Theo P.A Samuelson, lạm phát xảy ra khi
mức chung của chi phí và giá cả tăng lên. Đối lập với lạm phát là giảm phát
(thiểu phát), nghĩa là giá cả, chi phí giảm xuống. Cơ sở để xem xét lạm phát là
“chỉ số giá cả”. Chỉ số giá cả (CPI) quan trọng nhất là chỉ số giá cả hàng tiêu
dùng được tính trên cơ sở giá của “giỏ hàng hoá” do từng quốc gia lựa chọn.
Thứ
nhất, các mức lạm phát:
Lạm phát lành mạnh (có kiểm soát); lạm phát vừa
phải; lạm phát phi mã; siêu lạm phát
Lạm phát lành mạnh là lạm phát với tỉ lệ thấp
(thường 2- 4%) do chính phủ chủ trương thực hiện nhằm kích thích sản xuất.
Lạm phát vừa phải xảy ra khi giá cả tăng chậm, dưới 2 con số (< 10%);
người tiêu dùng chưa cảm nhận được tác động của nó đến đời sống.
Lạm phát phi mã là lạm phát xảy ra khi giá cả hàng
hoá tăng 2 thậm chí 3 con số trong năm (< 1000%).
Siêu lạm phát là lạm phát xảy ra khi tiền
giấy được in ra và lưu hành quá nhiều, chỉ số giá cả tăng lên trên 4 con số (
> 1000%).
Thứ
hai, các loại lạm
phát:
Lạm phát có dự đoán trước không làm ai bị
thiệt hại hay được lợi cả vì tiền lương và giá cả biến đổi cùng chiều, cùng tỉ
lệ.
Lạm phát không thấy trước thường có lợi
cho các con nợ và những kẻ đầu tư mạo hiểm... đồng thời gây thiệt hại cho các
chủ nợ, cho những người làm công ăn lương, những người có thu nhập ổn định.
Thứ ba, tác động của lạm phát: lạm phát tác động trực
tiếp đến phân phối lại thu nhập và của cải. Thông thường, lạm phát cao làm cho
đồng tiền mất giá nên người bán và con nợ được lợi, người mua và các chủ nợ bị
thiệt hại. Lạm phát còn làm thay đổi quy mô sản lượng của nền kinh tế, một số
ngành, lĩnh vực có thể mở rộng hoặc thu hẹp quy mô sản xuất do mức cầu về các
loại hàng hoá (thiết yếu hay cao cấp) thay đổi. Lạm phát gây ra những tác hại
to lớn cho nền kinh tế. Nó làm biến dạng giá cả, lãi suất, thuế suất và tiền
công thực tế của người lao động.
Thứ
tư, nguồn gốc lạm phát:
Lạm phát do “cầu kéo” là nhu cầu tiêu dùng
tăng hơn khả năng sản xuất. Nó xảy ra khi nền kinh tế đạt tới hoặc vượt qua mức
sản xuất tiềm năng. Mức cung không thể tăng nhưng cầu tăng làm cho giá cả tăng
và dẫn đến lạm phát.
Lạm phát do chi phí đẩy là giá cả hàng hoá
tăng do chi phí đầu vào tăng. Chi phí đầu vào gồm các chi phí sản xuất (giá cả
nguyên liệu, lao động, đất đai), chí phí phi sản xuất (thuế, phí, lệ phí).
Thứ
năm, những biện pháp kiểm
soát lạm phát:
Đánh đổi lạm phát với tăng trưởng vì lạm
phát đi đôi với phát triển nóng; giảm tỉ lệ tăng trưởng sẽ giảm lạm phát. Dùng
“chỉ số hoá” để can thiệp làm thay đổi mức giá; ví dụ giá dầu mỏ tăng, nhà nước
giảm thuế nhập khẩu xăng dầu làm cho giá bán không tăng nhưng người kinh doanh
vẫn đảm bảo lợi nhuận. Ngoài ra còn có thể sử dụng biện pháp kinh tế (thuế,
lương, tín dụng) hoặc biện pháp hành chính để kiểm soát, điều tiết giá cả thị
trường.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét