Khung pháp luật của Nhà nước Việt Nam về quyền tự do ngôn
luận, báo chí, tiếp cận thông tin của công dân là cơ bản đầy đủ, đồng bộ, hoàn
toàn tương thích với luật quốc tế về quyền con người. Trong đó, quy định rõ
quyền, nghĩa vụ và việc hạn chế quyền này của công dân trong trường hợp cụ thể,
nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác.
1. Mối
quan hệ giữa quyền tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin với nghĩa vụ
công dân. Trong tất cả các văn kiện pháp
luật của quốc tế và Việt Nam, khái niệm “quyền” luôn bao gồm: quyền và
nghĩa vụ. Trong đó, tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin là một
quyền cơ bản được ghi nhận trong bản Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền (1948) và
được thể chế trong “Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị” (1966)
đã quy định rõ quyền và nghĩa vụ của người hưởng thụ quyền tự do ngôn luận, báo
chí. Theo đó, người dân có quyền tự do ngôn luận, quyền được
sử dụng các phương tiện báo chí, thông tin, mạng internet, các trang mạng xã
hội không trái với quy định của pháp luật. Tuy nhiên, người sử dụng quyền này
có nghĩa vụ phải tuân thủ quy định của pháp luật và chấp
nhận những hạn chế quyền. Việc thực hiện những quyền này phải kèm
theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt và việc này có thể
phải chịu một số hạn chế nhất định, nhằm tôn trọng các quyền hoặc
uy tín của người khác; bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe
hoặc đạo đức của xã hội.
Ở Việt Nam, “quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận
thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình”1 đã được quy định trong
Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013) và được cụ thể hóa
trong nhiều đạo luật, nghị định, như: Luật Báo chí (2016), Luật Tiếp cận thông
tin (2016), Nghị định 72/2013/NĐ-CP, ngày 15-07-2013 của Chính phủ về Quản lý,
cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng,… và thực thi nghiêm
túc, tạo không khí dân chủ trong xã hội2. Điều đó khẳng định và thể
chế hóa quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta tôn trọng và bảo đảm thực
thi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, quyền sáng tạo
tác phẩm báo chí; cung cấp thông tin cho báo chí; phản hồi thông tin trên báo
chí; tiếp cận thông tin báo chí, v.v. Quyền tiếp cận thông tin của công dân
được quy định rộng rãi hơn; đó không chỉ là một quyền thụ động do cơ quan nhà
nước công khai thông tin theo nhận thức của mình, mà còn là quyền chủ động,
được đòi hỏi các cơ quan, tổ chức nhà nước đáp ứng. Trên không gian mạng, Nhà
nước ta đã có những quy định về quyền tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông
tin. Theo đó, công dân có quyền được sử dụng các dịch vụ trên internet, trừ các
dịch vụ bị cấm theo quy định của pháp luật và có nghĩa vụ tuân thủ các quy định
về bảo đảm an toàn thông tin, an ninh thông tin; phải chịu trách nhiệm về nội
dung thông tin do mình lưu trữ, cung cấp, truyền đưa trên mạng xã hội, v.v.
Tuy nhiên, cũng như các quyền khác của con người, việc thực
hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin phải do pháp luật
quy định và trong khuôn khổ pháp luật; quy định rõ mối quan hệ giữa quyềnvới nghĩa
vụ công dân; “không được xâm phạm lợi ích quốc gia - dân tộc, quyền và
lợi ích hợp pháp của người khác”3. Vì thế, việc hạn chế các quyền
này “theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”4 là
một tất yếu. Những hành vi đăng, phát thông tin xuyên tạc, phỉ báng, phủ
nhận chính quyền; bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; xuyên tạc lịch
sử; phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, anh hùng dân tộc; thông tin
sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh
dự, nhân phẩm của cá nhân,... đều bị pháp luật xử lý. Đi liền với quyền tiếp
cận thông tin là những quy định về phân loại những thông tin mà người dân được
tiếp cận và những thông tin cơ quan, tổ chức không được phép cung cấp. Như vậy,
“Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân”5; “nghĩa vụ và
trách nhiệm đặc biệt” hoặc “một số hạn chế nhất định” theo quy định của pháp
luật Việt Nam hoàn toàn tương thích, phù hợp với luật quốc tế về quyền con
người.
Hiện nay, quyền tự do ngôn luận, báo chí ở Việt Nam không
những được bảo đảm tốt mà còn là nhân tố tích cực trong cuộc đấu tranh chống
những biểu hiện tiêu cực trong xã hội. Nhiều vụ tham nhũng lớn được báo chí
phanh phui, trước khi cơ quan chức năng phát hiện, như: vụ án Trịnh Xuân Thanh
bắt nguồn từ bài báo “Xe tư gắn biển xanh” là một minh chứng. Những năm gần
đây, các tổ chức đoàn thể, Mặt trận Tổ quốc tham gia tích cực việc giám sát,
phản biện đối với chính sách của Nhà nước. “Quyền phát biểu ý kiến về tình hình
đất nước và thế giới”, tham gia phản biện, giám sát của cá nhân, tổ chức được
Đảng, Nhà nước ta tôn trọng, khuyến khích. Tuy nhiên, vấn đề là phản biện ở đâu
và động cơ phản biện như thế nào để đảm bảo tính khách quan; tránh hiện tượng
“bôi đen” xã hội, bị kẻ xấu lợi dụng gây tổn hại cho người dân, xã hội và đất
nước.
2. Kiên quyết đấu tranh, xử lý
nghiêm những hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận, báo chí. Những năm gần
đây, xuất hiện cái gọi là “đấu tranh bất bạo động”, “bất tuân dân sự”, “hội
chứng đám đông” của một số “người bất đồng chính kiến”, v.v. Những hành vi vi
phạm pháp luật Việt Nam của những “người bất đồng chính kiến” được các hãng
thông tấn, báo chí phương Tây “tăng âm”, phát tán với các bình luận bao che, cổ
súy cho các hành vi phạm tội của họ với luận điệu lặp đi, lặp lại rằng: Việt
Nam đang “bóp nghẹt quyền tự do ngôn luận, báo chí, internet”; “vi phạm quyền
con người”, v.v. Điều này hoàn toàn phi lý và ngang ngược. Vì, pháp luật Việt
Nam không có quy định về cái mà báo chí phương Tây gọi là những “người bất đồng
chính kiến”. Do đó, cũng không có quy định pháp luật nào về tội danh đối với
“người bất đồng chính kiến”; không có quy định nào về những ý kiến “bất đồng”
hay ý kiến khác với Nhà nước là hành vi phạm tội. Tuy nhiên, thực tế cho thấy,
một số người lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tự chụp cho mình cái mác “người
bất đồng chính kiến” để viết, phát tán những nội dung xuyên tạc sự thật, chống
phá chế độ xã hội, Nhà nước trên mạng internet, v.v. Điển hình là: Vũ Quang
Thuận, Nguyễn Văn Điển, Trần Hoàng Phúc, Trần Thị Nga, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh,…
và họ đã nhận những bản án thích đáng về “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo Điều 88, Bộ luật Hình sự (1999). Đó là minh
chứng cho cái giá phải trả của việc lợi dụng tự do ngôn luận, báo chí để thực
hiện hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam. Trước Tòa, họ biện luận rằng: họ chỉ
là những “người bất đồng chính kiến”, đấu tranh hợp pháp, bằng “bất bạo động”
và điều này hoàn toàn không vi phạm pháp luật(!) Thực tế chứng minh điều ngược
lại. Những người này đã đăng tải nhiều video/clip trên internet, phỉ báng chính
quyền, phao tin bịa đặt, xuyên tạc sự thật; lợi dụng các quyền tự do dân chủ để
xâm phạm lợi ích quốc gia, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân
trong xã hội. Nói cách khác, những “người bất đồng chính kiến” bị pháp luật xử
lý là vì hành vi vi phạm pháp luật của chính họ.
Thực tế trên thế giới còn cho thấy, những vụ bạo động lật đổ
chế độ thường diễn ra theo chuỗi: bắt đầu bằng đấu tranh “bất bạo động”, “bất
tuân dân sự”, phát triển thành gây rối về an ninh trật tự dựa trên “hội chứng
đám đông” và cuối cùng là gây bạo loạn lật đổ chính quyền từ cục bộ đến cả
nước. Không loại trừ những kẻ cầm đầu kêu gọi lực lượng nước ngoài can thiệp.
Đây là “kịch bản kinh điển” của những hoạt động lật đổ chế độ ở một số quốc gia
trên thế giới trong những thập niên gần đây.
Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, nhất là quyền sử dụng mạng
internet đã và đang bị các thế lực thù địch trong và ngoài nước lợi dụng triệt
để để vu cáo, bội nhọ vai trò lãnh đạo cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam,
chống phá chế độ xã hội và Nhà nước ta. Những luận điệu cho rằng: “Chế độ Hà
Nội là độc tài toàn trị”, Đảng Cộng sản Việt Nam “chiếm quyền” của dân, “đứng
trên pháp luật”,… là một sự vu khống trắng trợn, hoàn toàn sai trái cả về thực
tế và lý luận. Cũng như pháp luật của tất cả các quốc gia trên thế giới và pháp
luật nói chung, pháp luật về quyền tự do ngôn luận nói riêng luôn luôn có mục
tiêu bảo vệ chế độ xã hội. Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị ghi
rõ: mọi dân tộc đều có quyền tự quyết; xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do
quyết định thể chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội và
văn hóa. Quy định này đã mặc nhiên thừa nhận các dân tộc có quyền tự quyết lựa
chọn chế độ chính trị; quyền và nghĩa vụ công dân đều do pháp luật của mỗi quốc
gia quy định. Hơn nữa, pháp luật luôn mang tính chính trị, lịch sử và đặc thù
về văn hóa. Ở nước ta, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được Hiến định
tại Điều 4, Hiến pháp (2013) và được Quốc hội - cơ quan đại biểu cao nhất của
nhân dân ta, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ghi nhận. Đảng ta không chỉ là
lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội mà còn có chức năng phục vụ nhân dân,
chịu sự giám sát của nhân dân và hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật. Về
thể chế chính trị của nước ta, Điều 2, Hiến pháp (2013), quy định: “1. Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; 2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; 3.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”6.
Những thông tin, luận điệu cổ súy “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”, lấy
mô hình “tam quyền phận lập” phương Tây làm đối chứng để bác bỏ thể chế của Nhà
nước ta không chỉ là một thủ đoạn bôi nhọ chế độ ta, mà còn ấu trĩ trong nhận
thức về sự đa dạng các mô hình xã hội trên thế giới hiện nay.
Như vậy, cả về lý luận, pháp lý và thực tế cho thấy: pháp
luật Việt Nam đã tương thích với luật quốc tế về quyền con người; tôn trọng và
bảo đảm quyền con người nói chung, quyền tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông
tin nói riêng. Quyền và nghĩa vụ công dân trong thực hiện quyền tự do ngôn
luận, báo chí, tiếp cận thông tin không chỉ thống nhất, mà còn là điều kiện,
tiền đề cho nhau. Công dân muốn được hưởng đầy đủ các quyền tự
do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin thì phải có nghĩa vụ thực
hiện các quy định của pháp luật nhằm bảo vệ chế độ xã hội, Nhà nước, các quyền
và lợi ích của người khác. Ngược lại, các quyền này có thể bị hạn chế hoặc tước
bỏ nếu có hành vi vi phạm pháp luật.
1 - Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Nxb CTQG, H. 2014, tr. 18.
2 - Tính đến tháng 6-2017, cả nước có 982 cơ quan báo, tạp
chí được cấp phép hoạt động; trong đó: 193 báo in, 639 tạp chí, 150 báo điện
tử. Số lượng người truy cập internet ước khoảng 64 triệu; Việt Nam đứng thứ 16
trong 20 quốc gia có số lượng người truy cập internet nhiều nhất châu Á.
3 - Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Nxb CTQG, H. 2014, tr. 15.
4, 5, 6 - Sđd, tr. 14, 15, 8-9.
Nguồn: www.tapchiqptd.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét