Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một trong những nội dung quan trọng nhất của chủ nghĩa duy vật về lịch sử; trong đó các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã chỉ ra những quy luật vận động chung nhất của xã hội loài người. Vì vậy, đã có nhiều nước chọn học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở lý luận để xây dựng CNXH. Tuy nhiên, sau sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu cũng như trước những biến đổi không ngừng của thế giới trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, nhiều người đã hoài nghi về tính đúng đắn và khoa học của học thuyết này. Do vậy, cần phải có những luận cứ để đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái nhằm bảo vệ tính khoa học và tính cách mạng của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội trong bối cảnh hiện nay.
1. Những quan điểm sai trái phủ nhận tính khoa học và tính cách mạng của
lý luận về hình thái kinh tế - xã hội.
Những năm cuối thập
niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, các nước XHCN ở Liên Xô và Đông Âu đã
từng bước rơi vào khủng hoảng và sụp đổ. Trong Thông điệp Liên bang năm 2005, Tổng
thống Nga V.Putin gọi đó là “một chấn động chính trị khủng khiếp nhất thế kỷ
XX”. Sự đổ vỡ này xảy ra ngay tại Liên Xô - quê hương của Cách mạng Tháng Mười,
nơi khai sinh ra nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới, nơi được coi thành trì
của CNXH hiện thực - khiến cho các học giả tư sản được dịp lên tiếng phê phán,
bác bỏ chủ nghĩa Mác nói chung và học thuyết hình thái kinh tế - xã hội nói
riêng. Từ đó, các thế lực thù địch
vẫn luôn ra sức tìm mọi cách lợi dụng xuyên tạc, công kích và phủ định chủ
nghĩa Mác - Lênin. Họ cho rằng sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu là một tất
yếu lịch sử vì nó bắt nguồn từ “sự lạc hậu, lỗi thời của bản thân chủ nghĩa Mác
- Lênin”; và bởi, “chủ nghĩa xã hội mà Mác nêu ra chỉ là một lý tưởng, một chủ
nghĩa xã hội “không tưởng”, không bao giờ thực hiện được”(1). Họ cũng cho rằng
CNXH khoa học mà các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã xây dựng chỉ là một học thuyết
“viển vông”, “ảo tưởng” nên áp dụng vào thực tiễn chỉ có thể sinh ra những
“quái thai của lịch sử”(2)... Những luận điệu đó được tung ra khắp nơi trên thế
giới với các hình thức, diễn đàn khác nhau nhằm phủ nhận bản chất khoa học và
cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Xuất phát từ lập luận đó, họ cho rằng hiện
nay “Việt Nam đang bế tắc không chỉ về kinh tế, mà còn về tinh thần. Không ai
còn tin vào chủ nghĩa Mác nữa”(3); rằng, “con đường xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta đang đi là trái với quá trình lịch sử - tự nhiên”(4). Đó chính là “một
khúc cong của lịch sử, là đoạn vòng vèo đầy đau khổ đi lên chủ nghĩa tư bản”(5).
Do đó, theo họ, Việt Nam cần “tránh chỗ tối, tìm chỗ sáng”, “tránh con đường
đau khổ” mà một số nước đã đi qua để đi theo con đường TBCN. Cũng từ đây, ở một số nước phương Tây
đã hình thành những trào lưu chống Mác. Từ thập niên 90 của thế kỷ XX đã bùng nổ
các bài viết, các công trình phê phán chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa Lênin, bác bỏ
từng phần hay toàn bộ học thuyết này. Sự chống phá chủ nghĩa Mác nói chung và học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội nói riêng được chia thành các xu hướng chính
như sau:
Thứ nhất, xu hướng của
các học giả tư sản phương Tây luôn đối lập với C.Mác về lập trường tư tưởng.
Có thể nói, ngay từ khi
ra đời ở những năm 40 của thế kỷ XIX, triết học Mác đã luôn phải đối diện với sự
chống phá của các học giả phương Tây do mâu thuẫn đối kháng về lập trường tư tưởng.
Trong khi họ luôn bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản và tìm mọi cách để luận chứng
cho sự “tồn tại hợp lý” của chế độ TBCN thì các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác lại
khẳng định loài người nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Do đó, khi CNXH
ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, nhiều học giả phương Tây, cả cánh tả và cánh hữu,
từ tân bảo thủ đến tân tự do, tin rằng đây là một dấu chấm hết đối với chủ
nghĩa Mác - Lênin sau hơn 150 năm tồn tại. Đại diện cho quan điểm này là triết
gia phái tân bảo thủ Francis Fukuyama với công trình nổi tiếng “Sự cáo chung của
lịch sử và người cuối cùng” xuất bản năm 1992. Trong công trình này, tác giả
cho rằng cùng với sự kết thúc của “Chiến tranh Lạnh” và sự sụp đổ của bức tường
Berlin, “cuộc đấu tranh giữa các hệ tư tưởng như là động lực của sự tiến bộ
nhân loại đã đến hồi kết với thắng lợi cuối cùng thuộc về nền dân chủ tự do và
chủ nghĩa tư bản thị trường”(6). Mặt khác, các học giả này đã vin vào sự phát
triển hiện thời của CNTB mà cho rằng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội chỉ
thấy được khía cạnh “phá hủy” của CNTB, mà không thấy được khả năng “sáng tạo”
của nó trong vòng chuyển động không ngừng. Một số học giả của xu hướng này cho
rằng, C.Mác và V.I.Lênin đã không lường trước được khả năng thích nghi, tiến
hóa của CNTB, chẳng hạn trong việc giải quyết mâu thuẫn giữa chủ và thợ, giữa
tư bản và lao động. Mặt khác, họ cho rằng, khi học thuyết hình thái kinh tế -
xã hội chỉ ra con đường sai lầm để thoát khỏi CNTB, chẳng những không dẫn đến
chủ nghĩa xã hội, mà còn đưa tới một chế độ “toàn trị độc đoán”, hay nói như học
giả tân tự do hàng đầu Friedrich F.Hayek là dẫn tới “chủ nghĩa nô lệ”(7).
Thứ hai, xu hướng của
những kẻ cơ hội nhân danh bảo vệ chủ nghĩa Mác nhưng thực chất là xuyên tạc, hạ
bệ chủ nghĩa Mác.
Không chỉ phải đối mặt
với sự chống phá của các học giả tư sản phương Tây mà ngay từ khi mới ra đời,
chủ nghĩa Mác nói chung và học thuyết hình thái kinh tế - xã hội nói riêng còn
luôn bị những kẻ cơ hội công kích, tấn công. Sau sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô
và Đông Âu, các phần tử cơ hội thuộc các đảng cộng sản đã mạo danh là những người
mácxít - mặc dù lên tiếng ủng hộ học thuyết hình thái kinh tế - xã hội nhưng thực
chất là vin vào sự thoái trào của hệ thống các nước XHCN để đòi xét lại chủ
nghĩa Mác. Tiêu biểu cho xu hướng này là trường phái trotskyist mới(8). Theo
quan điểm của trường phái này, CNXH hiện thực ở Liên Xô hơn 70 năm qua và các
nước Đông Âu từ sau Chiến tranh thế giới thứ II, cũng như ở Trung Quốc và Việt
Nam trước cải cách đổi mới là hoàn toàn xa lạ với các nguyên lý nền tảng của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Họ gọi đó là các “phiên bản khác nhau của chủ nghĩa toàn trị
của Stalin”. Có người theo xu hướng này còn cố gắng tìm mọi cách để đối lập
quan điểm của V.I.Lênin với quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen về CNXH và thời kỳ
quá độ. Họ cho rằng mô hình xây dựng CNXH ở một nước riêng lẻ có trình độ phát
triển lạc hậu bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa mà V.I.Lênin đặt nền
móng ở nước Nga là một biểu hiện của sự “chệnh hướng khỏi các nguyên lý mácxít
cơ bản”(9).
Chính sự xuyên tạc này
đã ảnh hưởng không nhỏ đến lập trường, quan điểm của những người theo chủ nghĩa
Mác. Biểu hiện rõ ràng nhất là sự giảm sút lớn số lượng những người trung thành
với học thuyết này trên toàn thế giới. Xu hướng “phi mácxit hóa”, phân rã về tư
tưởng, ly khai với học thuyết Mác - Lênin trỗi dậy mạnh mẽ tại hàng loạt nước từng
đi theo con đường XHCN, cũng như trong nội bộ các đảng cộng sản, các đảng XHCN
và phong trào công nhân quốc tế. Hiện nay, mặc dù sự sụp đổ của Liên Xô và Đông
Âu đã diễn ra gần 30 năm nhưng các phần tử cơ hội, phản động, xét lại vẫn coi
đây là một cái cớ không gì thuyết phục hơn để tiếp tục phủ nhận học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội cũng như phủ nhận chủ nghĩa Mác.
Thứ ba, xu hướng của những
người theo thuyết kỹ trị hiện đại muốn phủ nhận những luận điểm cơ bản của lý
luận về hình thái kinh tế - xã hội trong thời đại của cuộc cách mạng công nghiệp
4.0.
Thuyết kỹ trị là một học
thuyết tuyệt đối hóa vai trò của khoa học - kỹ thuật đối với sự phát triển của
xã hội loài người. Ngay khi C.Mác đưa ra tư tưởng phân chia lịch sử xã loài người
thành các hình thái kinh tế - xã hội thì các nhà kỹ trị cũng có cách phân chia
xã hội loài người thành các nền văn minh. Tiêu biểu cho xu hướng này là nhà
tương lai học người Mỹ - Alvin Toffler. Ông đã phân chia lịch sử phát triển của
loài người dựa trên cơ sở 3 nền văn minh: văn minh nông nghiệp, văn minh công
nghiệp và văn minh hậu công nghiệp. Đây là những nghiên cứu và phát hiện có
tính duy vật về sự phát triển xã hội, trong đó có cả những dự báo khá rõ ràng về
những biến đổi trong xã hội tương lai. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, xét về tổng
thể, nghiên cứu của Alvin Toffler còn nhiều điểm chưa vượt qua được học thuyết
của C.Mác. Do tuyệt đối hóa vai trò của khoa học nên ông chỉ coi đây là tiêu
chí để phân định sự khác nhau của các giai đoạn phát triển trong lịch sử mà ông
gọi đó là các nền văn minh.
Ngày nay, trong bối cảnh
của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, khi mà khoa học - công nghệ đang ngày càng
có vai trò to lớn đối với sự phát triển của xã hội loài người, các nhà kỹ trị mới
lại đang tìm cách vin vào những thành tựu của khoa học - công nghệ hiện đại để
phủ nhận những quan điểm được coi là sống còn của học thuyết hình thái kinh tế
- xã hội. Một trong những quan điểm đó là việc C.Mác đã khẳng định con người là
chủ thể của lịch sử, người lao động là nhân tố đóng vai trò quyết định sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, các học giả của thuyết kỹ trị hiện đại
cho rằng, ngày nay, với sự xuất hiện ngày càng nhiều “robot thông minh”, “trí
tuệ nhân tạo” khiến người máy đang dần thay thế con người. Điều đó khiến người
lao động vốn từ chỗ là chủ thể của quá trình sản xuất đang bị gạt ra bên lề quá
trình sản xuất ấy, trở thành nhân tố đóng vai trò thứ yếu. Biểu hiện của sự
thay đổi này là thay vì cần đến nhiều nhân công để lao động, sản xuất thì ngày
càng có nhiều doanh nghiệp chỉ cần ít nhân công. Thay vì trả lương cho nhân
công, các doanh nghiệp đầu tư vào máy móc, công nghệ. Do đó, các nhà kỹ trị hiện
đại cho rằng đã đến lúc cần xem xét lại quan điểm của C.Mác về vai trò, vị trí
trung tâm, có ý nghĩa quyết định của người lao động trong sản xuất vật chất.
Như vậy, có thể nhận thấy,
ngay từ khi chủ nghĩa Mác ra đời đã trở thành mục tiêu tấn công của các học giả
tư sản, các phần tử cơ hội, phản động. Đặc biệt, sau sự sụp đổ của CNXH ở Liên
Xô và Đông Âu, các thế lực thù địch đã tìm mọi cách để phủ nhận học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội, nhất là quan điểm về tương lai của xã hội loài người là
CNXH, chủ nghĩa cộng sản. Ngày nay, trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp
4.0, các học giả tư sản, nhất là những người theo thuyết kỹ trị hiện đại lại
đang tìm mọi cách phủ nhận học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, nhất là quan
điểm coi con người là chủ thể của lịch sử, là nhân tố đóng vai trò quyết định sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Điều đó đặt ra thử thách lớn đối với những
mácxít chân chính là cần phải kiên trì, kiên định và sáng tạo với chủ nghĩa Mác
và luôn đấu tranh phản bác chống lại những quan điểm sai trái, thù địch để bảo
vệ chủ nghĩa Mác.
2. Tiếp tục khẳng định tính khoa học, tính cách mạng của lý luận về hình
thái kinh tế - xã hội
Chúng ta không thể phủ
nhận một hiện thực là sự sụp đổ của CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu là một
bước lùi lịch sử của của phong trào cộng sản và công nhân toàn thế giới. Đó
cũng là một tổn thất to lớn cho phong trào đấu tranh cho những mục tiêu cao cả
và tốt đẹp của nhân loại: hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội và
hạnh phúc của con người. Tuy nhiên, sự sụp đổ đó không phải là sự “cáo chung” của
chủ nghĩa Mác nói chung và học thuyết hình thái kinh tế - xã hội nói riêng. Nó
cũng không phải là do chủ nghĩa Mác - Lênin đã lạc hậu, lỗi thời mà đó thực sự
là do đã hiểu sai, vận dụng sai những quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác trong quá trình xây dựng CNXH. Bản chất chủ nghĩa Mác - Lênin là cách mạng
và khoa học. Do đó, nó đòi hỏi việc nhận thức, vận dụng và phát triển vừa phải
đứng vững trên lập trường cách mạng, lập trường của giai cấp công nhân, vừa phải
thực hiện với một tinh thần và phương pháp khoa học nghiêm túc, đúng đắn.
Những người mácxít thấm
thía sâu sắc những tổn thất to lớn từ sự sụp đổ CNXH ở Liên Xô và Đông Âu,
nhưng cũng nhận ra rằng, điều đó đã khách quan tạo cho chúng ta có thêm dữ liệu
để nhận thức đúng, trở về đúng với những quan điểm của C.Mác, Ph.Ănghen và
V.I.Lênin và vận dụng, phát triển đúng đắn, sáng tạo phù hợp với điều kiện lịch
sử mới. Nó cho thấy rõ hơn những sai lầm của các Đảng Cộng sản ở các nước XHCN
trong việc nắm bắt bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và vận
dụng vào thực tiễn; thấy rõ hơn tính chất nguy hiểm của các đòn tấn công, xuyên
tạc của các thế lực thù địch trong việc phủ nhận chủ nghĩa Mác trên phạm vi
toàn thế giới.
Trong tình hình hiện
nay, chính từ các quốc gia tư bản phương Tây, người ta lại thấy có những tiếng
nói về những giá trị của chủ nghĩa Mác, của học thuyết kinh tế Mác, về phong
trào “trở về với Mác”, tìm đọc Mác. Đặc biệt, ở những thời điểm diễn ra cuộc khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu 2008 - 2009, trong khủng khoảng nợ
công và suy thoái kinh tế ở nhiều quốc gia tư bản phát triển, phong trào “trở về
với C.Mác”, tìm đọc C.Mác lại trở nên sôi nổi hơn bao giờ hết. Những tác phẩm
kinh điển của C.Mác và V.I.Lênin vẫn được tìm đọc nhiều nhất, đặc biệt là
bộ “Tư bản” của C.Mác vẫn xếp số một trên thế giới và được dịch ra 134 ngôn ngữ
ở 63 nước(10). Không thể cố nói bừa rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết “ảo
tưởng”, đã “lạc hậu, lỗi thời” khi chính học thuyết này đã tạo nên những hiện
thực làm biến đổi thế giới, thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ của lịch sử loài
người và có sức lôi cuốn cũng như tầm ảnh hưởng sâu rộng toàn nhân loại.
Trong bối cảnh mới có
nhiều thay đổi hiện nay, để bảo vệ tính khoa học và tính cách mạng của học thuyết
hình thái kinh tế - xã hội, chúng ta không chỉ cần khẳng định những chân giá trị
trong quan điểm của triết học Mác - Lênin mà còn phải bổ sung, phát triển để những
quan điểm đó thêm sức sống mới của thời đại. Thí dụ, quan điểm của học thuyết kỹ
trị hiện đại khi đề cao vai trò quyết định của khoa học - công nghệ đối với sản
xuất vật chất hiện nay, bản thân C.Mác chưa bao giờ phủ nhận vai trò của khoa học
bởi chính Ph.Ăngghen đã từng khẳng định: “Đối với Mác, khoa học là một động lực
lịch sử, một lực lượng cách mạng”(11).
Không thể phủ nhận được
ngày nay những thành tựu của khoa học - công nghệ hiện đại với sự ra đời của
người máy đã thay thế không chỉ những công việc nặng nhọc, những hoạt động cơ bắp
mà còn có thể thay thế cho cả những hoạt động tinh vi, phức tạp của con người.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là khoa học - công nghệ hiện đại trở thành yếu
tố quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất, từ đó người lao động trở
thành yếu tố thứ yếu, đứng bên ngoài quá trình sản xuất. Về thực chất, khoa học
- công nghệ trước hết là sản phẩm của quá trình nhận thức, sản phẩm của sự phát
triển trí tuệ của con người. Có thể nói, do yêu cầu của sản xuất mà con người
đã sáng tạo và quyết định khuynh hướng, tốc độ phát triển của khoa học - công
nghệ, đồng thời quyết định việc sử dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất theo
mục đích của mình. Thực tế cho thấy, kỹ thuật, công nghệ hiện đại với tư cách
là phần vật chất trong các yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất dù năng động
và cách mạng đến mấy cũng chỉ là sản phẩm do bàn tay và khối óc của con người
làm ra và chịu sự điều khiển, giám sát của con người. Do đó, trí tuệ nhân tạo
dù được mệnh danh là tiên tiến đến đâu cũng chỉ là sản phẩm của con người, hoạt
động của nó phụ thuộc vào những chương trình mà con người đã lập ra, đã cài đặt
vào máy tính điện tử và người máy công nghiệp. Vì vậy, khoa học - công nghệ là
của con người, gắn liền với con người, phụ thuộc vào con người và phải thông
qua hoạt động của con người mới có thể được vật hóa vào quá trình sản xuất. Nếu
không xuất phát từ con người, được tiến hành bởi con người và không hướng về mục
đích phục vụ con người, không có quá trình sản xuất nào có đủ lý do để tồn tại
và phát triển. Do vậy, trong bất cứ thời đại nào, kể cả thời đại của khoa học -
công nghệ hiện đại, người lao động vẫn là nhân tố đóng vai trò quyết định sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Vì thế, quan điểm của C.Mác về vai trò quyết
định của người lao động đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất vẫn còn
đúng đắn.
3. Một số khía cạnh cần bổ sung, phát triển của lý luận về hình thái kinh
tế - xã hội
Hiện nay, so với thời đại
của C.Mác, khoa học - công nghệ có những bước tiến nhảy vọt góp phần tạo ra một
lực lượng sản xuất mà xưa nay nhân loại chưa từng được chứng kiến. Quá
trình quốc tế hóa mà C.Mác nói đến vào thế kỷ XIX đã thực sự trở thành quá
trình toàn cầu hóa trong thời đại chúng ta. Ở các mức độ khác nhau, tất cả các
nước đều bị cuốn vào toàn cầu hóa, bởi vì nó đã “xâm nhập vào khắp nơi, trụ lại
ở khắp nơi và thiết lập những mối liên hệ ở khắp nơi”(12). Trong bối cảnh đó,
lý luận về hình thái kinh tế - xã hội mặc dù có nhiều giá trị bền vững cho đến
ngày nay nhưng không phải không có những điểm cần được bổ sung, phát triển.
V.I.Lênin - Người đã không ngừng bảo vệ, phát triển học thuyết Mác đã nhiều lần
nhấn mạnh: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong
xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền
móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển
hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”(13).
Từ sự phát triển của lực
lượng sản xuất hiện đại trong giai đoạn hiện nay, chúng tôi đề xuất bổ sung,
phát triển học thuyết hình thái kinh tế - xã hội trên một số điểm cơ bản như
sau:
Thứ nhất, C.Mác
sống ở thời kỳ phát triển của CNTB nên ông cũng bàn nhiều đến xã hội tư bản.
Khi bàn đến sự phát triển của lực lượng sản xuất ở thời kỳ TBCN, theo C.Mác,
người lao động chủ yếu là người công nhân, là giai cấp vô sản. Đó là “một giai
cấp xã hội hoàn toàn chỉ kiếm sống bằng việc bán lao động của mình”, là “giai cấp
những người hoàn toàn không có của”, là “giai cấp những công nhân làm thuê hiện
đại, vì mất các tư liệu sản xuất của bản thân, nên buộc phải bán sức lao động của
mình để sống”(14); hầu như ông ít nói đến tầng lớp các bác sỹ, kỹ sư, nhà khoa
học. Ngày nay, giai cấp công nhân không chỉ có những người lao động chân tay
thuần túy mà còn bao gồm cả tầng lớp những người trí thức của mình nữa. Hơn nữa,
trong giai đoạn hiện nay, bản thân người lao động là công nhân cũng có sự thay
đổi đáng kể. Ở thời đại của C.Mác, chủ yếu là công nhân cơ khí, đa số là lao động
thủ công nhưng ngày nay, những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã
làm cho công cụ lao động ngày càng được cải tiến; sức lao động của con người được
giải phóng; trình độ, tay nghề, kỹ năng, kỹ xảo của người lao động không ngừng
được nâng cao. Do đó, trong rất nhiều nhà máy, xí nghiệp, số lượng nhân lực
khoa học tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất chiếm tỷ lệ ngày càng cao,
vượt trội hơn hẳn so với số lượng lao động làm việc cơ bắp thông thường. Đội
ngũ công nhân trí thức xuất hiện và có xu hướng ngày càng gia tăng cả về số lượng
và chất lượng đang làm thay đổi dần tỷ trọng của lao động phổ thông và lao động
có trình độ cao. Việc bổ sung thêm nội hàm của khái niệm người lao động là rất
cần thiết trong bối cảnh hiện nay vì “Điều này hết sức quan trọng đối với chúng
ta khi đất nước đang từng bước tiến tới nền kinh tế tri thức, khi nhiệm vụ trí
thức hóa công nhân trở thành đòi hòi bắt buộc, nếu chúng ta muốn đưa đất nước
tiến kịp thế giới, tránh tụt hậu xa hơn trong quá trình hội nhập với kinh tế thế
giới”(15).
Thứ hai, trước
đây, khi nói đến lực lượng sản xuất, C.Mác nhấn mạnh nhiều đến khả năng của con
người trong việc chinh phục giới tự nhiên. C.Mác viết: “Lực lượng sản xuất chẳng
qua là năng lực thực tiễn của con người trong việc chinh phục giới tự
nhiên”(16). Vì lẽ đó, để thể hiện khả năng của mình, con người đã sử dụng những
phương tiện, kỹ thuật hiện đại để chinh phục giới tự nhiên ngày càng nhiều hơn.
Thực tế cho thấy, trong quá trình sản xuất vật chất, con người không chỉ chinh
phục tự nhiên mà còn phải thích nghi với giới tự nhiên nên khi đề cập đến phạm
trù lực lượng sản xuất mà chỉ nhấn mạnh đến hoạt động chinh phục, xem nhẹ hoạt
động thích nghi là chưa đầy đủ: “Quan niệm như vậy không chỉ hạn chế nội hàm của
khái niệm lực lượng sản xuất mà còn khó dung nạp với sự phát triển bền vững,
phát triển liên tục”(17). Hệ quả của quan điểm này là “con người tìm mọi cách
chinh phục, khai thác sao cho được nhiều nhất của cải từ thiên nhiên, bất chấp
mọi hậu quả”(18). Trong bối cảnh hiện nay, với mục tiêu phát triển bền vững,
quan niệm về lực lượng sản xuất cần bổ sung thêm khía cạnh sống hài hòa với tự
nhiên. Do mối quan hệ giữa con người với tự nhiên ngày càng xung khắc, biểu hiện
qua việc thiên tai xuất hiện ngày càng nhiều, mức độ nghiêm trọng ngày càng gia
tăng, nên con người cần từng bước điều chỉnh lại hoạt động sản xuất vật chất,
chuyển hướng sang phát triển lực lượng sản xuất một cách có chọn lọc, tránh làm
tổn hại đến tự nhiên. Thay vì nói phát triển lực lượng sản xuất như trước kia,
cần phải phát triển lực lượng sản xuất chọn lọc vì “lực lượng sản xuất là khái
niệm thể hiện không chỉ hoạt động đấu tranh mà còn thể hiện sự kết hợp hài hòa
giữa con người và giới tự nhiên”(19).
Thứ ba, nhờ
sự phát triển mạnh của công nghệ thông tin, nhất là mạng internet, khoa học nói
riêng và tri thức nói chung được phổ biến nhanh chóng, hầu như tức thời
(online) với nhiều sự kiện khoa học trên toàn thế giới. Dòng tri thức, dòng
công nghệ cùng với dòng vốn được lưu thông với tốc độ chưa từng có trên toàn thế
giới. Người ta có thể sản xuất từng bộ phận cấu thành của một sản phẩm ở nhiều
nơi trên thế giới, sau đó lắp ráp và lưu thông ở các nước khác nhau nhằm đạt hiệu
quả cao nhất. Vì vậy, đầu ra của lực lượng sản xuất hiện đại không còn là sản
phẩm riêng của lao động ở một quốc gia nữa mà mang tính toàn cầu. Do đó, lực lượng
sản xuất hiện đại trở thành một yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc đẩy mạnh
quá trình toàn cầu hóa. Đây là đặc điểm mới chỉ riêng có ở lực lượng sản xuất
hiện đại mà lực lượng sản xuất ở các giai đoạn trước kia chưa có hoặc mới ở
trong một phạm vi hẹp. Ở thời của C.Mác, ông đã đề cập đến xu hướng phát triển
tất yếu của nền sản xuất là “thiết lập mối quan hệ ở khắp mọi nơi trên thế giới”
nhưng chưa thực sự đặt ra vấn đề toàn cầu hóa của lực lượng sản xuất. Do vậy, để
có thể tiếp tục vận dụng những quan điểm của C.Mác về lực lượng sản xuất, cần mở
rộng nội hàm của khái niệm này không chỉ ở một nền sản xuất vật chất của một quốc
gia nhất định mà trên phạm vi toàn thế giới. Điều đó góp phần làm cho học thuyết
Mác nói riêng và quan điểm về lực lượng sản xuất nói chung được bồi đắp “thêm da
thêm thịt” bằng thực tiễn sinh động của thời đại ngày nay.
Như vậy, để
bảo vệ học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, một mặt chúng ta cần phải tỉnh
táo nhận diện những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch; mặt khác chúng
ta cần phải mạnh dạn đề xuất bổ sung, phát triển những quan điểm của học thuyết
này cho phù hợp với thực tiễn. Việc bổ sung, phát triển đó không phải là “xét lại”
chủ nghĩa Mác; cũng không phải là làm lu mờ chân giá trị của chủ nghĩa Mác mà
là làm cho những nội dung, quan điểm của học thuyết Mác được có thêm sức sống mới,
phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của giai đoạn hiện nay. Đó là một việc làm hết
sức khó khăn đòi hỏi những người mácxít phải kiên trì, có bản lĩnh và có trách
nhiệm với hệ thống lý luận cách mạng và khoa học được coi là nền tảng tư tưởng
của Đảng ta hiện nay.
(1), (2), (3) Ban Tuyên
giáo Trung ương: Phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007,
tr.48, 47-48, 48.
(4) Một số vấn đề về chủ
nghĩa Mác - Lênin trong thời đại hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1996, tr.12.
(5)Việt Nam tiến bước
cùng thời đại, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2009, tr.29.
(6), (7), (8), (9) Xem:
Nguyễn Xuân Thắng: “Phê phán quan điểm: “Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu bắt
nguồn từ chủ nghĩa Mác - Lênin””, Tạp chí Tuyên giáo, số tháng 12, 2014,
tr.4-5, 5, 6, 6.
(10) Xem: Nguyễn Chí
Dũng: “Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội và cuộc thử nghiệm trong thế
kỷ XX”, Tạp chí Triết học, số 1 (200), tháng 1-2008, tr.11.
(11) C. Mác và
Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.500.
(12), (14) C.Mác và
Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.601, 456.
(13) V.I.Lênin: Toàn tập,
t.4, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1974, tr.232.
(15) Nguyễn Trọng Chuẩn:
“Nâng cao nhận thức, bổ sung và phát triển triết học Mác - Lênin nhằm đáp ứng
yêu cầu của thực tiễn và của thời đại mở rộng giao lưu quốc tế”, Tạp chí Triết
học, số 9 (208), tháng 9-2008, tr.56.
(16) C.Mác và
Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.268.
(17), (18), (19) Lý
Bân: “Quan niệm mới về phát triển lực lượng sản xuất”, Thông tin những vấn đề
lý luận, số 19, 2008, tr.10, 10, 9.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét