Gần đây, một số đối tượng phản động tán phát tài liệu "CNXH thực ra là phiên bản nâng cấp của phong
kiến và thực dân" có nội dung xuyên tạc chế độ XHCN của
các nước trên thế giới là "sự kết
hợp giữa chế độ phong kiến với chế độ thực dân", đồng thời xuyên
tạc CNXH hiện nay là “lưu
manh, mị dân, tàn ác”.
Xin chia sẻ với các
độc giả bài viết "Mô hình chủ
nghĩa xã hội Việt Nam
- Những bài học sau 30 năm đổi mới" góp phần nâng cao nhận thức về mô hình
CNXH mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Sau khi mô hình chủ nghĩa xã
hội trong thế kỷ XX (1917-1991) được coi là quan liêu, bao cấp, duy ý chí bị
sụp đổ, những nước xã hội chủ nghĩa còn lại đều đưa ra mô hình riêng. Là một
trong những nước kiên định con đường xã hội chủ nghĩa và tìm kiếm mô hình chủ
nghĩa xã hội đích thực, sau 30 năm đổi mới, Đảng ta đã hình thành nên một hệ
thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội, làm cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách phát triển
đất nước theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Từ xác định hệ mục tiêu...
Hệ mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội Việt Nam
được hình thành và phát triển trong thực tiễn 30 năm đổi mới. Qua mỗi kỳ Đại
hội, Đảng ta luôn nhận thức, bổ sung, phát triển và dần dần hoàn chỉnh hệ mục
tiêu ấy. Từ khi bắt đầu sự nghiệp đổi mới, trải qua 7 kỳ Đại hội, với 2 lần xây
dựng Cương lĩnh phát triển đất nước, Đảng ta đã xác định được hệ mục tiêu tương
đối hoàn chỉnh ghi trong Văn kiện Đại hội XI và XII (dự thảo) là: “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Tại Đại hội XI (năm 2011), Đảng Cộng
sản Việt Nam đã phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa các mục tiêu, vị trí,
vai trò của các mục tiêu với tư cách là những thuộc tính giá trị của sự nghiệp
đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nhận thức lý luận của Đảng
ta tại Đại hội XI về hệ mục tiêu có hai điểm nhấn quan trọng: (1) Khẳng định vị
trí, vai trò của “dân chủ”, tác dụng to lớn của dân chủ đối với các mục tiêu
khác như dân giàu, nước mạnh, công bằng, văn minh. Xây dựng xã hội Việt Nam
thành một xã hội dân chủ với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là những điểm cốt
yếu, quan trọng của chủ nghĩa xã hội Việt Nam. (2) Xác định hệ giá trị mục tiêu
của đổi mới cũng là đặc trưng tổng quát của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam . Xã hội xã
hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam
xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một xã hội “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Đến Văn kiện Đại hội XII (dự
thảo), Đảng ta tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng
tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta là phù hợp với thực tiễn của
Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Bài học đầu tiên trong 5 bài học
thành công là “không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác -
Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp
thu tinh hoa văn hoá nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt
Nam”. Quan niệm về xã hội xã hội chủ nghĩa như vậy đã thể hiện rõ tính dân tộc
và tính thời đại, lấy lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc là cốt lõi, là mục tiêu
hàng đầu của phát triển đất nước, vừa đúng quy luật, vừa hợp lòng dân và xu thế
phát triển của thế giới đương đại.
Đến những đặc trưng của
xã hội xã hội chủ nghĩa
Trên cơ sở khái quát, tổng kết thực tiễn
đổi mới, tư duy, nhận thức lý luận của Đảng ta về các đặc trưng của xã hội xã
hội chủ nghĩa được phát triển qua các nhiệm kỳ Đại hội, nhất là trong Cương
lĩnh năm 1991 và Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011. Từ những đặc trưng
của xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng, được
khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, thông qua tại Đại hội VII (năm 1991) và Cương lĩnh bổ sung, phát
triển năm 2011, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khái quát thành 8 đặc trưng là: (1)
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; (2) do nhân dân làm chủ; (3)
có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp; (4) có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
(5) con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện; (6) các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng, giúp nhau cùng phát triển; (7) có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; (8) có quan
hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Tám đặc trưng này vừa phản
ánh quan niệm tổng quát về chủ nghĩa xã hội vừa làm rõ nội dung các lĩnh vực
của đời sống xã hội phải thực hiện, từng bước hình thành, từ định hướng tới
định hình, bảo đảm yêu cầu phát triển hài hòa, bền vững của chủ nghĩa xã hội
Việt Nam. Trong đó, những bước tiến của nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội
của Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện ở 5 điểm: (1) Nhân dân làm chủ; (2)
Quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất; (3) Quan hệ dân tộc trong quốc gia đa dân tộc là quan hệ bình đẳng, đoàn
kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; (4) Quan hệ quốc gia - dân tộc với
cộng đồng quốc tế trong hội nhập là quan hệ hữu nghị, hợp tác; (5) Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Đặc biệt là vai trò lãnh đạo của Đảng với tư cách là lực lượng tiên phong, lãnh
đạo và cầm quyền đã được hiến định trong Điều 4, Chương 1, Hiến pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2013.…con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội
Trong Cương lĩnh bổ sung,
phát triển năm 2011, đã có những phát triển mới so với Cương lĩnh năm 1991, với
8 phương hướng bao quát các mặt, các lĩnh vực của mô hình chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam gồm: (1) Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; (2) xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; (3)
đảm bảo vững chắc quốc phòng và an ninh, trật tự, an toàn xã hội; (4) thực hiện
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển;
(5) chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; (6) xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân
tộc thống nhất; (7) xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân; (8) xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Những phương hướng này vừa
phản ánh đặc điểm nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, vừa tính đến xu thế phát triển của thế giới đương đại. Cùng với đó, việc
thực hiện 8 phương hướng sẽ cơ bản tạo cơ sở để đạt được 8 đặc trưng của xã hội
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam .
Đây là quan hệ giữa định hướng xã hội chủ nghĩa với định hình chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam, được thực hiện trong một quá trình lâu dài, phản ánh những đặc
điểm, yêu cầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa. Đó cũng là những tất yếu khách quan có tính quy luật đối với Việt Nam . Và
trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản, chúng ta phải giải quyết tốt
8 mối quan hệ lớn tồn tại khách quan trong quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế
để phát triển và hiện đại hóa đất nước, được Đảng ta nhận thức, khái quát hóa
thành lý luận, có giá trị và ý nghĩa to lớn, quan trọng, gắn 8 đặc trưng xã hội
xã hội chủ nghĩa với 8 phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội, tạo thành hệ
thống quan điểm lý luận chủ nghĩa xã hội Việt Nam, phản ánh quy luật và tính
quy luật của đổi mới - phát triển, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ở
Việt Nam trong điều kiện bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, trong thế giới đương
đại. Đó là: (1) mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; (2) giữa đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị; (3) giữa kinh tế thị trường và định hướng xã
hội chủ nghĩa; (4) giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện
từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; (5) giữa tăng trưởng kinh tế và
phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; (6) giữa xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; (7) giữa độc lập, tự chủ
và hội nhập quốc tế; (8) giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý với nhân dân làm
chủ…
Và những bài học dẫn đến
thành công
Kiên định con đường “xây
dựng nước Việt Nam
xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và
nhân dân Việt Nam
nỗ lực phấn đấu, giành được những thành tựu to lớn, tạo ra những tiền đề quan
trọng cho sự phát triển trong thời gian tiếp theo. Trong nhiều năm liền, Việt
Nam luôn đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao (trừ năm 2013, 2014); đời sống của
các tầng lớp nhân dân không ngừng được cải thiện, Việt Nam đã là điểm sáng về
thành tựu xóa đói, giảm nghèo; trở thành “điển hình về phát triển và bảo đảm
quyền con người”; do thực hiện tốt chính sách “hòa hợp dân tộc”, nên các dân
tộc đều đoàn kết, đồng sức, đồng lòng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tình hình an
ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững, chính trị ổn định, Việt
Nam có môi trường đầu tư an toàn cho các nhà đầu tư nước ngoài, là điểm hấp dẫn
khách du lịch quốc tế.
Thực tiễn trên không những
được nhân dân trong nước thừa nhận, mà còn được các tổ chức, cộng đồng quốc tế
như Liên hợp quốc đánh giá cao. Đó là một trong những cơ sở quan trọng để Việt Nam tiếp tục sự
kiên định con đường phát triển đất nước một cách có cơ sở lý luận và thực tiễn.
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay diễn ra trong bối cảnh đất nước
và quốc tế có những thời cơ và thách thức đan xen. Việt Nam phải tranh
thủ thời cơ, vượt qua thách thức, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa.Tiếp
tục khẳng định độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đây là
bài học rất cơ bản, xuyên suốt, bảo đảm cho cách mạng Việt Nam giành được
thắng lợi trong giai đoạn trước đây cũng như từ nay về sau. Để xây dựng đất
nước theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, Việt Nam không có
con đường nào khác ngoài con đường xã hội chủ nghĩa. chủ nghĩa xã hội đích thực
vẫn là tương lai của nhân loại, vẫn là xã hội thay thế chủ nghĩa tư bản hiện
đại; vì chủ nghĩa tư bản hiện đại tuy có một số ưu điểm, thành tựu nhưng không
thể khắc phục được quy luật vốn có của lịch sử mà các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra. Sự sụp đổ của nền tài chính
Mỹ và các nước tư bản phát triển ở Tây Âu từ hồi năm 2008 đến nay phải chăng
báo hiệu sự tất yếu sẽ bị thay thế của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Bằng chứng là, tại khoá họp
thường niên lần thứ 63 Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày 23-9-2008, Tổng thống
Pháp N. Xác-cô-di - Chủ tịch luân phiên của EU đã kêu gọi các nhà lãnh đạo chủ
chốt của thế giới tổ chức một cuộc họp thượng đỉnh để rút ra bài học từ cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu; đồng thời, “tái xây dựng một chủ nghĩa tư bản
điều chỉnh”. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng chủ nghĩa tư bản hiện đại đã không thể
tránh được các cuộc khủng hoảng chu kỳ mà nó còn làm sâu sắc thêm các cuộc
khủng hoảng, biến khủng hoảng kinh tế quốc gia (Mỹ) thành cuộc đại khủng hoảng
kinh tế toàn cầu. Cuộc khủng hoảng sâu sắc đến mức sự can thiệp của nhà nước có
nền kinh tế lớn nhất hành tinh như Mỹ với hàng ngàn tỉ USD nhưng đã 7 năm trôi
qua, hiệu quả vẫn rất thấp, buộc FED phải duy trì lãi suất gần 0% kéo dài và
người ta vẫn còn đang lo ngại về nguy cơ tái khủng hoảng. Cuộc khủng khoảng đầu
tiên của chủ nghĩa tư bản hiện đại trong thế kỷ XXI đã làm “sống lại” học
thuyết Mác - Lênin. Như vậy, trong sự bất lực của thể chế kinh tế tư bản chủ
nghĩa hiện đại, nhân loại đã trở về với học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lê-nin
để tìm lời giải đáp. Thêm vào đó, những năm gần đây sự xuất hiện trào lưu mới
(cánh tả) hay còn gọi là chủ nghĩa xã hội Mỹ La-tinh, chứng tỏ con đường xã hội
chủ nghĩa vẫn là xu thế phát triển của thời đại.
Ngày nay, khi mà nhân loại đang tiến tới thời đại kinh tế tri thức thì những tiêu chí của chủ nghĩa xã hội có nhiều cơ sở để trở thành hiện thực; mặc dù, thời gian có thể phải nhiều năm, thậm chí nhiều chục năm. Thực tiễn trên đây cũng là cơ sở để lý giải về mối quan hệ gắn kết giữa yêu nước với yêu chủ nghĩa xã hội. Sự khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản hiện đại, sự “trở về” của nhân loại với học thuyết Mác - Lê-nin đang làm cho vấn đề “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” không chỉ là bài học lịch sử mà còn là yêu cầu khách quan của cả hiện tại và tương lai.
Ngày nay, khi mà nhân loại đang tiến tới thời đại kinh tế tri thức thì những tiêu chí của chủ nghĩa xã hội có nhiều cơ sở để trở thành hiện thực; mặc dù, thời gian có thể phải nhiều năm, thậm chí nhiều chục năm. Thực tiễn trên đây cũng là cơ sở để lý giải về mối quan hệ gắn kết giữa yêu nước với yêu chủ nghĩa xã hội. Sự khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản hiện đại, sự “trở về” của nhân loại với học thuyết Mác - Lê-nin đang làm cho vấn đề “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” không chỉ là bài học lịch sử mà còn là yêu cầu khách quan của cả hiện tại và tương lai.
Tiếp thu những thành tựu
tiên tiến cho xây dựng chủ nghĩa xã hộiTrên cơ sở kiên định con đường đã chọn, biết tiếp thu, vận
dụng những thành tựu của nhân loại vào xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa là một
trong những bài học về xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam . Cho đến
nay, đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa lại những thành tựu to
lớn, được cả các nước theo con đường tư bản chủ nghĩa và con đường xã hội chủ
nghĩa tán thành, ủng hộ nhưng với động cơ và nhận thức khác nhau như vấn đề cổ
phần hoá doanh nghiệp nhà nước, xây dựng nền kinh tế thị trường... Nhưng, thực
chất đó là sự vận dụng những thành tựu mà nhân loại đã đạt được trong giai đoạn
phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại vào xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa,
chứ không phải là xa rời học thuyết Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tính ưu việt của chủ
nghĩa xã hội phải được thể hiện ngay trong quá trình xây dựngThực tế qua 30 năm đổi mới và phát triển
đất nước Việt Nam đã thu được những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, nhận thức
và đánh giá về tình hình đó lại có sự khác nhau. Điều này đòi hỏi Việt Nam vừa phải
kiên định định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa phải cụ thể hóa mô hình xã hội chủ
nghĩa để mọi người dân thấy rõ và cảm nhận được tính ưu việt của xã hội xã hội
chủ nghĩa mà nhân dân đang xây dựng. Những thành tựu của đất nước như: xóa đói,
giảm nghèo, bảo đảm an ninh, ổn định chính trị - xã hội, kinh tế phát triển với
tốc độ tương đối nhanh, hạn chế và khắc phục có hiệu quả những tác động tiêu
cực của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu, được thế giới công nhận,
cần được tiếp tục phát huy. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cần đầu tư thoả đáng hơn
nữa vào các chính sách xã hội, như: trợ cấp thất nghiệp, bảo đảm y tế cộng
đồng, phúc lợi xã hội... để cho người dân Việt Nam có thể cảm nhận được tính ưu
việt của xã hội chủ nghĩa so với tư bản chủ nghĩa ngay trong quá trình xây dựng
xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Như vậy, trong thời đại ngày
nay khi mô hình chủ nghĩa xã hội quan liêu bao cấp đã sụp đổ (năm 1991), mô
hình chủ nghĩa tư bản hiện đại cũng đang lún sâu trong cuộc đại khủng khoảng,
bắt nguồn từ Mỹ năm 2008 kéo dài cho đến nay, hiện vẫn đang trong giai đoạn
“tiêu điều” chưa có dấu hiệu phục hồi và phát triển, thì việc Việt Nam kiên
định sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa là phù hợp với quy luật khách quan
của thời đại, được nhân dân Việt Nam và nhân loại tiến bộ đồng tình ủng hộ. Sau
30 năm đổi mới, Đảng ta đã hình thành được một hệ thống quan điểm lý luận về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, làm cơ sở khoa học cho
hoạch định đường lối, chính sách, phát triển đất nước theo mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, góp phần bổ sung và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Những thành tựu mà Việt Nam
đạt được trong 30 năm đổi mới đã khẳng định tính đúng đắn sáng tạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo dân tộc Việt Nam kiên định con đường xã hội
chủ nghĩa và lựa chọn mô hình chủ nghĩa xã hội với những đặc trưng vừa phù hợp
với những đặc điểm của đất nước và con người Việt Nam vừa phù hợp với tính chất
của thời đại mới - thời đại kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế./.
NVH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét