà nước ban hành những luật, nghị định, những văn bản quy phạm pháp luật, quy định, quy chế... nhằm ngăn ngừa những nguồn gốc, nguyên nhân dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, trái với đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chính quyền các cấp dựa trên hệ thống luật pháp, chính sách của Nhà nước, đường lối, quan điểm của Đảng, chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy cấp trên, cấp mình để thực hiện chức năng quản lý, điều hành hoạt động phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong phạm vi cơ quan, đơn vị, địa phương, ban, ngành của mình.
Đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân là chủ thể thực hiện phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta. Những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn ra ở mỗi con người và tổ chức, gắn với hoạt động của các cơ quan, đơn vị, địa phương. Chính vì vậy, đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhân dân, cán bộ, chiến sĩ trong LLVT ở từng cơ quan, đơn vị hiểu rõ tổ chức nào, cá nhân nào thực sự là tiên phong, mẫu mực, trung kiên, trong sạch, liêm khiết; còn tổ chức nào, cá nhân nào đang bị “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Do đó, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cần được tiến hành ngay từ cơ sở, trong từng cơ quan, đơn vị, địa phương, từ đó góp phần vào kết quả phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong toàn xã hội./.


Nhận diện thủ đoạn lợi dụng “thư ngỏ, góp ý” Đại hội XIII để chống phá Đảng, nhà nước


Đảng Cộng sản Việt Nam đang tiến hành các bước chuẩn bị cho đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XIII. Lợi dụng thời điểm diễn ra sự kiện quan trọng này, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, chống phá dưới nhiều hình thức, như “gửi thư”, “trao đổi”, “góp ý cho Đại hội XII”…

Cảnh giác với luận điệu xuyên tạc mục tiêu CNXH trước thềm Đại hội Đảng các cấp


Cứ “đến hẹn lại lên”, nhằm vào thời điểm đất nước chuẩn bị có những sự kiện trọng đại, các thế lực thù địch, phần tử phản động, cơ hội chính trị lại triệt để lợi dụng để đẩy mạnh các hoạt động công kích, chống phá cách mạng Việt Nam...

Vừa qua, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 30-5-2019, Về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Để công tác chuẩn bị chu đáo, việc tổ chức đại hội các cấp bảo đảm thành công tốt đẹp theo đúng tinh thần chỉ thị của Bộ Chính trị, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đã quán triệt: Kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội (CNXH) trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc trong Cương lĩnh, Điều lệ, đường lối, chủ trương của Đảng. Tuy nhiên các thế lực phản động, phần tử cơ hội chính trị lợi dụng thời điểm này để công kích, chống phá, xuyên tạc mục tiêu, lý tưởng, con đường đi lên XHCN ở Việt Nam.
Cứ “đến hẹn lại lên”, nhằm vào thời điểm đất nước chuẩn bị có những sự kiện trọng đại, các thế lực thù địch, phần tử phản động, cơ hội chính trị lại triệt để lợi dụng để đẩy mạnh các hoạt động công kích, chống phá cách mạng Việt Nam.
Lợi dụng thời điểm tổ chức Đảng từ Trung ương đến địa phương đang có những chuẩn bị bước đầu để tiến tới đại hội Đảng các cấp, “lộng giả thành chân”, các đối tượng này bắt đầu gia tăng các hoạt động tuyên truyền, chống phá.
Trên các trang điện tử, blog hải ngoại, họ vờ vịt tỏ thái độ ngạc nhiên, ra vẻ thông thái dạy đời: “Vì sao đến giờ này mà Đảng và Nhà nước Việt Nam vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng CNXH”. Họ cho rằng: “Ai cũng thấy là CNXH đã ở vào giờ thứ 25 trên phạm vi toàn cầu, việc thực hiện XHCN tại Việt Nam đã hoàn toàn thất bại sau 10 năm thực hiện triệt để (1975-1985) dù cố gắng “Đổi mới” 10 năm sau đó (1985-1995) theo gương “cải tổ” của Liên Xô vẫn không cứu vãn được.
Chúng xuyên tạc: Để được cứu nguy, tránh sự sụp đổ như Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, đạt được nhiều thành tựu như hiện nay, thực tế Việt Nam đã thực hiện “Kinh tế thị trường, theo định hướng tư bản chủ nghĩa”; nhờ đó, Việt Nam mới phát triển nhiều mặt để có bộ mặt phồn vinh như hôm nay về kinh tế, đời sống người dân ngày một được cải thiện và nâng cao, chứ không phải kinh tế thị trường định hướng XHCN…”.
Đây thực chất là những luận điệu phi lịch sử, phản khoa học và phản động. Mục đích của những kẻ tung ra luận điều này rất rõ ràng là muốn xóa bỏ CNXH, thay đổi thể chế chính trị, hướng lái nước ta đi theo con đường tư bản chủ nghĩa; bên cạnh đó là làm cho quần chúng nhân dân hoài nghi, bi quan, dao động, suy giảm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường đi lên CNXH mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Nói như vậy, luận điệu mà chúng nêu trên liệu có cần tranh luận? Chắc hẳn là không. Tuy nhiên cũng nên nói rõ để không “thật, giả, vàng, thau lẫn lộn”.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn của dân tộc Việt Nam. Lịch sử dân tộc nửa cuối thế kỷ XIX và ngót nửa đầu thế kỷ XX, đất nước không được độc lập, nhân dân không được tự do. Các phong trào từ “Cần Vương”, “Khởi nghĩa nông dân”, đến phong trào “Đông Du”, phong trào “Giải phóng dân tộc theo khuynh hướng tư sản dân tộc”… đều thất bại, cách mạng Việt Nam lâm vào khủng hoảng về con đường giải phóng dân tộc.
Trong điều kiện đó, Nguyễn Ái Quốc đã đưa lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười, cách mạng vô sản về Việt Nam. Từ khi có Đảng, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giành lại độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng đất nước theo con đường CNXH, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nói như thế để thấy, con đường cách mạng vô sản tiến bộ là phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể, CNXH là sự lựa chọn của lịch sử dân tộc Việt Nam.
Độc lập dân tộc là gắn liên với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn đúng đắn của nhân dân. Nhân dân là cội nguồn sức mạnh, chủ thể quyết định vận mệnh của dân tộc và non sông đất nước. Đảng Cộng sản Việt Nam một lòng phụng sự nhân dân, phụng sự Tổ quốc. Ngoài lợi ích của dộc tộc, nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác.
Nhân dân một lòng theo Đảng. Lý tưởng cộng sản là sự lựa chọn của nhân dân. Kiên định con đường đi lên CNXH là sự kiên định con đường thực tiễn mà nhân dân ta đang đi, kiên định mục tiêu thực hiện mà chúng ta đang hướng tới, là tiếp nối thành quả cách mạng của nhân dân ta và nâng lên tầm cao mới phù hợp với điều kiện lịch sử.
Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, Đảng ta tiếp tục con đường đã lựa chọn, kiên định mục tiêu CNXH mà tính đúng đắn, khoa học, cách mạng đã được thực tiễn chứng minh để xây dựng nước ta thực sự giàu mạnh, dân chủ, văn minh, nhân dân ta thực sự có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Kiên định con đường đi lên CNXH là phù hợp với quy luật lịch sử, chứ không phải là “đi vào vết xe đổ của Liên Xô” như sự xuyên tạc của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị. CNXH hiện thực sau Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 không chỉ có ảnh hưởng quốc tế sâu rộng mà còn làm thay đổi tiến trình lịch sử thế giới trong suốt thế kỷ XX và cho đến tận ngày nay.
CNXH từ lý luận khoa học đã trở thành hiện thực sinh động; từ một nước trở thành hệ thống XHCN thế giới, trở thành lực lượng cách mạng thúc đẩy nhân loại phát triển và phẩm giá con người trong lòng xã hội được thực thi… Liên Xô sụp đổ là sự kiện địa chính trị lớn nhất của thế kỷ XX làm đau đớn nhân loại tiến bộ. Song nó phản ánh sự sai lầm về một mô hình khi đã xa rời những vấn đề mang tính nguyên tắc của CNXH.
Bên cạnh đó cũng phải nói rõ, những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử đạt được trong hơn 30 đổi mới đến nay mà nhân dân ta đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng, là thành tựu của công cuộc đổi mới, thành tựu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN chứ không phải là “kinh tế thị trường theo định hướng tư bản chủ nghĩa” như các thế lực thù địch xuyên tạc.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam là “nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" (Đảng Cộng sản Việt Nam: “Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII”, tr.102). Đây là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, là thành quả phát triển, hoàn thiện về mặt tư duy lý luận của Đảng và thực tiễn phát triển kinh tế trong thời kỳ đổi mới. Kinh tế thị trường định hướng XHCN có đặc trưng mang tính đặ c thù, khác căn bản về chất so với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa mà đến những kẻ ngu ngơ nhất cũng không thể đánh đồng.
Thủ đoạn của thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị, phản động là xuyên tạc về mục tiêu, lý tưởng và con đường đi lên CNXH ở nước ta, xuyên tạc kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhằm mục đích hướng lái cách mạng Việt Nam theo con đường tư bản chủ nghĩa; tác động, tiêm nhiễm tạo nhận thức lệch lạc, hoài nghi, tư tưởng hoang mang, dao động, từ đó suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân cần nâng cao ý thức cảnh giác và tăng cường đấu tranh tranh phản bác, làm thất bại âm mưu phản cách mạng nguy hiểm này.

Chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ - Một số vấn đề đặt ra đối với lực lượng công an nhân dân giai đoạn hiện nay


Hiện nay, cuộc đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đang đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi mới đối với lực lượng công an nhân dân, với trọng trách là “thanh kiếm và lá chắn” bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Bước sang giai đoạn cách mạng mới, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi để phát triển, chúng ta cũng đang phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, trong đó “bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như tham nhũng, lãng phí, “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới, nhất là triệt để sử dụng các phương tiện truyền thông trên mạng in-tơ-nét để chống phá ta và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ...”(1).
Thực tế cho thấy, những năm qua, các thế lực thù địch đã ra sức thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” để chống phá cách mạng Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực chính trị - tư tưởng, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng  - an ninh và đối ngoại, với trọng tâm là cổ xúy hệ tư tưởng tư sản, âm mưu xóa bỏ nền tảng tư tưởng lý luận của Đảng ta - chủ nghĩa Mác  - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội... Mục tiêu cuối cùng mà các thế lực thù địch hướng tới là làm sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Mặc dù âm mưu “diễn biến hòa bình” của chúng là nhất quán, nhưng trong bối cảnh mới, nó được thực hiện với những phương thức, thủ đoạn mới tinh vi, xảo quyệt hơn. Các thế lực thù địch triệt để lợi dụng các phương tiện truyền thông và mạng in-tơ-nét để tiến hành các hoạt động chống phá ta, đồng thời thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. 
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ thực chất là quá trình tự biến đổi về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên theo chiều hướng tiêu cực, đi ngược với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn ra trước hết trong cá nhân cán bộ, đảng viên và nếu không được ngăn chặn kịp thời, có thể dẫn đến sự suy thoái của tổ chức, và về lâu dài, sẽ dẫn đến chuyển hóa chế độ chính trị. Bởi vậy, Đảng ta xác định, cùng với âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cũng là nguy cơ không thể xem thường đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng. Trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, Đảng ta chỉ ra 9 biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm cơ sở cho việc nhận diện và đề ra các giải pháp phù hợp để ngăn chặn, đẩy lùi. 
Có thể thấy, “diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ có mối liên hệ chặt chẽ, không tách rời nhau, trong đó thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ vừa là thủ đoạn, vừa là mục tiêu của chiến lược “diễn biến hòa bình”. Do đó, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ không chỉ là nhiệm vụ cấp bách trước mắt, mà còn là giải pháp quan trọng, chiến lược lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Đây là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, thường xuyên của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước. 
Với vai trò là lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành của Đảng, “thanh kiếm và lá chắn” bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân, lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, Công an nhân dân có vị trí đặc biệt quan trọng trong cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Ý thức sâu sắc về trách nhiệm của mình, thời gian qua, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý thống nhất của Chính phủ, được sự giúp đỡ của nhân dân, sự phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ của Quân đội nhân dân, các ban, ngành ở Trung ương và địa phương, lực lượng công an nhân dân đã thực hiện và hoàn thành tốt nhiều nhiệm vụ chính trị quan trọng. Đã chủ động, tích cực tham mưu cho Đảng, Nhà nước ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật liên quan đến nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự, góp phần hoàn thiện cơ sở chính trị, pháp lý cho việc triển khai các mặt công tác, chiến đấu của Công an nhân dân; chủ động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và vô hiệu hóa nhiều âm mưu, hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, không để hình thành tổ chức chính trị đối lập trong nước; tổ chức có hiệu quả công tác đấu tranh trên phương diện tư tưởng, lý luận, nhất là phản bác các luận điệu xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và những quan điểm sai trái, thù địch, vạch trần âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động. Đồng thời, gương mẫu đi đầu trong thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII của Đảng “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”...
Việc lực lượng công an nhân dân tham gia đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn những hạn chế cần khắc phục, nhất là công tác quản lý cán bộ, bảo vệ chính trị nội bộ còn bộc lộ sơ hở, để xảy ra một số vụ, việc cán bộ, chiến sĩ vi phạm nghiêm trọng kỷ luật của Đảng, của ngành, làm giảm niềm tin trong nhân dân, ảnh hưởng đến uy tín, danh dự, truyền thống của lực lượng. Trong công tác và trong chiến đấu, một số cán bộ, chiến sĩ còn có tư tưởng trung bình chủ nghĩa, thiếu ý chí rèn luyện, phấn đấu vươn lên, thậm chí có biểu hiện phai nhạt lý tưởng, suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống. Bởi vậy, cùng với việc thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, lực lượng công an nhân dân cần xác định việc tăng cường đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là một giải pháp quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và xây dựng lực lượng công an nhân dân giai đoạn hiện nay.
Trong thời gian tới, để xứng đáng là lực lượng tiên phong, gương mẫu đi đầu trong đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII của Đảng, lực lượng công an nhân dân cần tiếp tục quán triệt, thực hiện tốt một số nội dung trọng tâm sau:
Một là, thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Công tác công an phải gắn chặt với đường lối chính trị của Đảng. Nếu thoát ly đường lối chính trị của Đảng, thì dù khéo mấy cũng không kết quả”(2), lực lượng công an nhân dân cần tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Công an nhân dân. Theo đó, phải tăng cường công tác đảng, công tác chính trị, tư tưởng trong Công an nhân dân, góp phần xây dựng lực lượng công an nhân dân vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. “Nhanh chóng hoàn thiện cơ chế, đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy và tổ chức đảng trong công an các cấp, thống nhất, xuyên suốt từ Trung ương đến cơ sở; xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa Đảng ủy Công an Trung ương với các tỉnh, thành ủy”(3). Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, chống địch cài cắm; đề cao tinh thần cảnh giác, chủ động, nhạy bén, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mưu đồ của các thế lực thù địch nhằm “phi chính trị hóa” lực lượng công an nhân dân. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương, ngăn chặn mọi biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, góp phần xây dựng hình ảnh đẹp của người cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân trong lòng nhân dân. 
Hai là, chủ động tham mưu với các cấp ủy, chính quyền trong thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự và tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến mọi tầng lớp nhân dân. Phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị ở cơ sở trong công tác bảo đảm an ninh, trật tự, trọng tâm là các địa bàn chiến lược, vùng có đông đồng bào các tôn giáo, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. Tiếp tục đẩy mạnh phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” trên mọi địa bàn, mọi lĩnh vực; xây dựng và củng cố nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân, gắn với nền quốc phòng toàn dân và thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc; kịp thời phát hiện những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị và đề xuất biện pháp xử lý phù hợp, không để các thế lực thù địch, phần tử xấu lợi dụng. Làm tốt hơn nữa vai trò tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các cấp trong việc giải quyết dứt điểm các vấn đề xã hội phức tạp nảy sinh, không để hình thành “điểm nóng” về an ninh, trật tự.
Ba là, tăng cường phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ với Quân đội nhân dân, các ban, ngành ở Trung ương và địa phương trong việc chủ động nghiên cứu, nắm chắc tình hình, dự báo sát, đúng những tình huống phức tạp có thể xảy ra để kịp thời tham mưu cho Đảng, Nhà nước ban hành và chỉ đạo thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật, chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Lực lượng công an nhân dân cũng cần chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng trong phòng ngừa, đấu tranh, không để kẻ địch, phần tử xấu xâm nhập, lôi kéo, móc nối, tác động “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; bảo đảm mọi chủ trương, đường lối của Đảng phải được thực hiện có hiệu quả trong thực tế. Đề cao cảnh giác, kịp thời phát hiện và kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm thù địch, sai trái; vạch trần những âm mưu và hành động lợi dụng một số vụ án, vụ việc tiêu cực để làm tổn hại tới khối đại đoàn kết toàn dân, hạ thấp vai trò, uy tín của Đảng, Nhà nước và lực lượng vũ trang nhân dân(4). Trong đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, cần quán triệt phương châm “Lấy chủ động phòng ngừa, giữ vững bên trong là chính”; đồng thời phải tỏ rõ dũng khí của lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, với tinh thần “thượng tôn pháp luật”, kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Bốn là, đổi mới nội dung, hình thức, nâng cao hiệu quả công tác dân vận của cấp ủy các cấp trong thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự, đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hòa bình” và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Theo đó, Công an nhân dân cần tăng cường lực lượng bám địa bàn cơ sở và phải gần dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, “sống trong lòng nhân dân” để xây dựng “thế trận lòng dân” vững mạnh, gắn với thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự ở địa bàn cơ sở. Mỗi cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân phải luôn thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về công tác dân vận, tiên phong trong tuyên truyền, vận động, giúp nhân dân nhận rõ âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, từ đó có biện pháp “tự bảo vệ mình” và tăng “sức đề kháng”, khả năng “tự miễn nhiễm” trước những thông tin, luận điệu xuyên tạc, quan điểm sai trái của các thế lực thù địch. Bảo vệ và củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, giữa nhân dân với Công an nhân dân trước âm mưu gây chia rẽ trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, lực lượng công an nhân dân phải trọng dân, lắng nghe nhân dân, vì nhân dân phục vụ, phải làm cho dân tin, dân yêu, dân ủng hộ, giúp đỡ... 
Năm là, phát huy vai trò của báo chí công an nhân dân trong tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Báo chí công an nhân dân cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan báo chí khác trong việc định hướng thông tin, tuyên truyền; phản ánh kịp thời, chính xác những vấn đề xã hội phức tạp; vạch trần âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ và đánh giá đúng những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Báo chí công an nhân dân phải là kênh thông tin quan trọng, chính thống và tin cậy không chỉ với lực lượng công an nhân dân mà với toàn xã hội về các vấn đề chính trị, xã hội, đặc biệt là trong đấu tranh phòng, chống các thế lực thù địch và các loại tội phạm; là “điểm tựa” để nhiều cơ quan báo chí khác triển khai đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, phản động. Để làm được điều đó, báo chí công an nhân dân phải không ngừng nâng cao chất lượng các bài viết phê phán những quan điểm sai trái và đổi mới phương thức truyền tải thông tin, nhằm thu hút sự quan tâm nhiều hơn của độc giả. Cơ quan quản lý báo chí và cơ quan báo chí công an nhân dân cần chú trọng xây dựng đội ngũ phóng viên, biên tập viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức nghề nghiệp và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, am hiểu pháp luật, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. 
Sáu là, mỗi cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân trên cương vị công tác của mình cần không ngừng rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng, nâng cao bản lĩnh chính trị, tăng cường khả năng tự bảo vệ mình trước tác động của “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Theo đó, cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân phải là những người tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước, với Tổ quốc và nhân dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; không ngừng học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và “Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân”; kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng; nêu cao tính tiền phong, gương mẫu trước Đảng, trước nhân dân; quyết tâm giữ mình trong sạch, không sa ngã trước những cám dỗ của các phần tử xấu, “lợi ích nhóm”, không để các thế lực thù địch lợi dụng, mua chuộc, lôi kéo, tác động, dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; luôn tận tụy với công việc, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân./.
----------------------------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 68
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 140
(3) Phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 74 được tổ chức tại Hà Nội vào ngày 3-1-2019
(4) Phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 74 được tổ chức tại Hà Nội vào ngày 3-1-2019

Nhập khẩu thuyết “Tam quyền phân lập” hay lá bài cổ xúy bất ổn chính trị, xung đột quyền lực


Khoản 3, Điều 2 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 ghi rõ: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước và cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước được hiến định nêu trên là cơ sở pháp lý quan trọng hàng đầu bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Thực tiễn chỉ ra rằng, việc phân định rõ ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là cách thức quan trọng để phát huy vai trò của nhà nước, đồng thời là cơ sở để kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước. Chúng ta đã tiếp thu mặt tiến bộ trong kỹ thuật tổ chức các thiết chế nhà nước trên thế giới, trong đó việc “phân công” và “phối hợp” giữa 3 nhánh quyền lực nhà nước (lập pháp, hành pháp và tư pháp) để tổ chức bộ máy nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, thể hiện rõ ở các bản hiến pháp Việt Nam, đặc biệt là Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Hiến pháp năm 2013.
Tuy vậy, trong thời gian gần đây vẫn còn một số cá nhân lợi dụng việc chậm cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở các cấp, tình trạng tham nhũng của một số cán bộ, đảng viên và việc hoạt động chưa thật sự hiệu quả của một số thiết chế trong bộ máy nhà nước... để phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức cũng như hoạt động của bộ máy nhà nước và tung hô, cường điệu hóa, lý tưởng hóa học thuyết “tam quyền phân lập”, coi nó là “phương thuốc vạn năng” cho kiểm soát quyền lực nhà nước và ngăn ngừa tham nhũng. Có thể khẳng định ngay rằng, đó là luận điệu sai trái, cực đoan và cơ hội chính trị. Học thuyết “tam quyền phân lập” được áp dụng trong tổ chức bộ máy nhà nước ở Mỹ, Anh, Pháp, Đức và một số nước phương Tây mặc dù có mang lại một số mặt tích cực, cần được nghiên cứu, tham khảo, nhưng không nên vì thế mà cường điệu hóa, lý tưởng hóa và xem nó như là chìa khóa vạn năng của “dân chủ - pháp quyền”, với mấy lý do sau đây: 
Một là, về phương diện lý luận, “tam quyền phân lập” là một học thuyết phức tạp, đa chiều, còn có nhiều ý kiến khác nhau. C.  Mác và Ph. Ăng-ghen khi nêu ra mặt tiến bộ của học thuyết về tam quyền phân lập đã nhấn mạnh rằng, sự phân chia quyền lực, thực chất, không phải là cái gì khác ngoài sự phân công lao động thực tế cơ cấu nhà nước nhằm làm đơn giản hóa và dễ kiểm soát. Ph. Ăng-ghen viết: “Sự phân quyền... trên thực tế chỉ là một sự phân công lao động tầm thường trong công nghiệp, được vận dụng vào bộ máy nhà nước nhằm mục đích đơn giản hóa và kiểm soát”(1). Dựa trên quan điểm của C.  Mác và Ph.  Ăng-ghen về sự cần thiết của việc phân công quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong hiến pháp, nhiều nhà triết học, nhà tư tưởng đã có chung quan điểm: Sự phân chia quyền lực là hệ thống các chế định pháp luật  - nhà nước hướng tới bảo đảm các phương tiện pháp lý có sự độc lập tương đối của các cơ quan nhà nước với nhau(2). Còn G.V.Ph.  Hê-ghen khẳng định rằng, phân chia quyền lực chỉ nên dừng lại ở khái niệm; nếu sự phân chia quyền lực vượt giới hạn của khái niệm và trở thành hiện thực thì quyền lực sẽ không thể nào còn thống nhất lại được nữa. Các nhánh quyền lực tách rời nhau tới mức phân liệt, kiềm chế  - đối trọng, đối lập và chống lại nhau. Lúc đó, muốn có được quyền lực nhà nước thống nhất lại phải dùng đến đại bác. Thực tiễn xung đột chính trị ở Liên bang Nga sau khi Liên Xô sụp đổ đã chứng tỏ lời cảnh báo của G.V.Ph.  Hê-ghen hoàn toàn có cơ sở khoa học. Khi đó, việc áp dụng máy móc thuyết “tam quyền phân lập” của phương Tây đã đẩy Liên bang Nga vào tình trạng đối đầu, xung đột, không thể thỏa hiệp giữa hai nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp. Rốt cuộc, vào tháng 10-1993, Tổng thống Liên bang Nga B.  En-xin đã ra lệnh cho xe tăng bắn vào Tòa nhà Quốc hội, sử dụng bạo lực để giải tán Quốc hội Nga do dân bầu lên, chấm dứt xung đột, đối đầu giữa hai phe lập pháp và hành pháp. Nói cách khác, khi quyền lực đã phân chia, đối trọng không thể thống nhất lại được nữa bằng giải pháp chính trị thì B.  En-xin đã sử dụng đại bác để thống nhất quyền lực. Cũng từ bài học thực tiễn về việc để mất sự kiểm soát của chính quyền trung ương đối với chính quyền các địa phương do áp dụng “phân quyền” cực đoan dưới thời Tổng thống Nga B.  En-xin, ngày 1-9-2000, cùng với việc ký sắc lệnh thành lập Nhà nước Liên bang Nga với 89 chủ thể - chia thành 7 khu vực Liên bang, Tổng thống Nga V. Pu-tin đã phê chuẩn Quy chế Hội đồng nhà nước, bao gồm: Tổng thống và tất cả những người đứng đầu chủ thể Liên bang. Chủ tịch Hội đồng Nhà nước là Tổng thống; Thư ký Hội đồng Nhà nước do Tổng thống bổ nhiệm. Cùng với việc ban hành Hiến pháp mới - thay thế cơ chế phân quyền bằng phân công và phối hợp quyền lực, Quy chế Hội đồng Nhà nước là thiết chế ngăn ngừa có hiệu quả sự phân tán quyền lực vô hạn độ, vô tổ chức lúc bấy giờ ở Nga.
Phân quyền là một tư tưởng phức tạp, đa chiều nên được hiểu rất khác nhau. Mỹ, Anh và các nước châu Âu chia quyền lực nhà nước thành ba loại quyền: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp (xét xử); cùng với đó là ba cơ quan thực hành từng loại quyền lực này một cách độc lập theo cơ chế kiềm chế và đối trọng (kiểm tra và chế ước lẫn nhau). Một số nhà lập pháp Mỹ La-tinh chia quyền lực nhà nước thành bốn loại quyền: quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp (xét xử) và quyền bầu cử (thuộc về tổ chức bầu cử  - hội đồng bầu cử). Hiến pháp Ni-ca-ra-goa năm 1986 do Đảng Xã hội - Thiên chúa giáo đối lập đưa ra tới năm loại quyền: quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp (xét xử), quyền bầu cử và quyền kiểm tra. Hiến pháp năm 1976 của An-giê-ri quy định sáu loại quyền, gồm: quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp, quyền chính trị, quyền kiểm tra và quyền tổ chức.... 
Phân quyền ngoài được hiểu theo chiều ngang (giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương: lập pháp, hành pháp, tư pháp), còn được hiểu theo chiều dọc (giữa các lực lượng chính trị khác nhau, giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với các cơ quan nhà nước ở địa phương, giữa nhà nước liên bang với các bang thành viên và giữa các cơ quan nhà nước ở địa phương).
Hai là, về phương diện thực tiễn, do những hạn chế của học thuyết “tam quyền phân lập” mà mức độ, tính chất và đặc điểm của sự thể hiện và áp dụng nó trong thực tế có sự khác nhau ở mỗi kiểu nhà nước, phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như trình độ dân chủ, truyền thống dân tộc, cũng như tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi nước. Sự áp dụng học thuyết này trong nhà nước theo chính thể cộng hòa tổng thống khác với chính thể cộng hòa đại nghị hoặc chính thể cộng hòa hỗn hợp...; trong hình thức cấu trúc nhà nước liên bang khác với hình thức cấu trúc nhà nước đơn nhất. 
Trong chính thể cộng hòa tổng thống, điển hình là nhà nước Mỹ, tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc phân chia quyền lực tuyệt đối “cứng rắn”, tách biệt triệt để ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Thay cho cơ chế chịu trách nhiệm lẫn nhau giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp là cơ chế “kiềm chế và đối trọng”. Theo đó, có sự độc lập hoàn toàn của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trong thực thi quyền lực nhà nước; sự phân quyền giữa nhà nước liên bang với nhà nước tiểu bang. Trên thực tế, việc áp dụng nguyên tắc phân quyền vào tổ chức quyền lực nhà nước ở Mỹ bộc lộ những hạn chế, yếu kém như sau:
1- Chế độ cộng hòa tổng thống với việc áp dụng tư tưởng phân quyền tuyệt đối trên thực tế có nhiều nét tương đồng với chế độ quân chủ hạn chế, hay nói cách khác, hai chế độ đó được đem lồng vào một nền cộng hòa. Sự khác biệt ở đây chỉ đơn giản là vua được thay bằng tổng thống. 
2- Theo hiến định, Quốc hội Mỹ mang tính dân chủ đại diện, nhưng trên thực tế, tính đại diện luôn được biểu hiện dưới hình thức đặc quyền. Thực chất, Quốc hội là một thiết chế của những người có đặc quyền: Nghị sĩ được bầu là những người thuộc về một tầng lớp bề trên, có trình độ học vấn và khả năng tài chính lớn, không đúng với quy định của Hiến pháp Mỹ về sự bình đẳng của mọi công dân trong bầu cử và ứng cử. 
3- Sự bành trướng ghê gớm của bộ máy hành pháp cả về quy mô lẫn chất lượng. Quyền lực đang chuyển từ các lĩnh vực kinh tế và chính trị sang các cơ quan hành chính. Bộ máy hành pháp thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống chính trị - xã hội... Ngân sách nhà nước phải chi phí một khoản quá lớn để duy trì và nuôi bộ máy hành pháp khổng lồ; kéo theo chi phí đắt đỏ cho đời sống xã hội, cùng với đó là những khó khăn về nhà ở, y tế không đáp ứng kịp yêu cầu xã hội.
4- Kết quả hoạt động (độc lập và chỉ tuân theo pháp luật) của hệ thống tư pháp Mỹ vẫn là phụ thuộc vào nhân tố con người - các vị luật sư, công tố viên, thẩm phán và bồi thẩm. Và với tuyên bố “Tòa án đứng độc lập, đối trọng với các nhánh quyền lực khác được xem là thành trì bảo vệ cuối cùng trong pháo đài nhà nước nhằm chống lại mọi sự đe dọa đối với các nguyên tắc, các giá trị nền tảng của xã hội Mỹ”, có thể thấy rõ rằng, quá trình tư pháp Mỹ vẫn là biểu hiện của quá trình chính trị.
Trong chính thể cộng hòa đại nghị, như ở Anh, Đức, hay chính thể cộng hòa hỗn hợp như ở Pháp, sự phân chia quyền lực không cứng nhắc, biệt lập, mà với các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, mỗi cơ quan đảm nhiệm một quyền và sự đảm nhiệm đó đan xen vào nhau, lệ thuộc và chịu sự giám sát lẫn nhau, đồng thời có sự phối hợp với nhau. Tuy nhiên, điều đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố khi được vận dụng ở các nước khác nhau. Theo đó, cách thức tổ chức thực thi quyền lực này thường bị biến dạng, làm cho sự phân chia và phối hợp thực thi quyền lực mang tính hình thức và tượng trưng. Trên thực tế, mọi quyền lực được tập trung vào một nơi: hoặc vào hành pháp (như ở Pháp), hoặc vào lập pháp (như ở Anh). 
Ba là, về bản chất và nguồn gốc của quyền lực nhà nước, quyền lực nhà nước là thống nhất; mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước. Khi quyền lực nhà nước là thống nhất và thuộc về nhân dân, thì về nguyên tắc, quyền lực nhà nước không thể phân chia (chia sẻ cho cá nhân hay tổ chức nào khác); các cơ quan nhà nước khi thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là thực hiện các quyền của nhân dân giao phó, ủy quyền.
Tư tưởng phân quyền, về bản chất, đối lập với tư tưởng thống nhất quyền lực. G.G. Rút-xô phủ nhận sự phân chia quyền lực về mặt chính trị - xã hội và cho rằng, quyền lực cần phải bắt nguồn từ nhân dân. Nói đúng hơn, đó không phải là sự phân chia quyền lực, mà là sự phân công chức năng giữa các cơ quan quyền lực nhà nước thống nhất(3). 
Nhận biết những hạn chế lịch sử của học thuyết “tam quyền phân lập” và nhược điểm của “cơ chế phân quyền”, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ở Nga được hiến định theo “nguyên tắc phân công quyền lực”. Theo hiến định, ở Nga, các cơ quan quyền lực nhà nước là những thiết chế độc lập với nhau trong thực thi các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Song quyền lực nhà nước là thống nhất, không phân chia một cách cứng nhắc và biệt lập, mà có sự phân công quyền lực hợp lý giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nguyên tắc phân công quyền lực được xây dựng trên cơ sở nguyên lý và thực tiễn quyền lực nhà nước là thống nhất, mọi quyền lực thuộc về nhân dân nhiều dân tộc Nga (khoản 1, Điều 3 Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993). Phân công quyền lực đồng thời phải có sự phối hợp hoạt động của các nhánh quyền lực trong thực thi quyền lực thống nhất. Nhân dân thực hiện quyền lực thông qua các cơ quan quyền lực nhà nước và các cơ quan tự quản ở địa phương (khoản 1 và 2, Điều 3). Phân công và phối hợp quyền lực (khoản 3, Điều 5, Điều 10 và Điều 80)... để tránh tình trạng các cơ quan quyền lực nhà nước độc lập, không phụ thuộc, có nguy cơ dẫn tới biệt lập, tách rời và đối lập nhau; Nhà nước cần phải xây dựng cơ chế phối hợp (kiểm tra và chế ước) hoạt động của ba nhánh quyền lực. Vì tầm quan trọng của cơ chế này cho nên, về cơ bản, nó được Hiến pháp Nga quy định hết sức chặt chẽ và được phê chuẩn bằng Pháp lệnh số 549, ngày 13-4-1996, của Tổng thống Nga, “Về trình tự phối hợp của Tổng thống Liên bang Nga với các viện của Quốc hội Liên bang Nga trong quá trình lập pháp”.
Cơ chế phối hợp hoạt động của các nhánh quyền lực nhà nước ở Nga được thực hiện có hiệu quả thông qua những quy định của Hiến pháp về vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn và chức năng của Tổng thống Nga. Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993 ghi rõ: Tổng thống Liên bang Nga có quyền áp dụng mọi biện pháp để bảo vệ chủ quyền của Liên bang Nga, sự độc lập, thống nhất và toàn vẹn của quốc gia, bảo đảm phối hợp hoạt động và liên hệ chặt chẽ giữa các cơ quan quyền lực nhà nước (khoản 2, Điều 80). Tổng thống Nga, xét trên nhiều phương diện, có vị trí đặc biệt và giữ vai trò quan trọng trong việc bảo đảm sự phối hợp thống nhất giữa các nhánh quyền lực nhà nước. Chúng ta có thể hình dung vị trí của Tổng thống Nga như là mắt xích liên hệ giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp, là người trọng tài cao nhất của Nhà nước. Hoạt động phối hợp quyền lực của Tổng thống Nga thể hiện chủ yếu trên những bình diện: Trong lĩnh vực nhân sự cao cấp của bộ máy nhà nước Liên bang (Điều 83); trong lĩnh vực lập pháp (Điều 104 và Điều 105); trong lĩnh vực tư pháp (khoản 3, Điều 93; khoản 1, Điều 111; khoản 4, Điều 117). 
Sự phối hợp hoạt động của Tổng thống Nga còn được thể hiện ở một số mặt hoạt động khác của Tổng thống với tư cách là người đứng đầu Nhà nước. Tổng thống có trách nhiệm cao ở cả lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trách nhiệm của Tổng thống là phải phát huy cao độ vai trò của các nhánh quyền lực nhà nước trong quản lý, điều hành xã hội; xác định phương hướng cơ bản trong chính sách đối nội và đối ngoại của Nhà nước. Để giải quyết xung đột giữa các cơ quan quyền lực nhà nước Liên bang Nga và giữa các cơ quan quyền lực nhà nước của các chủ thể trong Liên bang Nga với nhau, Hiến pháp trao cho Tổng thống quyền sử dụng các giải pháp thỏa hiệp và trong trường hợp không đạt được sự thỏa hiệp, Tổng thống có thể đặt vấn đề cần giải quyết ra trước một tòa án tương xứng (khoản 1, Điều 85). Hiến pháp cũng trao cho Tổng thống quyền chấm dứt hiệu lực những văn bản của các cơ quan hành pháp thuộc các chủ thể trong Liên bang Nga, nếu như những văn bản đó trái với Hiến pháp và các luật của Nga, trái với các chuẩn mực quốc tế mà Nga thừa nhận, hoặc vi phạm quyền và tự do của con người, của công dân trước khi vấn đề đó được giải quyết bằng một tòa án tương xứng. Ngoài ra, Hiến pháp còn quy định: Mặc dù Tổng thống Nga là Tổng Tư lệnh tối cao của các lực lượng vũ trang Nga nhưng pháp lệnh của Tổng thống về tình trạng chiến tranh, về tình hình đặc biệt chỉ có hiệu lực pháp lý khi được Hội đồng Liên bang phê chuẩn. Đồng thời, Hội đồng Liên bang cũng quyết định vấn đề về khả năng sử dụng các lực lượng vũ trang ở ngoài lãnh thổ Nga (khoản 1, Điều 87 và các điểm b , c , d, khoản 1, Điều 102).
Từ lý luận và những thực tiễn nêu trên, có thể thấy, việc nghiên cứu, tham khảo tư tưởng “tam quyền phân lập” trong xây dựng, tổ chức bộ máy nhà nước ở Việt Nam phải trên tinh thần: Không tiếp thu một cách rập khuôn, máy móc tư tưởng “tam quyền phân lập”, mà phải biết gạn lọc những yếu tố kỹ thuật hợp lý của nó cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Bởi, một học thuyết hay một mô hình... dù đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn của một nước cũng không thể được coi là chân lý để có thể vận dụng vào bất kỳ nước nào. 
Khác với nhà nước tư sản, Việt Nam tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc thống nhất quyền lực, không phân lập, nhưng có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Bản chất của sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là: phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của mỗi loại hình cơ quan nhà nước, nhờ đó hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước được nâng cao; tránh sự trùng lặp, chồng chéo, mâu thuẫn giữa các cơ quan trong việc thực hiện ba quyền với những chức năng, nhiệm vụ cụ thể của từng cơ quan, bảo đảm sự vận hành nhịp nhàng, đồng bộ của cả bộ máy nhà nước trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước thống nhất. Nội dung của nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp thể hiện trước hết ở chỗ, quyền lực nhà nước luôn thuộc về nhân dân; nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước. 
Chúng ta đã tiếp thu những nhân tố hợp lý trong cách thức tổ chức nhà nước theo học thuyết “tam quyền phân lập”, thể hiện rõ ở các bản hiến pháp Việt Nam, đặc biệt là Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Hiến pháp năm 2013. Cụ thể là:
Theo quy định của Hiến pháp năm 1946, Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, do công dân Việt Nam bầu ra, có “quyền đặt ra các pháp luật”; Chính phủ là cơ quan hành pháp cao nhất của toàn quốc, được hiểu là cơ quan hành pháp cao nhất, bao gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Nội các; cơ quan tư pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gồm có Tòa án tối cao, các tòa án phúc thẩm, các tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp, là cơ quan độc lập với Nghị viện nhân dân và Chính phủ, các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật trong khi xét xử, các cơ quan khác không được can thiệp. So với Hiến pháp năm 1946, mức độ thể hiện sự phân định quyền lực ở Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980 có thay đổi, nhưng về cơ bản, Quốc hội vẫn là cơ quan lập pháp, Hội đồng Chính phủ (theo Hiến pháp năm 1959) hay Hội đồng Bộ trưởng (theo Hiến pháp năm 1980) vẫn là cơ quan hành pháp và tòa án, viện kiểm sát thực hiện chức năng của cơ quan tư pháp
Cụ thể hóa đường lối đổi mới, Hiến pháp năm 2013 đã thể chế hóa nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước trên tinh thần giữ vững bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, vận dụng những nhân tố hợp lý của các học thuyết tổ chức quyền lực nhà nước tiến bộ và đề ra nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ mới: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp (Điều 2 Hiến pháp năm 2013). Khác với nguyên tắc “tam quyền phân lập”, trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, không phân chia và thuộc về nhân dân.
Quyền lực nhà nước ở nước ta bắt nguồn từ nhân dân, nhưng thống nhất và tập trung vào Quốc hội. Quyền lực nhà nước thống nhất và tập trung vào Quốc hội nhưng được phân công cụ thể, rành mạch, trong đó Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, được phân công thực hiện quyền lập pháp; Chính phủ thực hiện quyền hành pháp; tòa án nhân dân cùng với viện kiểm sát nhân dân được phân công thực hiện quyền tư pháp. Về các cơ quan nhà nước ở địa phương, hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp đặt dưới sự chỉ đạo của các cơ quan chính quyền cấp trên, phải phục tùng mọi quyết định của chính quyền trung ương. Trong phạm vi quyền hạn được pháp luật quy định, các cơ quan nhà nước ở địa phương có quyền chủ động phát huy sáng kiến, đề ra các biện pháp để thi hành pháp luật, quyết định, chỉ thị của cấp trên nhưng tuyệt đối không được đặt ra những quy định trái với văn bản pháp luật và các văn bản khác của chính quyền cấp trên. Sự phân công chặt chẽ, rõ ràng đó chỉ có thể đạt được trên thực tế nếu có sự giám sát nhau. Giám sát là rất cần thiết, nhưng giám sát không phải là đối trọng, đối lập nhau. Sự giám sát thể hiện ở chỗ, Chính phủ chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội về những hoạt động của mình; Quốc hội chất vấn và ra những nghị quyết về công tác của Chính phủ; Quốc hội có thể tín nhiệm hay không tín nhiệm Chính phủ hoặc cá nhân bộ trưởng./.

Liệu xung đột văn hóa có thay thế cho đấu tranh giai cấp?


Có thể thấy thời gian gần đây, trên thế giới xảy ra không ít những cuộc chiến có liên quan tới sắc tộc hay những xung đột do văn hóa khiến xuất hiện nhiều quan điểm cho rằng, ngày nay xung đột văn hóa có thể thay thế cho đấu tranh giai cấp. Tuy nhiên, nếu nhìn thẳng vào bản chất sẽ thấy những xung đột đó chủ yếu do nguyên nhân địa - kinh tế hoặc địa - chính trị. Và dù đã có những thay đổi đáng kể về hình thức đấu tranh đòi quyền sống, quyền dân chủ và sự công bằng xã hội, nhưng đấu tranh giai cấp vẫn đang tiếp diễn trong những điều kiện mới.
1- Trong vài chục năm qua, trên thế giới đã có những nghiên cứu về sự va chạm, sự xung đột văn hóa ở những vùng, những khu vực thuộc các nền văn minh khác nhau hoặc các chế độ xã hội khác nhau, nhưng có lẽ một trong những người đã bỏ ra nhiều công sức để phân tích sự va chạm hay sự xung đột giữa các nền văn hóa và văn minh ấy chính là Xa-mu-en Phi-líp Hăn-tinh-tơn (Samuel Phillips Huntington) - nhà nghiên cứu chính trị và chiến lược người Mỹ, đã từng là Chủ tịch Hội Khoa học chính trị Mỹ, trong các bài báo Sự va chạm giữa các nền văn minh và Nếu không phải là các nền văn minh thì là cái gì? (Tạp chí Foreign Affairs, 1993) và tập trung nhất là trong công trình Sự va chạm của các nền văn minh(1) (năm 1996). 
Quan niệm của X.Ph. Hăn-tinh-tơn về khái niệm văn hóa được trình bày trong công trình Sự va chạm của các nền văn minh này dường như đồng nhất với khái niệm văn minh. Hoặc theo ông, cơ sở của sự đụng độ, sự xung đột giữa các nền văn minh chính là văn hóa. Cần ghi nhận rằng, trong công trình này, X.Ph. Hăn-tinh-tơn đã đưa ra một số cảnh báo cần phải được lưu tâm về hậu quả xã hội của sự va chạm, sự đụng độ hay mạnh hơn là sự xung đột do những sự khác biệt, những mâu thuẫn trong văn hóa gây nên. 
Tuy nhiên, một trong những điều cần phải nói đến ở công trình Sự va chạm của các nền văn minh của X.Ph. Hăn-tinh-tơn là ông coi nguồn gốc của các xung đột trên thế giới từ khi Chiến tranh lạnh kết thúc trở đi sẽ không còn là hệ tư tưởng, cũng không còn là nguyên nhân kinh tế mà nguồn gốc quan trọng nhất chia rẽ các dân tộc, các quốc gia sẽ là các xung đột về văn hóa. X.Ph. Hăn-tinh-tơn viết: “Trong thế giới này, các cuộc xung đột dữ dội, quan trọng và nguy hiểm nhất không phải giữa các tầng lớp xã hội, giữa giàu và nghèo mà [là] giữa các dân tộc thuộc về các chính thể văn hóa khác nhau”(2). 
Quan điểm trên đây của X.Ph. Hăn-tinh-tơn giống quan điểm của Va-clap Ha-ven (Vaclav Havel)(3)  và  Giắc-cơ  Đờ-lo  (Jacques  Delors)(4). Theo V. Ha-ven, xung đột văn hóa ngày càng tăng và chưa khi nào trong lịch sử nó nguy hiểm như ngày nay. Quan điểm trên của X.Ph. Hăn-tinh-tơn càng giống hơn nữa với quan điểm của Gi. Đờ-lo khi ông này cho rằng, các xung đột trong tương lai sẽ được châm ngòi bằng những yếu tố văn hóa chứ không phải kinh tế hay ý thức hệ tư tưởng. 
Như vậy, theo X.Ph.  Hăn-tinh-tơn và những người cùng quan điểm, hiện tại và cả trong tương lai, sự đụng độ, sự xung đột văn hóa giữa và trong nội bộ các nền văn minh của nhân loại sẽ trở thành nhân tố chủ yếu chi phối nền chính trị thế giới. Không những vậy, theo X.Ph. Hăn-tinh-tơn, sự xung đột giữa tầng lớp những người giàu có và tầng lớp những người nghèo khổ sẽ không còn đóng vai trò quan trọng trong đời sống chính trị và xã hội thế giới. Hơn thế nữa, điều đó có nghĩa là, sẽ không còn diễn ra sự đấu tranh nào giữa người giàu và người nghèo trong xã hội; không còn phải lo đến chuyện đấu tranh đòi quyền bình đẳng hay sự công bằng xã hội cũng chính là sẽ không còn cuộc đấu tranh giai cấp ở mỗi nước và trên phạm vi toàn thế giới. Trong thế giới đương đại, theo X.Ph. Hăn-tinh-tơn, sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc thì ranh giới giữa các nền văn minh, mà cốt lõi là văn hóa, sẽ trở thành chiến tuyến mới. 
Vì sao X.Ph.  Hăn-tinh-tơn và những người cùng quan điểm với ông lại đặt sự xung đột dữ dội về văn hóa thay cho sự xung đột giàu  - nghèo, thay cho sự xung đột giữa các tầng lớp trong xã hội và tạo cơ sở để suy rộng ra là thay cho đấu tranh giai cấp? Phải chăng do X.Ph. Hăn-tinh-tơn chỉ nhìn thấy sự khác biệt, những mâu thuẫn, những nhược điểm và những hạn chế, hay nói chung, chỉ thấy mặt tiêu cực mà không nhìn thấy hay cố tình không nhìn thấy những giá trị căn bản, giá trị cốt lõi, nổi trội, phổ biến của văn hóa mà xưa nay vốn được nhân loại tôn sùng, hướng tới và vẫn đang tiếp tục hướng tới, đó là những giá trị Chân - Thiện - Mỹ? 
Chúng tôi cho rằng, trong thời đại toàn cầu hóa, chính các giá trị vốn đã tồn tại hàng nghìn đời cùng với nhân loại đã kéo mọi người xích gần lại với nhau hơn; đã mở ra những cơ hội để cho các dân tộc đối thoại với nhau, để trao đổi, giao lưu và học hỏi lẫn nhau chứ không phải là ngược lại. Sở dĩ các quốc gia có điều kiện để phát triển đất nước, để đạt được tiến bộ một phần rất quan trọng là nhờ có văn hóa hòa bình, nhờ có văn hóa khoan dung và nhờ có sự đối thoại chân thành, cởi mở, bình đẳng. Đành rằng, thực tế là trong lịch sử đã có những cuộc thanh trừng sắc tộc, sự kỳ thị với người Hồi giáo, người Do Thái, đặc biệt là vẫn đang diễn ra tại nhiều nơi với những người da màu, tuy nhiên, những cuộc thanh trừng ấy chủ yếu liên quan đến lãnh thổ, đến kinh tế, nói chung là đến địa - chính trị, địa - kinh tế, đến nạn phân biệt chủng tộc chứ không phải là vì sự khác biệt về văn hóa, không phải do xung đột văn hóa. 
Câu hỏi đặt ra là liệu hiện nay và mai sau xung đột văn hóa có thay thế hoàn toàn cho xung đột lợi ích giai cấp và đấu tranh giai cấp hay không? Có phải trong tương lai nguyên nhân dẫn đến các xung đột xã hội sẽ là các yếu tố văn hóa chứ không phải do sự bất bình đẳng về kinh tế - xã hội, do sự phân cực giàu nghèo hay không?
2- Có thể hiểu xung đột (“conflicts”) theo hai nghĩa. Thứ nhất, xung đột là sự không tương thích, không khớp nhau giữa các thành phần, các bộ phận, các yếu tố cấu thành của một hệ thống. Chính sự không tương thích, không khớp nhau ấy sẽ dẫn đến hệ quả khó có thể lường trước, thậm chí khó tránh khỏi là sự vận hành trục trặc, hoặc nặng nề hơn là sự sụp đổ, phá vỡ của hệ thống đó. Thứ hai, xung đột trong xã hội là sự va chạm mạnh mẽ, sự chống đối nhau do mâu thuẫn gay gắt không thể giải quyết bằng các biện pháp dung hòa hay thỏa hiệp. 
Mặc dù từ lâu vấn đề xung đột đã được nghiên cứu sâu trong những lĩnh vực quan hệ quốc tế, xã hội học, chính trị học,... nhưng sự xung đột trong văn hóa, đặc biệt là sự xung đột giữa các nền văn minh, thì mới được bàn đến nhiều trong khoảng mấy chục năm gần đây.
Lịch sử nhân loại từ xa xưa đến nay cho thấy đã xảy ra những xung đột văn hóa thuộc các cấp độ khác nhau. Có cuộc xung đột trong xã hội mà lúc đầu chỉ là những sự khác biệt, những mâu thuẫn nhỏ nhặt, lẻ tẻ trong một phạm vi rất hẹp có thể liên quan đến văn hóa, tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà những sự khác biệt văn hóa, những mâu thuẫn lẻ tẻ ấy không được giải quyết kịp thời, bị tích tụ lại, dần dần mở rộng ra thành những xung đột văn hóa, thậm chí đôi khi có thể trở thành những cuộc chiến tranh giữa các khu vực, các vùng lãnh thổ. Điều này cũng đã từng xảy ra giữa các khu vực vốn có niềm tin tôn giáo và có hệ thống các giá trị văn hóa khác nhau. 
Như vậy, sự xung đột trong xã hội có mối quan hệ chặt chẽ với sự phát sinh và tồn tại của những mâu thuẫn. Trong triết học biện chứng duy tâm của Hê-ghen và triết học biện chứng duy vật mác-xít, khái niệm mâu thuẫn được dùng để chỉ cả những mối liên hệ thống nhất lẫn sự đấu tranh, sự chuyển hóa giữa các mặt đối lập trong mỗi sự vật, mỗi hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau; nghĩa là mâu thuẫn được coi là mối quan hệ giữa các yếu tố, các khuynh hướng trái ngược nhau trong cùng một đối tượng hoặc giữa các đối tượng trong cùng một hệ thống. Khi không được giải quyết kịp thời, các mâu thuẫn sẽ phát triển tới mức cao nhất là phủ định lẫn nhau và hình thức biểu hiện cao nhất ra bên ngoài chính là sự xung đột. Như vậy, xung đột là sự biểu hiện ra bên ngoài, là hiện tượng hay cũng có thể nói là sự tồn tại khác của mâu thuẫn, còn mâu thuẫn chính là bản chất bên trong của sự vật hay hiện tượng. 
Sự xung đột trong một xã hội được thể hiện ở các mức độ khác nhau. Chẳng hạn, ở mức độ nhẹ nhất thì đó là sự bày tỏ thái độ phản đối, chống đối bằng ngôn từ, bằng kiến nghị hoặc bằng yêu sách; ở mức độ cao hơn là sự phản đối bằng hành động phi bạo lực, như biểu tình, lãn công, đình công hoặc tổng bãi công; ở mức độ cao nhấtthì đó là hình thức chủ động đấu tranh bằng cách sử dụng bạo lực chính trị kết hợp vũ trang hoặc cũng có thể chỉ bằng bạo lực vũ trang đơn thuần. Như vậy, có thể nói, xét về bản chất, mọi xung đột đều bắt nguồn từ sự khác biệt, sự không dung hợp, sự mâu thuẫn giữa các thành phần, các yếu tố, các đối tượng hoặc các chủ thể khác nhau. 
Trước khi bàn về xung đột văn hóa, cần hiểu cho thống nhất một cách tương đối về khái niệm văn hóa. 
Chúng ta đều biết, mỗi dân tộc đều có nền văn hóa riêng của dân tộc mình, trong đó tính đa dạng, sự phong phú và sự độc đáo về bản sắc là những nét nổi trội nhất. Vì văn hóa là một trong những đặc trưng tiêu biểu của loài người và chỉ có ở loài người cho nên văn hóa vừa mang tính người, vừa mang tính xã hội. Do vậy, khi xã hội có những chuyển động theo các chiều hướng khác nhau thì những chuyển động đó sẽ được phản ánh dưới các góc độ khác nhau trong văn hóa. Nói cách khác, văn hóa chính là trình độ phát triển lịch sử của xã hội và của con người biểu hiện trong các kiểu, các cách thức tổ chức đời sống và hành động của con người, cũng như trong tổ hợp các giá trị vật chất, các giá trị tinh thần cùng các chuẩn mực hành vi do con người sáng tạo ra để điều chỉnh hành vi con người và được tích lũy lại, được làm phong phú thêm trong quá trình con người tương tác với thiên nhiên và trong quan hệ con người với con người trong xã hội. 
Như vậy, văn hóa chính là những dấu ấn của một cộng đồng người, của một dân tộc được ghi lại, được truyền lại cho các thế hệ kế tiếp trong các phong tục, tập quán, thói quen, nghi lễ thờ cúng dân gian; trong các tôn giáo; trong cách thức ứng xử, cách giao lưu của con người; trong các quan hệ xã hội; trong luật pháp cũng như trong các công trình kiến trúc và các tác phẩm nghệ thuật; trong những tạo phẩm vật chất,... được con người làm ra ở những giai đoạn lịch sử khác nhau. Cho nên khi nói đến văn hóa của một tộc người hay của một quốc gia dân tộc, trước hết là nói đến những gì tương đối ổn định, gắn bó mật thiết với con người mà nếu thiếu nó thì con người sẽ cảm thấy vô vị, mất phương hướng, thậm chí là vô vọng. Tuy nhiên, văn hóa không phải là cái hoàn toàn bất biến, cũng không phải là những gì mãi mãi cố định, không có bất cứ sự bổ sung nào. Hơn thế nữa, văn hóa bao hàm trong nó quan hệ giao tiếp, thái độ lẫn cung cách ứng xử, sự học hỏi lẫn nhau, do vậy, nó không chấp nhận sự bài ngoại hay sự biệt lập và nhất là không chịu tự trói buộc mình quá ngặt nghèo vào truyền thống, vào quá khứ. 
Các giá trị văn hóa của một cộng đồng người hay của cả một dân tộc đóng vai trò là chất gắn kết chặt chẽ tất cả những con người trong cộng đồng hay dân tộc đó. Vì lẽ ấy mà các giá trị văn hóa lâu đời của một cộng đồng hay của một quốc gia - dân tộc luôn được gìn giữ hết sức thành kính và cẩn trọng; càng được ra sức bảo vệ trong những thời khắc vô cùng khó khăn, khốc liệt của lịch sử như chiến tranh và làm cho chúng ngày càng phong phú thêm. Cũng chính vì lẽ ấy mà sự xung đột về văn hóa đôi khi có thể là nguyên cớ dẫn đến sự xung đột giữa các quốc gia - dân tộc. Song, sự xung đột vì nguyên cớ này chỉ là những trường hợp vô cùng hiếm hoi và hết sức cá biệt. Bởi vì, lịch sử nhân loại đã cho thấy, sự khác biệt về văn hóa không phải lúc nào cũng là căn nguyên chủ yếu dẫn đến sự chia rẽ, cũng không dẫn đến những mâu thuẫn không thể giải quyết và nhất là càng không dẫn đến sự xung đột giữa các dân tộc, các quốc gia. Chúng ta thấy rất rõ rằng, các nền văn hóa từ văn hóa cổ đại Ai Cập, văn hóa Hy Lạp - La Mã, văn hóa thời kỳ Phục hưng cho đến văn hóa Khai sáng ở châu Âu và văn hóa trong thế giới đương đại đều có những điểm tương đồng là đối thoại, tiếp nhận, tiếp biến, hòa hợp, khoan dung và học hỏi lẫn nhau. Như vậy, văn hóa tuyệt nhiên không phải là nguồn gốc, cũng không phải là nguyên cớ hay là nguyên nhân chủ yếu của những sự chia rẽ, những mối bất hòa hay của những xung đột xã hội. Ngược lại, văn hóa chính là chất kết dính mọi người lại với nhau, khơi dậy lại, vun đắp lòng khoan dung, tính vị tha ở mỗi con người, ở dân tộc này đối với dân tộc khác mà có thể một lúc nào đó bị lãng quên, bị phai nhạt vì những lý do khác nhau.
Xung đột trong văn hóa được hiểu là sự khác biệt văn hóa bị đẩy đến mức mâu thuẫn gay gắt, đến sự phủ định lẫn nhau giữa các giá trị và bản sắc văn hóa khác nhau. Sự xung đột này thể hiện rõ nhất là trong tín ngưỡng, phong tục, tập quán, lối sống dưới nhiều hình thức, song suy đến cùng, về bản chất, nó là sự va chạm, sự đụng độ mạnh mẽ, sự đối lập gay gắt giữa các quan niệm khác nhau về giá trị và hệ thống các giá trị. Một khi sự va chạm, sự đụng độ mạnh mẽ, sự đối lập gay gắt ấy nếu không được giải quyết một cách khéo léo, kịp thời, hợp lý và theo tinh thần khoan dung thì rất có thể sẽ dẫn đến xung đột văn hóa. 
Trên phạm vi thế giới, ở một mức độ nhất định chúng ta đã từng và vẫn đang được chứng kiến sự xung đột văn hóa giữa phương Đông và phương Tây, giữa văn hóa Hồi giáo và văn hóa châu Âu Thiên chúa giáo,... thông qua rất nhiều sự biến ở các nước và các khu vực khác nhau. Sự xung đột ấy trước hết phản ánh sự mâu thuẫn giữa hệ thống các giá trị hoặc các giá trị riêng lẻ, giữa các bản sắc, các yếu tố phổ biến trong các cộng đồng dân tộc, như phong tục, tập quán, lối sống, ngôn ngữ, niềm tin, tín ngưỡng,... do các mâu thuẫn không được giải quyết kịp thời. Phải thừa nhận rằng, bên cạnh sự xung đột dễ nhận ra ấy thì đúng là ngay trong lòng các xã hội Hồi giáo và Thiên chúa giáo cũng có lúc đã thể hiện một điều khác rất đáng quan tâm, đó là tinh thần khoan dung đối với người không cùng văn hóa, không cùng tín ngưỡng, không cùng tôn giáo đã giảm đi rõ rệt trong vòng vài chục năm qua(5).
Bên cạnh đó, các nền văn hóa khác nhau còn có những nguyên tắc và những chuẩn mực khác nhau nhất định. Những nguyên tắc và những chuẩn mực ấy có thể là hữu ích, là cần thiết đối với một nền văn hóa nào đó, song lại rất có thể là không có ích, không cần thiết, thậm chí đi ngược lại các giá trị của một nền văn hóa khác. Do vậy, sẽ có những nền văn hóa có xu hướng chống lại các yếu tố văn hóa trái ngược, từ đó làm nảy sinh các mâu thuẫn, đặc biệt là mâu thuẫn sắc tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước phần lớn có sự đa dạng về chủng tộc, sắc tộc. Đồng thời, phải thừa nhận rằng chủ nghĩa bá quyền văn hóa của nước lớn, của các nước đế quốc và các nước tư bản giàu có trên thế giới cũng góp phần không nhỏ làm cho sự khác biệt văn hóa biến thành xung đột. Chủ nghĩa bá quyền văn hóa ấy tự đánh giá nền văn hóa của dân tộc mình là cao nhất, là trên hết vì nó mang giá trị phổ biến, do vậy, nó hạ thấp giá trị và đối xử một cách bất bình đẳng với các nền văn hóa của những quốc gia và dân tộc khác. Cách đối xử như vậy đã dẫn đến phản ứng không tránh khỏi của những nền văn hóa khác và làm nảy sinh các xung đột văn hóa. 
Những mâu thuẫn ấy nếu bị đẩy tới cao trào sẽ biểu hiện ra bên ngoài dưới nhiều hình thức khác nhau, mà đậm nét nhất chính là sự va chạm, hay là sự xung đột giữa các nền văn hóa và văn minh khác nhau. Vì vậy, cần phải hết sức thận trọng và tỉnh táo khi nhìn nhận, đánh giá những nét đặc thù, những sự khác biệt về mặt văn hóa trong quan hệ quốc tế, tránh để cho sự khác biệt và sự cách biệt về văn hóa giữa các nền văn minh dẫn loài người đến xung đột và chiến tranh. 
3- Không thể không thừa nhận rằng, cho đến lúc này trên toàn thế giới, bất kể là một nước đã ở trình độ phát triển cao, một nước đang phát triển hay một nước kém phát triển thì sự tồn tại các giai cấp khác nhau ở mỗi nước vẫn là một sự thật hiển nhiên. Khi mà các giai cấp khác nhau vẫn còn tồn tại, khi sự bất công và sự phân cực giàu nghèo vẫn còn nguyên đó thì sự đối kháng về lợi ích kinh tế và lập trường chính trị vẫn chưa hề mất đi. Nói cách khác, khi xã hội còn có các giai cấp thì còn có đấu tranh giai cấp, đó là chân lý. Vấn đề đấu tranh giai cấp vẫn thể hiện ra ở tất cả các khía cạnh, như kinh tế, chính trị, xã hội; thể hiện trong các cuộc đấu tranh tư tưởng, trong các chính sách được ban hành và trong các hành động phản ứng lại trước những sự kiện diễn ra trong một nước và trên thế giới...
Dĩ nhiên, cần phải đặt đấu tranh giai cấp trong điều kiện thế giới hiện nay. Không thể phủ nhận rằng, khoa học và công nghệ dù tiến bộ đến mức nào chăng nữa, dù cho máy móc có hiện đại đến cỡ nào đi nữa, dù cho trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence - AI) có mặt trong nhiều sản phẩm, có thể thay thế rất nhiều chức năng và sức lực của con người, có thể biến nhiều công nhân thành những người thất nghiệp một phần hay thất nghiệp toàn phần thì trong các lĩnh vực sản xuất xã hội cũng vẫn không thể thiếu được sức lao động của con người,... tức là không thể thiếu được lao động sống. Tất cả họ, dù thuộc tầng lớp nào trong giai cấp công nhân, trước đây cũng như hiện nay, “đều bị giai cấp tư sản biến thành những người làm thuê được trả lương”(6), nghĩa là họ đều không tránh khỏi việc bán sức lao động và bị bóc lột sức lao động. 
C. Mác đã từng nói: “... những máy móc có một sức mạnh kỳ diệu trong việc giảm bớt lao động của con người và làm cho lao động của con người có kết quả hơn, thì lại đem nạn đói và tình trạng kiệt quệ đến cho con người. Những nguồn của cải mới, từ xưa tới nay chưa ai biết, dường như do một sức mạnh thần kỳ nào đó lại đang biến thành nguồn gốc của sự nghèo khổ”(7). Nhận xét đó của C. Mác vẫn rất đúng trong điều kiện cách mạng công nghệ số và trí tuệ nhân tạo hiện nay. Ở các nước tư bản phát triển, một số ít công nhân tuy đã có một số cổ phần nhất định, đã có thể làm những công việc với mức lương cao nhưng thực chất thì họ vẫn chỉ là những người làm công ăn lương; họ vẫn bị bóc lột giá trị thặng dư dưới nhiều hình thức tinh vi hơn và được che đậy dưới cái tên quen thuộc là lợi nhuận. Song, cần phải thấy một sự thật hiển nhiên là trước đây, hiện nay và chắc chắn cả sau này nữa, sản xuất ra giá trị thặng dư vẫn là quy luật tuyệt đối của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nếu không có lợi nhuận thì không một nhà tư bản nào lại bỏ vốn để sản xuất, kinh doanh, mà thật ra “lợi nhuận chỉ là hình thái thứ sinh, phái sinh và được biến đổi của giá trị thặng dư, là hình thái tư sản trong đó đã xóa hết những nguồn gốc của nó”(8). 
Có một sự thật bất công là hiện nay trên toàn thế giới nhóm 1% số người giàu nhất thế giới đang chiếm tới trên 80% tổng tài sản của toàn xã hội được tạo ra trong năm 2017, cũng 1% số người giàu nhất thế giới ấy chiếm tới 50,1% tài sản của toàn thế giới đang có(9). Con số này đã nói lên sự phân cực giàu nghèo cao đến mức nào trong xã hội hiện đại! Điều đó có nghĩa là giai cấp những người lao động, những người nghèo khổ trong thời đại chúng ta vẫn phải tiến hành các cuộc đấu tranh nhằm giành lại quyền lợi chính đáng, giành lấy sự công bằng cho hơn 90% số người còn lại và nhất là giành việc làm cho hàng trăm triệu người chịu cảnh thất nghiệp trên toàn thế giới. 
Chúng ta đều biết là để giai cấp công nhân và tất cả những người lao động giành được quyền lợi chính đáng và sự công bằng trong điều kiện sự phân cực giàu nghèo lớn như hiện nay là điều hoàn toàn không dễ dàng. Bởi vì, sự phân tầng trong giai cấp công nhân đã khác trước rất nhiều; tính chất công việc cũng có những thay đổi đáng kể và không đồng đều về năng lực và các cơ hội. Có những loại việc dùng nhiều lao động không đòi hỏi năng lực cao, song có loại việc lại chỉ cần một số lượng lao động rất nhỏ nhưng yêu cầu trình độ cao, thậm chí rất cao. Do vậy, các cuộc đình công huy động được rất nhiều người lao động tham gia đã diễn ra và làm tê liệt trong nhiều ngày các lĩnh vực sản xuất, khai thác khoáng sản, chế tạo ô-tô hoặc các lĩnh vực trọng yếu, như vận tải hàng không, lái tàu điện ngầm, lái xe lửa... Điển hình nhất là phong trào biểu tình “chiếm phố Uôn” năm 2011 diễn ra tại Mỹ đã thu hút không chỉ người nghèo mà còn rất nhiều người thuộc tầng lớp trung lưu, sau đó lan rộng ra gần 1.000 thành phố của hơn 80 quốc gia thuộc châu Mỹ, châu Âu, châu Á và châu Đại dương. 
Song, có một thực tế khác là số người tham gia bãi công trong các lĩnh vực công nghệ cao lại không nhiều. Đó là vì, nếu như trước đây người công nhân phản đối giới chủ bằng cách phá hủy máy móc hoặc tổ chức đình công dài ngày cần phải huy động đông đảo công nhân, thì ngày nay, “muốn cho sự sản xuất xí nghiệp bị đình đốn, không cần phải dựa vào lực lượng tập thể to lớn của công nhân. Chỉ cần một vi-rút trong máy điện toán đủ làm hại cả chương trình, hay tin tức bị tiết lộ cho đối phương. Một nhân viên hờn giận hay thiếu trách nhiệm cũng có thể khiến cho công ty trở thành hỗn loạn”(10). Như vậy, tính chất của cuộc đấu tranh dù có thay đổi thì vai trò của người công nhân tri thức trong các lĩnh vực công nghệ cao vẫn được thể hiện.
Nói cách khác, khi tính chất công việc của mỗi người lao động trong những lĩnh vực công nghệ cao ngày càng khác nhau thì chính người lao động lại trở thành người có quyền lực trong thời đại “tri thức chuyển mình biến thành phẩm chất quyền lực..., thành ra vai trò cốt tử của quyền lực”(11). Tuy nhiên, trong mọi hoàn cảnh, mọi lúc, mọi nơi, giới chủ trong giai cấp tư sản, trước đây cũng như hiện giờ, đã không và vẫn không sẵn sàng, không dễ dàng từ bỏ những khoản lợi nhuận khổng lồ của họ. Vì vậy, cuộc đấu tranh cho sự công bằng và quyền bình đẳng cho con người vẫn chưa kết thúc. Do vậy, các hình thức đấu tranh với giới chủ của người lao động để giành những quyền lợi chính đáng, đòi sự công bằng cho mình tuy có khác trước nhưng sẽ không giảm phần quyết liệt. 
Thực tế cho thấy, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và những người lao động trong điều kiện kinh tế tri thức, trong thời đại khoa học và công nghệ cao, thời đại trí tuệ nhân tạo có rất nhiều hình thức, có cả hình thức phản kháng, chống đối cổ điển đông người như trước đây, lẫn các hình thức rất mới tuy ít người nhưng vẫn có tác dụng, ảnh hưởng rất lớn. Vai trò của giai cấp công nhân và những người lao động trong tất cả các mặt của đời sống kinh tế - xã hội hiện đại, trong cuộc đấu tranh chống bóc lột, vì vậy vẫn không hề suy giảm. Sứ mệnh tập hợp sức mạnh của giai cấp công nhân thế giới trong cuộc đấu tranh này đang đặt lên vai các tổ chức công đoàn lớn của thế giới, như Tổng liên đoàn Lao động Quốc tế (ITUC) cùng với các đảng cộng sản và công nhân cách mạng trên toàn thế giới. Phân tích một cách khách quan và khoa học sự biến động trong cơ cấu ngành nghề, trong số lượng công nhân trí thức đang tăng lên như một xu thế tất yếu trong kỷ nguyên công nghệ số và trí tuệ nhân tạo thì càng thấy rõ hơn vai trò của giai cấp công nhân, của cuộc đấu tranh giai cấp dưới những hình thức mới đối với sự phát triển của xã hội hiện đại. 
Như vậy, mặc dù đã có những thay đổi đáng kể về hình thức đấu tranh đòi quyền sống, quyền dân chủ, đòi sự công bằng xã hội, chống lại các hình thức bóc lột tinh vi, nhưng tựu trung cuộc đấu tranh giai cấp vẫn đang và sẽ tiếp diễn trong những điều kiện mới chứ không hề mất đi. Cuộc đấu tranh ấy hoàn toàn không thể bị xung đột văn hóa thay thế như một số người lầm tưởng, mặc dù xung đột văn hóa trong thế giới đang toàn cầu hóa này vẫn sẽ là hiện tượng rất đáng được quan tâm để tránh những hậu quả không mong muốn, nhất là trong các quan hệ quốc tế./.