Hiện nay các thế lực thù địch đang đẩy mạnh chống phá Quân đội ta trên nhiều lĩnh vực nhằm thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa quân đội”; hạ thấp vai trò, uy tín và bôi nhọ hình ảnh của Quân đội nhân dân. Trong đó, chúng chống phá cả những lĩnh vực thuộc về chức năng, nhiệm vụ, truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam, đặc biệt là chức năng “đội quân lao động sản xuất”.
Để đấu tranh
chống lại những quan điểm sai trái, nhận thức lệch lạc về vấn đề này, trước
tiên chúng ta cần quán triệt và nhận thức đúng đắn rằng: Quân đội tham gia lao động sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội là
một chủ trương nhất quán, xuyên suốt của Đảng, Quân ủy Trung ương và Bộ quốc
phòng. Thống nhất với chủ trương, quan điểm đó, trong bài phát biểu của Đại
tướng Ngô Xuân Lịch, Ủy viên Bộ chính trị,
Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng tại buổi làm việc với
Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn ngày 12/7/2017 đã tiếp tục khẳng định: “sản xuất,
xây dựng kinh tế kết hợp quốc phòng là một trong những chức năng, nhiệm vụ
chiến lược lâu dài của Quân đội, phấn đấu là một nguồn lực quan trọng góp phần
thực hiện mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ... mục tiêu
của Quân đội tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế chính là: (1) Củng cố bản thân
tiềm lực quốc phòng của đất nước; (2) Góp phần gia tăng tiềm lực Quốc gia; (3)
Củng cố vị thế độc lập, tự chủ của đất nước và công nghiệp quốc phòng, trang bị
vũ khí, khí tài cho Quân đội; (4) Tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế, góp
phần nâng cao vị thế quốc tế của đất nước thông qua sự hợp tác với bên ngoài”.
Trải qua hơn 70
năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Quân đội ta luôn là quân đội của dân,
do dân và vì dân, mang bản chất giai cấp công nhân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản Việt Nam. Ngay từ ngày mới được thành lập, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã xác định quân đội có ba chức năng chủ yếu là: “đội quân chiến đấu, đội
quân công tác và đội quân lao động sản xuất”. Ba chức năng này đã phản ánh vai
trò gián tiếp của Quân đội ta đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, là
bảo vệ hòa bình, ổn định tạo điều kiện cho kinh tế phát triển. Cùng với đó,
Quân đội còn trực tiếp tham gia lao động sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội
dưới nhiều hình thức khác nhau. Đây là một tất yếu khách quan, xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn sau:
Một là, xuất phát từ mối quan hệ giữa
quân đội với sự nghiệp phát triển nền kinh tế quốc dân.
Bàn về mối quan hệ giữa quân đội với
nền kinh tế, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định: Quân đội
vừa phụ thuộc vào kinh tế vừa có vai trò tích cực đối với sự phát triển của
kinh tế. Sự phụ thuộc của quân đội vào nền kinh tế được thể hiện ở: Bản chất của
quân đội do bản chất của chế độ kinh tế - xã hội, của giai cấp, nhà nước đã
sinh ra nó quyết định. Mỗi quân đội là một sản phẩm của một chế độ kinh tế - xã
hội nhất định. Khi chế độ kinh tế - xã hội và nhà nước bị thay đổi (thông qua
cách mạng xã hội) thì bản chất của quân đội cũng thay đổi theo.
Trong các chế độ kinh tế - xã hội dựa
trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu như chiếm hữu nô lệ, phong kiến,
tư bản chủ nghĩa, quân đội là công cụ bạo lực bảo vệ lợi ích của giai cấp thông
trị, đàn áp, áp bức người lao động và thực hiện các cuộc chiến tranh xâm lược đối
với các quốc gia khác.
Trong chủ nghĩa xã hội, quân đội của
nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp công nhân, là công cụ bạo
lực để bảo vệ lợi ích, thành quả cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng
nhân dân lao động.
Kinh tế còn quyết định đến trạng
thái chính trị tinh thần của người lính, quyết định đến thành phần, tổ chức
biên chế, cơ cấu, vũ khí trang bị, phương thức tác chiến của quân đội. Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Không có gì phụ thuộc vào những
điều kiện kinh tế hơn là chính ngay quân đội và hạm đội”.
Tuy nhiên, quân đội không chỉ phụ
thuộc vào nền kinh tế mà còn có vai trò tích cực đến sự phát triển kinh tế. C.
Mác đã viết: “Nói chung quân đội đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển
kinh tế”. Quân đội là lực lượng nòng cốt giữ vững hòa bình, tạo điều kiện thuận
lợi cho nền kinh tế phát triển; đồng thời quân đội còn trực tiếp tham gia phát
triển nền kinh tế quốc dân dưới nhiều nội dung và hình thức khác nhau.
Hai là, xuất phát từ bản chất,
truyền thống của quân đội cách mạng và điều kiện kinh tế - xã hội nước ta.
Kế thừa và phát huy truyền thống “Dựng
nước đi đôi với giữ nước” của cha ông, thấm nhuần nguyên lý của chủ nghĩa Mác
- Lênin về xây dựng quân đội cách mạng kiểu mới, “Quân đội của dân, do dân và
vì dân”, mang bản chất giai cấp công nhân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Mọi hoạt động của quân đội đều nhằm mục đích là bảo vệ và đem lại cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Chính vì vậy mà quân đội thực hiện tốt ba
chức năng “đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất”
là đều nhằm mục đích đó.
Thực tế cho thấy, khi vừa ra khỏi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, ở miền Bắc,
năm 1956 hàng vạn cán bộ, chiến sĩ quân đội đã được cử đến những vùng núi cao
xa xôi, biên cương của Tổ quốc, những bãi lầy ven biển để khai phá xây dựng
nông trường quân đội, thu hút dân cư vào sinh cơ lập nghiệp, phát triển sản
xuất, ổn định đời sống. Tính đến năm 1960, ở miền Bắc quân đội đã xây dựng được
29 nông trường thu hút hàng vạn hộ dân vào làm ăn sinh sống. Nhiều nông trường
ngày đó như: Điện Biên (Lai Châu); Mộc Châu (Sơn La); Đông Hiếu (Nghệ An);
Bình Minh (Ninh Bình)... đã trở thành những điểm sáng về kinh tế - xã hội, quốc
phòng, an ninh.
Sau giải phóng miền Nam
(30/04/1975), hàng vạn cán bộ, chiến sĩ quân đội được chuyển sang làm nhiệm vụ xây dựng và phát triển
kinh tế như: Khôi phục tuyến đường sắt Bắc - Nam; rà phá bom mìn, khai hoang
phục hoá, thau chua rửa mặn đem lại hàng chục vạn ha đất canh tác cho nhân dân
vùng Đồng Tháp Mười, tứ giác Long Xuyên, miền Đông Nam Bộ. Đặc biệt, để kết hợp
chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh, giữa
bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước, cùng với quá trình tổ chức sắp xếp lại
lực lượng lao động sản xuất của quân đội, Đảng và Nhà nước đã cho phép quân
đội thành lập các đơn vị làm kinh tế trên các địa bàn chiến lược. Trong đó có
đoàn Kinh tế - Quốc phòng Binh đoàn 15 Tây Nguyên (thành lập năm 1985 theo
quyết định 68/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, nay là Thủ tướng Chính phủ).
Trên cơ sở làm ăn có hiệu quả và lợi ích kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh
mà Binh đoàn 15 Tây Nguyên đã đạt được, Bộ Quốc phòng đã chủ động đề nghị với
Chính phủ và đã được Chính phủ cho phép triển khai xây dựng 22 khu kinh tế -
quốc phòng trên các địa bàn chiến lược, biên giới, hải đảo. Thực tiễn xây dựng,
phát triển các khu kinh tế - quốc phòng đã chứng minh đây là một trong những
hình thức, nội dung quân đội tham gia phát triển nền kinh tế quốc dân có hiệu
quả không chỉ trên góc độ kinh tế mà còn cả trên góc độ xã hội, quốc phòng, an
ninh.
Mặt
khác, trong điều kiện tiềm lực kinh tế của nước ta hiện nay còn nhỏ, trình độ
phát triển chưa cao, mặt bằng thu nhập và đời sống của nhân dân còn nghèo; phải
tập trung đầu tư cho nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội khác nhau, nhất là cho sự
nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cho xoá đói, giảm
nghèo, nâng cao đời sống nhân dân,… Do dó, quân đội trực tiếp tham gia sản xuất,
phát triển kinh tế để tự túc một phần
chi tiêu sẽ làm giảm gánh nặng cho nền kinh tế quốc dân.
Ba là, xuất phát từ điều
kiện và khả năng của quân đội ta hiện nay.
Trong giai đoạn hiện nay, quân đội ta hoàn toàn có đủ
điều kiện và khả năng thực hiện tốt chức năng là đội quân lao động sản
xuất, tham gia phát triển nền kinh tế quốc dân. Hiện nay đất nước đang trong
thời bình, quân đội có thể sử dụng nhân lực, cơ sở vật chất kỹ thuật và nhiều
lĩnh vực, ngành, nghề lưỡng dụng cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Về nhân lực, quân đội là một tổ chức vũ trang đặc biệt, có
quân số thường trực trẻ, khoẻ, có trình độ văn hoá và chuyên môn nghiệp vụ ngày
một cao, có ý thức tổ chức kỷ luật tốt, được tổ chức quản lý chặt chẽ. Nhiều
cán bộ, chiến sĩ quân đội có hiểu biết sâu rộng về các lĩnh vực kinh tế, xã hội
nên có thể hoạt động tốt trên lĩnh vực này. Hơn nữa, hiện nay quân đội hoạt động
trong thời bình, nên bên cạnh các đơn vị làm nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến
đấu thì có thể tận dụng một số lực lượng, phương tiện làm nhiệm vụ sản xuất, phát triển kinh tế.
Về phương
tiện, ngành nghề, quân đội được
giao nhiều phương tiện vật chất kỹ thuật mang tính lưỡng dụng cao, vừa có thể
phục vụ chiến đấu vừa có thể phục vụ phát triển kinh tế dân sinh như hệ thống
thông tin liên lạc, máy bay vận tải, tàu vận tải biển, các máy móc hiện đại
lĩnh vực công nghiệp quốc phòng, các nhà máy xí nghiệp này hoàn toàn có thể tận
dụng hệ thống máy móc thiết bị, nhà xưởng, nhân lực, công nghệ để sản xuất hàng
hóa phục vụ dân sinh. Quân đội còn có nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghề không chỉ
đáp ứng yêu cầu hoạt động quân sự mà còn có thể đáp ứng yêu cầu hoạt động dân
sinh. Chẳng hạn, hệ thống bệnh viện quân đội ngoài việc khám chữa bệnh cho cán
bộ, chiến sĩ còn có thể khám chữa bệnh cho nhân dân, hàng năm có thể tổ chức
các đội công tác lưu động về các vùng sâu, vùng xa khám chữa bệnh cho dân
nghèo, tuyên truyền vận động nhân dân phòng chống dịch bệnh. Quân đội còn có một
hệ thống các trường đại học, cao đẳng, trung cấp, các cơ sở nghiên cứu, các
trường dạy nghề, các trung tâm đào tạo nghề và giới thiệu việc làm của các
quân khu, quân đoàn, quân binh chủng, học viện, nhà trường. Do đó, vừa có thể
đào tạo cán bộ, chiến sĩ, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng
đáp ứng yêu cầu hoạt động của quân đội, vừa có thể đào tạo cán bộ, nhân viên y
tế cho xã nghèo, vùng nghèo.
Hơn nữa, hiện nay quân đội có nhiều đơn vị đang đứng chân
tại những địa bàn chiến lược, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Những nơi này thường tập trung nhiều đồng bào các dân tộc ít người, kinh tế
kém phát triển, các điều kiện bảo đảm cho phát triển kinh tế - xã hội của nhân
dân còn nhiều khó khăn. Nhiều địa bàn rất thiếu và yếu cơ sở hạ tầng kinh tế -
xã hội, nhất là giao thông cách trở đi lại khó khăn. Vì vậy, cùng với việc sử dụng
các lực lượng khác trong thực hiện các dự án, chương trình phát triển kinh tế -
xã hội, xóa đói giảm nghèo,... thì quân đội
là một lực lượng quan trọng. Việc sử dụng quân đội vào các hoạt động sản xuất, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện các
chương trình mục tiêu ở vùng biên giới và hải đảo là rất thuận lợi và có tính
hiệu quả cao, đồng thời còn giúp nắm chắc địa
bàn, thực hiện chức năng của đội quân công tác và gắn bó mật thiết hơn với nhân
đân.
Đây chính là cơ sở vững chắc để quân đội ta cùng với toàn Đảng, toàn dân thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ kết hợp phát triển kinh tế, xã hội với quốc phòng an
ninh trong giai đoạn hiện nay.
Trí Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét