Trong bối cảnh các thế lực thù địch, cơ hội chính trị tung ra rất nhiều quan điểm, luận điệu, bằng nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi nhằm xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, hòng gây nhiễu loạn về hệ tư tưởng, về lý tưởng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mưu đồ “giải trừ ý thức hệ”, làm cho Đảng tan rã về ý thức hệ, từ đó tan rã về tổ chức, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, thay đổi chế độ ta, thì việc kiên quyết, kiên trì đấu tranh trên cơ sở nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong điều kiện mới là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách hiện nay. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta vận dụng sáng tạo, đưa đến thành công của Cách mạng Tháng Tám, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2-9-1945. Chủ nghĩa Mác do C. Mác và Ph. Ăng-ghen sáng lập vào khoảng giữa những năm 40 của thế kỷ XIX ở Tây Âu, đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong điều kiện lịch sử mới đã được V.I. Lênin bổ sung, phát triển thành chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Chủ nghĩa Mác ra đời là một cuộc cách mạng trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, mang bản chất khoa học và cách mạng, trở thành vũ khí tư tưởng - lý luận của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản nhằm mục tiêu giải phóng xã hội, giải phóng con người thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công, tha hóa, phát triển toàn diện con người.
Từ
khi ra đời đến nay, chủ nghĩa Mác đã tồn tại trên 170 năm và trải qua nhiều biến
cố thăng trầm của lịch sử. Mặc dù mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô
và Đông Âu đã sụp đổ; mặc dù chủ nghĩa đế quốc cùng những thế lực phản động,
thù địch dùng nhiều thủ đoạn thâm độc chống phá, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa
Mác - Lênin nhưng chủ
nghĩa Mác - Lê-nin vẫn tồn tại, phát triển mà chưa có một học thuyết nào có thể
thay thế được, nó có giá trị trường tồn, sức sống bền vững. Chủ nghĩa Mác -
Lê-nin vẫn là thế giới quan và phương pháp luận khoa học của hàng triệu triệu
người trên trái đất. Đúng như lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nhận định:
“Bây giờ, chủ nghĩa nhiều, học thuyết nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc
chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”(1).
Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, (bổ
sung, phát triển năm 2011) của Đảng ta, Hiến pháp năm 2013 của Nhà nước ta đều
khẳng định chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng
của Đảng, kim chỉ nam cho hành động. Sự khẳng định đó nói lên ý nghĩa to lớn,
giá trị vững bền của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng
nước ta. Chủ nghĩa Mác -
Lênin đã trở thành ngọn cờ tư tưởng, lý luận và phương pháp luận khoa học để nhận
thức thời đại, nhận thức tình hình thế giới và trong nước, là cơ sở khoa học để
Đảng ta đề ra đường lối, chính sách đổi mới, phát triển đất nước, nhất là trong
bối cảnh tình hình thế giới biến đổi nhanh chóng, phức tạp, khó lường như hiện
nay. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin cũng là cơ sở cho sự thống nhất về tư tưởng trong Đảng,
cho sự thống nhất và củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân, tạo đoàn kết, đồng
thuận trong xã hội.
Trong
quá trình xây dựng, phát triển học thuyết khoa học của mình, C. Mác, Ph. Ăngghen và sau
này là V.I.Lênin đã phải thường xuyên đấu tranh chống các quan điểm sai trái,
như chủ nghĩa duy tâm, siêu hình, giáo điều, xét lại. C. Mác và Ph. Ăng-ghen từng
phê phán quan điểm của phái Hê-ghen trẻ, của Pru-đông, của Đuy-rinh, của
Lát-xan và nhiều quan điểm tư sản khác. Thông qua đấu tranh phê phán quan điểm
phản diện, các ông đã trình bày quan điểm chính diện của mình, đã phát triển,
hoàn thiện học thuyết của mình. C. Mác
và Ph. Ăngghen đã từng
khẳng định rằng, học thuyết của các ông có tính phê phán và cách mạng, nó không
đội trời chung với quan điểm giáo điều, bảo thủ, với quan điểm duy tâm, siêu
hình, cơ hội và xét lại. Có thể khẳng định rằng, đấu tranh tư tưởng, lý luận để
chống quan điểm sai trái nhằm bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác mang tính quy luật
trong sự tồn tại, phát triển của chủ nghĩa Mác.
Để bảo
vệ và phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử mới, V.I. Lênin đã kiên
quyết đấu tranh, kịch liệt phê phán quan điểm duy tâm, siêu hình của chủ nghĩa
kinh nghiệm phê phán của E. Ma-khơ, A-vê-na-ri-út,...; đấu tranh với những quan
điểm cơ hội, xét lại của các nhà lãnh đạo Quốc tế II, như Béc-xtanh,
Cau-xky,...; đấu tranh với những quan điểm sai lầm của Plê-kha-nốp, Tờ-rốt-xki, Bu-kha-rin, Di-nô-vi-ép,...
Thông qua đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, V.I. Lê-nin đã bổ
sung, phát triển chủ nghĩa Mác lên một giai đoạn mới - giai đoạn Lê-nin trên cả
ba bộ phận cấu thành là triết học, kinh tế học chính trị và chủ nghĩa xã hội
khoa học phù hợp với điều kiện lịch sử mới và phù hợp với những thành tựu mới
nhất trong khoa học tự nhiên ở thời kỳ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. V.I.
Lê-nin đã từng gọi chủ nghĩa duy vật mác-xít là “chủ nghĩa duy vật chiến đấu”,
nghĩa là nó không ngừng đấu tranh chống lại các quan điểm duy tâm, siêu hình,
cơ hội, xét lại, các quan điểm muốn bảo vệ trật tự tư sản. Vận dụng chủ nghĩa
Mác một cách sáng tạo vào thực tiễn nước Nga, V.I. Lênin và Đảng Bôn-sê-vích đã
lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân Nga tiến hành thắng lợi Cách mạng Tháng
Mười vĩ đại, mở ra một thời đại mới trong sự phát triển của xã hội loài người -
thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế
giới. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga là sự khẳng định tính đúng đắn của
chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối của Lê-nin, là sự bác bỏ mạnh mẽ nhất, quyết định
nhất, có tính thuyết phục nhất đối với các quan điểm sai trái, thù địch lúc bấy
giờ.
Từ
khi ra đời cho đến nay, trong hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch
Hồ Chí Minh không ngừng đi sâu nhận thức chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nắm vững bản
chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vận dụng sáng tạo và
phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam và thời đại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên phải nắm vững và vận dụng lập
trường, quan điểm và phương pháp Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng, từ đó đề
ra đường lối, chủ trương đúng đắn, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác.
Nhận
thức rõ âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên
lĩnh vực tư tưởng chính trị, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp đẩy mạnh
cuộc đấu tranh phê phán, bác bỏ những quan điểm sai trái, thù địch nhằm ngăn chặn
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm thất bại âm mưu
“chiến thắng không cần chiến tranh” của các thế lực thù địch, bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Văn kiện các kỳ
đại hội Đảng toàn quốc thời kỳ đổi mới đều nhấn mạnh nhiệm vụ đấu tranh này.
Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XII của Đảng yêu cầu tăng cường đấu tranh làm
thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch;
chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù
địch. Ban Chấp hành Trung ương cũng đã ban hành một số nghị quyết chuyên đề
(Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX “Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư
tưởng, lý luận trong tình hình mới”, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa X “Về
công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới”...), Bộ Chính trị, Ban
Bí thư ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch. Đặc biệt ngày
22-10-2018, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW, “Về tăng cường bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
trong tình hình mới”. Nghị quyết chỉ rõ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng phải
trên cơ sở quán triệt sâu sắc, vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam, trước hết trong xây dựng chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nghị quyết nêu
ra các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, trong đó có nhiệm vụ đấu tranh, phản bác
các quan điểm sai trái, thù địch theo hướng chủ động, có tính thuyết phục cao.
Về một
số quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin hiện
nay
Để chống
phá chủ nghĩa Mác - Lênin, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị tung ra rất
nhiều quan điểm, luận điệu khác nhau, bằng nhiều phương thức, thủ đoạn khác
nhau. Sau đây xin nêu lên một số quan điểm đó:
Một
là, có quan điểm vin vào yếu tố thời đại để phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin.
Quan điểm đó cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ phù hợp với thế kỷ XIX, hoặc
cùng lắm là đầu thế kỷ XX, nó chỉ thích hợp với cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ nhất và lần thứ hai, chỉ thích hợp với văn minh cơ khí, còn bây giờ nhân loại
đã bước sang thế kỷ XXI - là thời đại của cách mạng khoa học - công nghệ, Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư, văn minh tin học, kinh tế tri thức, kinh tế số,
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế nên không còn thích hợp nữa, chủ nghĩa Mác -
Lênin đã bị lỗi thời (!).
Đúng
là thời đại mà chúng ta đang sống khác rất nhiều so với thời đại của Mác -
Ăngghen - Lênin, đã có nhiều biến đổi to lớn, sâu sắc về kinh tế, xã hội, nhất
là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ. Không nhận thức được những
biến đổi to lớn của thời đại sẽ không hiểu đúng bản chất của thời đại. Tuy
nhiên, những biến đổi đó không vượt ra ngoài những quy luật, những nguyên lý
chung nhất mà C. Mác đã khám phá ra. Chẳng hạn, đó là những quy luật phổ biến của
phép biện chứng duy vật, những quy luật phổ biến của sự phát triển xã hội loài
người, như quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, tồn tại xã hội
quyết định ý thức xã hội, kinh tế xét đến cùng quyết định chính trị, quy luật đấu
tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp, quy luật giá trị thặng dư, những
nguyên lý khoa học về nhà nước, cách mạng xã hội, về sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân...
Đứng
trên quan điểm khách quan, có một số luận điểm cụ thể của C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin không còn phù hợp với điều kiện lịch sử mới, đã bị thực tiễn lịch sử
vượt qua, song những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, bản chất khoa học và cách mạng vẫn giữ
nguyên giá trị cần phải bảo vệ. Hoàn cảnh lịch sử cụ thể luôn luôn thay đổi,
song những quy luật phát triển cơ bản, phổ biến của lịch sử loài người mà chủ
nghĩa Mác - Lê-nin nêu lên là không thay đổi, có giá trị trường tồn. Chủ nghĩa
Mác - Lênin vẫn là lý luận và phương pháp luận khoa học cho sự nhận thức xã hội,
nhận thức thời đại mà không một học thuyết nào có thể thực hiện được vai trò
đó.
Hai
là, có quan điểm cho rằng chủ nghĩa Mác - Lê-nin không phải là sản phẩm của Việt
Nam, nó là “ngoại lai”, “ngoại nhập” từ phương Tây, không phù hợp với Việt Nam
là một xã hội phương Đông, kinh tế lạc hậu; thậm chí có ý kiến nói “du nhập chủ
nghĩa Mác - Lê-nin vào Việt Nam là một sai lầm lịch sử”, do đó “cần phải từ bỏ
chủ nghĩa Mác - Lênin”(?).
Quan
điểm trên đây là sai lầm vì không hiểu được sức mạnh của sự trừu tượng hóa,
khái quát hóa của lý luận Mác - Lê-nin. Chủ nghĩa Mác - Lênin là lý luận khoa học
nên cũng giống như các khoa học khác (kể cả khoa học tự nhiên) có giá trị phổ
quát, vượt biên giới quốc gia - dân tộc, còn khi áp dụng nó đương nhiên phải
chú ý đến điều kiện lịch sử cụ thể của từng quốc gia - dân tộc để tránh giáo điều,
máy móc. Mặc dù chủ nghĩa Mác có nguồn gốc lý luận trực tiếp từ các nước phương
Tây, như Đức (về triết học), Anh (về kinh tế chính trị), Pháp (về lý luận chủ
nghĩa xã hội), nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng “không thể cấm bổ sung “cơ sở
lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời
mình không thể có được”, không thể cấm bổ sung chủ nghĩa Mác bằng dân tộc học
phương Đông. Nhưng khi nói vậy, Người vẫn khẳng định “chủ nghĩa Mác sẽ còn đúng
cả ở đó”(2) - tức ở phương
Đông. Những quy luật của chủ nghĩa Mác vạch ra không chỉ đúng với các nước phát
triển mà còn đúng cả với các nước kém phát triển. Vì, về mặt phương pháp luận
như C. Mác đã từng chỉ ra, trong cái
phát triển cao chứa đựng cái phát triển ở trình độ thấp hơn dưới dạng lọc bỏ.
Mặt
khác, nếu thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý thì những thắng lợi vĩ đại của
cách mạng Việt Nam từ khi chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá vào Việt Nam - một nước vốn
là thuộc địa nửa phong kiến, lạc hậu, kém phát triển nhưng đã được Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng sáng tạo, đưa đến thành công của
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thắng lợi của kháng chiến chống thực dân Pháp, chống
đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi
lên chủ nghĩa xã hội, tiến hành đổi mới mạnh mẽ, toàn diện đất nước.
Trong
thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam có nhiều đổi mới về tư duy lý luận, đã
nhận thức lại chủ nghĩa Mác - Lênin theo tinh thần khẳng định sức sống, giá trị
bền vững của những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời loại bỏ
những nhận thức không đúng, ấu trĩ, giáo điều về chủ nghĩa Mác - Lênin, về chủ
nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới trên một loạt vấn đề,
như mục tiêu, đặc trưng và phương hướng cơ bản của xây dựng chủ nghĩa xã hội, vấn
đề phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,...
đó là những vấn đề không có sẵn trong di sản kinh điển mác-xít. Không có sự vận
dụng, phát triển sáng tạo đó thì không có được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử mà nhân dân Việt Nam đạt được trong gần 35 năm đổi mới.
Ba
là, có quan điểm sai lầm đem đối lập chủ nghĩa Mác với chủ nghĩa Lê-nin, đối lập
C. Mác với V.I. Lênin để phủ nhận cả chủ nghĩa Mác lẫn chủ nghĩa Lê-nin, phủ nhận
chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung. Họ viện dẫn ra sự “đối lập” là C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng,
cách mạng vô sản phải nổ ra đồng thời trong các nước tư bản, ít ra là trong các
nước tư bản phát triển, còn V.I. Lênin lại cho rằng cách mạng xã hội chủ nghĩa
có thể nổ ra và thành công ở một số nước, thậm chí ở một nước riêng lẻ, còn lạc
hậu, còn nhiều tàn tích của chế độ nông nô như nước Nga.
Thành
công của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã chứng minh tính đúng đắn của quan
điểm và phương pháp của V.I. Lênin. Sự đối lập giữa C. Mác với V.I. Lênin mà họ dựng
lên là giả tạo, bịa đặt. V.I. Lênin là người mác-xít, ông đã tự nhận mình là học
trò của Mác: Chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa Lê-nin thống nhất với nhau về bản chất.
Chủ nghĩa Lênin là chủ nghĩa Mác trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng
vô sản. C. Mác và V.I.
Lênin sống ở hai thời đại khác nhau, C. Mác sống ở thời kỳ chủ nghĩa tư bản
trong giai đoạn tự do cạnh tranh, còn đến V.I. Lênin chủ nghĩa tư bản đã chuyển
sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, khi đó cách mạng vô sản, phong trào giải
phóng dân tộc nổi lên, mỗi ông phải giải quyết những nhiệm vụ do thời đại của
mình đặt ra. V.I. Lênin không thể máy móc, giáo điều ngồi chờ cho cách mạng vô
sản nổ ra đồng thời ở các nước tư bản phát triển được, mà phải chủ động nhận thức
thời cơ, tình thế cách mạng và tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười
Nga. V.I. Lênin trung thành với chủ nghĩa Mác trong bản chất cách mạng, khoa học,
biện chứng, chứ không phải trung thành một cách máy móc bởi vì học thuyết của
các ông không phải giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động.
Bốn
là, có quan điểm đem đối lập chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh để
phủ nhận cả chủ nghĩa Mác - Lênin lẫn tư tưởng Hồ Chí Minh.
Quan
điểm trên đây là sai lầm cả về lịch sử và lô-gic. Về mặt lịch sử, tư tưởng Hồ
Chí Minh có cội nguồn và được hình thành từ việc tiếp thu các giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa của nhân loại mà đỉnh cao là chủ nghĩa
Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin chính là nguồn gốc lý luận quan trọng nhất,
là cơ sở chủ yếu nhất để hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Thông
qua hoạt động trí tuệ và thực tiễn sáng tạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng lập
trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để nghiên cứu thực
tiễn và tìm ra con đường cách mạng Việt Nam, vượt lên trước những nhà yêu nước
đương thời, khắc phục được sự khủng hoảng về con đường tiến lên của dân tộc Việt
Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng sáng tạo, phát triển và làm
phong phú chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện lịch sử mới. Như vậy, về mặt
lô-gic, về bản chất, tư tưởng Hồ Chí Minh thống nhất với chủ nghĩa Mác - Lênin
chứ không có sự đối lập như một số người tưởng tượng ra. Và do đó cũng không có
cái gọi là “cuộc nội chiến về tư tưởng giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa
Mác - Lênin” từ năm 1930 đến nay ở Việt Nam như có người nhận định. Một số người
nhân danh đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh để hạ thấp, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin.
Họ nói tư tưởng Hồ Chí Minh mới là sản phẩm của Việt Nam, có nguồn gốc Việt
Nam, còn chủ nghĩa Mác - Lênin là “ngoại lai”, “ngoại nhập”, không phù hợp với
Việt Nam, thậm chí có người muốn đưa chủ nghĩa Mác - Lênin ra khỏi nền tảng tư
tưởng của Đảng ta, chỉ giữ lại tư tưởng Hồ Chí Minh (!). Quan điểm đó nhân danh
đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, song thực chất, trực tiếp và gián tiếp chính là nhằm
phủ nhận cả tư tưởng Hồ Chí Minh, bởi trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã có chủ
nghĩa Mác - Lênin. Đảng ta xác định nền tảng tư tưởng của Đảng gồm chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là rất đúng đắn, phù hợp, thể hiện mối quan
hệ biện chứng, thống nhất, gắn bó giữa hai bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng
của Đảng.
Năm
là, có quan điểm đem quy sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu
là do sai lầm của chủ nghĩa Mác - Lênin, “sai lầm từ gốc, từ bản chất của học
thuyết” (!).
Chúng
ta thấy rằng, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là sự
sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội - mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao
cấp, hành chính, mệnh lệnh, xa rời quần chúng nhân dân với nhiều khuyết tật, chứ
không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung. Sự sụp đổ ấy có nguyên
nhân khách quan và chủ quan, bên trong và bên ngoài, sâu xa và trực tiếp. Chính
những khuyết tật của mô hình chủ nghĩa xã hội đó không được phát hiện và khắc
phục kịp thời, tồn tại kéo dài, tích tụ lại đã đẩy xã hội Xô-viết đến sự sụp đổ.
Sự sai lầm về đường lối cải tổ của lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô trước đây
- cả đường lối kinh tế, chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ và đối ngoại, sự
phản bội lại lý tưởng xã hội chủ nghĩa của một số lãnh đạo cao nhất trong Đảng
cùng với âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc, sự chống
phá của các thế lực thù địch là những nguyên nhân trực tiếp. Không thể quy sự sụp
đổ của Liên Xô vào chủ nghĩa Mác - Lênin. Chính sự nhận thức sai, vận dụng sai,
sự phản bội lại chủ nghĩa Mác - Lênin của một số người cao nhất trong ban lãnh
đạo Đảng Cộng sản Liên Xô là nguyên nhân chủ yếu. Vì vậy, quyết không được đồng
nhất những sai lầm đó với bản thân chủ nghĩa Mác - Lênin. Tại sao công cuộc cải
cách, mở cửa của Trung Quốc, công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế của Việt Nam lại
đạt được những thành tựu to lớn, quan trọng? Cải tổ sẽ không thất bại nếu Đảng
Cộng sản Liên Xô có đường lối cải tổ đúng đắn, trung thành và sáng tạo trong vận
dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, trung thành với lý tưởng xã hội chủ nghĩa, có bản
lĩnh chính trị vững vàng, cảnh giác với âm mưu và hoạt động chống phá chủ nghĩa
xã hội của các thế lực đế quốc thù địch, nếu xây dựng Đảng và Nhà nước vững mạnh,
trong sạch, gắn bó mật thiết với nhân dân, chống được quan liêu, tham nhũng...
Bài học về sự sụp đổ của Liên Xô nay đã trải qua gần 30 năm song vẫn là lời cảnh
báo thường xuyên đối với các đảng cộng sản đang cầm quyền ở các nước xã hội chủ
nghĩa để tránh đi vào “vết xe đổ” của Liên Xô./.
(1) Hồ
Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 2011, t. 2, tr. 289
(2) Hồ
Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 509
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét