Cách đây 64
năm, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân
ta đã làm nên một Ðiện Biên Phủ (ÐBP) "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu",
kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ.
Ðây là thắng lợi lịch sử to lớn của dân tộc Việt Nam, là minh chứng hùng hồn
sức mạnh của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là của chiến tranh nhân dân Việt Nam
thời đại Hồ Chí Minh.
Dưới
sự lãnh đạo của Ðảng, do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, cả dân tộc Việt Nam ra
trận. Nhân dân ta từ vùng tự do đến vùng địch hậu, từ hậu phương tới tiền
tuyến, miền núi và miền xuôi, già trẻ gái trai... đã "đem toàn lực chi
viện ÐBP, làm mọi việc cần thiết để giành toàn thắng cho chiến dịch". Ðúng
như Ðại tướng Võ Nguyên Giáp đánh giá: "chưa bao giờ trong suốt mấy năm
kháng chiến, dân ta đã góp sức nhiều như trong Ðông Xuân 1953 - 1954, chi viện
cho quân đội giết giặc... Bọn đế quốc, bọn phản động không bao giờ đánh giá
được sức mạnh của cả một dân tộc, sức mạnh của nhân dân".
Thắng
lợi ÐBP là do đường lối vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, thực hiện kháng chiến
toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế
quyết định. Trong chiến cuộc Ðông Xuân 1953 - 1954, đường lối đó được thể hiện
ở chủ trương chiến lược, đánh địch bằng cả các đòn tiến công quân sự và đấu
tranh chính trị, binh vận, trên tất cả các vùng trong cả nước và ở cả chiến
trường Ðông Dương; bằng cả sức mạnh các đơn vị chủ lực và của sức mạnh chiến
tranh du kích; với cả lực lượng cơ động và lực lượng tại chỗ... buộc địch phân
tán lực lượng. Từ đó, đảng bộ các đơn vị quân đội và địa phương có chủ trương,
giải pháp thích hợp, tập trung lãnh đạo và tổ chức cho cán bộ, chiến sĩ và nhân
dân chiến đấu, phục vụ chiến đấu trên quy mô lớn chưa từng có.
Nhân
dân các dân tộc ở các địa phương, từng buôn, làng, thôn, bản, phối hợp cùng bộ
đội chiến đấu, phục vụ chiến đấu, bảo vệ vùng tự do; tham gia thông tin, liên
lạc, trinh sát; tiến công địch bằng binh vận, vận động sĩ quan, binh lính địch
bỏ ngũ về với nhân dân và bức hàng, bức rút các đồn bốt giặc. Hàng trăm nghìn
dân công tham gia tải thương, tải đạn, bảo đảm giao thông vận tải... Ðặc biệt,
bằng giảm tô, giảm tức, cải cách ruộng đất ngay trong khi cuộc kháng chiến đang
diễn ra, Ðảng và Chính phủ đã tạo nên một luồng sinh khí mới, động lực to lớn
trong nhân dân đem sức người, sức của phục vụ chiến dịch.
Trên
cơ sở xác định hướng chính là Tây Bắc, Ðảng đã chủ trương dùng một bộ phận quân
chủ lực phối hợp các lực lượng địa phương, chủ động đẩy mạnh các hoạt động tiến
công địch ở đồng bằng Bắc Bộ, Tây Nguyên, phối hợp cùng Bạn tiến công địch ở
Thượng, Trung và Hạ Lào; củng cố vùng tự do Liên khu V, đẩy mạnh chiến tranh du
kích ở chiến trường Nam Bộ, cực nam Trung Bộ. Cùng với những thắng lợi của các
chiến dịch giải phóng Lai Châu, nam Tây Nguyên, phối hợp tiến công địch của
quân và dân Lào - Việt ở Thượng và Hạ Lào, đánh mạnh địch ở đồng bằng Bắc Bộ,
nam Trung Bộ... thì cuộc chiến đấu của nhân dân và các lực lượng vũ trang
(LLVT) ta trong vùng địch tạm kiểm soát cũng mang lại hiệu lực to lớn. Nhờ đó,
ta tiêu diệt một bộ phận lớn sinh lực địch, giải phóng đất đai, khoét sâu mâu
thuẫn cơ bản giữa tập trung và phân tán binh lực của địch; mở rộng quy mô của
cuộc tiến công chiến lược, tạo nên thế trận mới, điều kiện vô cùng thuận lợi để
chi viện sức người, sức của cả dân tộc cho mặt trận và buộc lực lượng cơ động
của địch bị giam chân tại các địa phương mà không thể chi viện cho tập đoàn cứ
điểm ÐBP...
Dưới
sự lãnh đạo của T.Ư Ðảng, mà trực tiếp là Bộ Chính trị, Tổng Quân ủy, quân và
dân ta phối hợp chặt chẽ từ T.Ư tới địa phương, hậu phương với tiền phương, địa
phương với đơn vị, sức mạnh hiện hữu của quốc gia với khả năng tiềm ẩn trong
dân. Khi Ðảng động viên, ra lời kêu gọi, thì tất cả đều sẵn sàng, tham gia. Ý
chí, quyết tâm của T.Ư Ðảng đã củng cố ý chí, quyết tâm, khơi dậy lòng yêu
nước, nhiệt tình cách mạng, sự đoàn kết thống nhất của cả dân tộc, ở hậu phương
cũng như tiền tuyến, từ trong Ðảng đến toàn quân, toàn dân; được thể hiện từ
Ban Chấp hành T.Ư, Bộ Chính trị, Tổng Quân ủy, Ðảng ủy, chỉ huy mặt trận, tới
tất cả các lực lượng tham gia chiến dịch, động viên cán bộ, chiến sĩ, dân công,
thanh niên xung phong và đồng bào hậu phương giữ vững quyết tâm chi viện và
giành thắng lợi trong chiến dịch ÐBP...
Ðó
là chiến thắng của nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh toàn dân, toàn diện, tự lực
cánh sinh, dựa vào sức mình là chính: Ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Ðảng ta đã giương cao ngọn cờ độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH), đề ra đường lối kháng chiến độc lập, đúng đắn,
sáng tạo, kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến, vừa kháng
chiến, vừa kiến quốc, xây dựng chế độ mới để quy tụ, tập hợp, nhân lên sức mạnh
dân tộc. Xây dựng LLVT nhân dân ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương,
dân quân du kích), làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc...
Trên
cơ sở đường lối cách mạng, đường lối quân sự đúng đắn, sáng tạo, T.Ư Ðảng và
Tổng Quân ủy cụ thể hóa thành công vào lãnh đạo toàn diện chiến dịch ÐBP. Trong
đó nổi bật nhất là, đã phân tích, đánh giá đúng tình hình, so sánh lực lượng
ta, địch; chủ động dự kiến trước những khó khăn..., để lãnh đạo, chỉ đạo và chỉ
huy, có biện pháp khắc phục, xây dựng thế trận và lực lượng chiến tranh nhân
dân rộng khắp, vừa có chiều rộng, vừa có chiều sâu, dùng mưu kế, chủ động đánh
địch, buộc địch phải hành động theo ý định của ta. Phát huy tối đa ưu thế tuyệt
đối về chính trị - tinh thần của quân và dân; đồng thời trên cơ sở "đánh
chắc thắng", đã sáng tạo ra phương châm - nghệ thuật đánh giặc độc đáo
"đánh chắc, tiến chắc", để kịp thời thay thế phương châm "đánh
nhanh, giải quyết nhanh". Cùng với đó, chúng ta còn nghiên cứu tìm ra
những điểm yếu rất cơ bản của địch mà ta có thể khai thác, lợi dụng. Các biện
pháp vô hiệu hóa sân bay, không cho máy bay các loại hạ cánh; luồn sâu đánh
hiểm, đánh lấn, đào dũi áp sát rồi bất ngờ xông lên tiêu diệt mục tiêu; tranh
thủ thời cơ thi đua diệt từng bộ phận nhỏ quân địch, bắn tỉa săn Tây, đoạt dù
triệt nguồn tiếp tế, được phát động rộng khắp, khiến quân địch không dám thò
mặt ra khỏi công sự, gây tổn thất và làm cho chúng lâm vào cảnh không thể bảo
đảm hậu cần tiếp tế trong vòng vây... Ðó là những đòn hiểm khoét sâu chỗ yếu,
dồn địch vào tình thế "địa ngục", tạo nên sức mạnh quyết định thắng
lợi của chiến cuộc Ðông Xuân 1953 - 1954, mà đỉnh cao là chiến dịch ÐBP.
Ðó
là chiến thắng của sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại: Trong cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc, Ðảng ta luôn nhất quán phải lấy sức mình là
chính, "đem sức ta mà giải phóng cho ta", nhưng bên cạnh đó phải
tranh thủ sức mạnh của ngoại lực, sức mạnh của quốc tế, kết hợp chặt chẽ sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Tăng cường đoàn kết giữa các nước XHCN trên
lập trường chủ nghĩa Mác - Lê-nin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, mà trước hết là
với Liên Xô và Trung Quốc, để lấy đó làm cơ sở, hạt nhân mở rộng đoàn kết với
tất cả những người cộng sản, những lực lượng cách mạng, hòa bình, dân chủ và
tiến bộ khác trên thế giới. Trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, nhất là
trong Ðông Xuân 1953 - 1954, nhân dân các bộ tộc và quân giải phóng Pa-thét Lào
đã đồng cam cộng khổ, sát cánh chiến đấu cùng nhân dân và quân đội Việt Nam.
Nhân dân Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN anh em khác coi cuộc chiến đấu
của nhân dân, LLVT ta như tiền tuyến chống chủ nghĩa đế quốc của cả phe XHCN,
luôn dõi theo tình hình chiến sự ÐBP, kịch liệt lên án những âm mưu, hành động
kéo dài và mở rộng chiến tranh của đế quốc Pháp - Mỹ, hết lòng cổ vũ và giúp đỡ
cuộc chiến đấu của nhân dân ta. Khi cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta
đi đến bước quyết định, với tinh thần quốc tế chủ nghĩa cao cả, nhân dân và
Ðảng Cộng sản Pháp đã ra sức đẩy mạnh cuộc đấu tranh ủng hộ cuộc kháng chiến
chính nghĩa của nhân dân ta, đòi thực dân Pháp và Mỹ phải chấm dứt cuộc chiến
tranh ở Ðông Dương...
Thắng
lợi của ÐBP không chỉ là thắng lợi của tiến công về quân sự, mà đó là thắng lợi
của một cuộc tiến công toàn diện vào đế quốc và tay sai bằng sức mạnh Việt Nam,
đặc biệt là sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh,
được xây dựng trên cơ sở chế độ chính trị do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, trên
nền tảng kinh tế và nền văn hiến dân tộc, cũng như điều kiện tự nhiên đất nước,
v.v. được hình thành từ trong quá khứ và được Ðảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát
huy lên tầm cao mới.
Ngày
nay, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới.
Trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển tuy vẫn là xu thế lớn, nhưng
tình hình diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều bất trắc, khó lường... Các thế lực
thù địch với CNXH vẫn đang đẩy mạnh các hoạt động chống phá ta một cách toàn
diện... Ðể chủ động phòng ngừa làm thất bại mọi âm mưu, hành động chống phá của
các thế lực thù địch đối với nước ta, không để đất nước bị động, bất ngờ trong
bất cứ tình huống nào, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, chúng ta cần
tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng, sự quản lý của Nhà nước đối với nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc, với lĩnh vực quân sự, quốc phòng an ninh. Tiếp tục phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội, giữ vững sự ổn định chính trị xã hội đất nước. Coi trọng
chăm lo xây dựng, củng cố vững chắc sự đoàn kết thống nhất dân tộc để làm nền
tảng, động lực phát huy sức mạnh chiến tranh nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí
Minh. Tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa
bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng
hóa các quan hệ quốc tế. Củng cố nền quốc phòng toàn dân và xây dựng LLVT nhân
dân, quân đội nhân dân vững mạnh, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới./.
Nguồn: www.nhandan.com.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét