Ngày 29-5-2018, Bộ Ngoại Hoa Kỳ công bố Báo cáo thường niên
về tự do tôn giáo thế giới năm 2017 đề cập đến những “vi phạm tự do tôn giáo”
tại 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Trước đó, ngày 25-4-2018, Ủy
ban Tự do Tôn giáo quốc tế Mỹ (USCIRF), cơ quan tham vấn chính sách Tôn giáo
Đối ngoại của Chính phủ Mỹ cũng đã công bố Báo cáo thường niên về tự do tôn
giáo quốc tế 2017. Cũng như Báo cáo của Bộ Ngoại Mỹ, Báo cáo của USCIRF tiếp
tục đánh giá sai lệch, thiếu khách quan về tình hình tôn giáo ở Việt Nam.
Trong phần đánh giá về tình hình tôn giáo ở Việt Nam, Báo
cáo thường niên về tự do tôn giáo thế giới 2017 của Bộ Ngoại giao Mỹ nêu rằng,
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam được quy định trong Hiến pháp
và pháp luật; thời gian qua, Chính phủ Việt Nam đã đạt được những thành tựu
trong việc đảm bảo tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Tuy nhiên, Báo cáo
cho rằng, chính quyền tiếp tục “đàn áp” những tổ chức tôn giáo không
chịu sự kiểm soát của Nhà nước. Pháp luật Việt Nam với những điều khoản “mơ
hồ cho Nhà nước kiểm soát mọi sinh hoạt tôn giáo dưới danh nghĩa gọi là bảo vệ
an ninh quốc gia và duy trì đoàn kết dân tộc”. Cán bộ an ninh một số địa
phương gây sức ép, ngăn chặn hoạt động của các tổ chức tôn giáo chưa được cấp
phép đăng ký hoạt động. Chính quyền “quấy rối, cản trở” sinh
hoạt của tín đồ Công giáo ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Đồng Nai. Còn trong Báo cáo
thường niên của USCIRF, mặc dù đã công nhận Việt Nam có những bước tiến trong
việc đảm bảo quyền tự do tôn giáo, nhưng Báo cáo này lại đánh giá sai lệch,
xuyên tạc tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam, khi cho rằng: mặc dù Chính phủ
đã nhìn nhận sự đa dạng của tôn giáo nhưng lại chỉ chấp nhận hoạt động của
những tôn giáo đã được đăng ký với Chính phủ. Chính quyền “đã gia tăng bắt
bớ các blogger, những nhà hoạt động xã hội dân sự và cả những người theo các
tôn giáo không được nhà nước thừa nhận”. Báo cáo của USCIRF đã đề nghị đưa
Việt Nam vào danh sách các quốc gia cần đặc biệt quan tâm về tự do tôn giáo
(CPC) vì “có những đàn áp nghiêm trọng nhằm vào tôn giáo trong năm
2017”.
Vì sao Bộ Ngoại giao Mỹ vẫn tiếp tục lặp lại luận điệu xuyên
tạc cũ rích về tình hình tôn giáo ở Việt Nam như vậy? Bởi cũng như USCIRF, Bộ
này đã lấy thông tin chủ yếu từ một số nghị sĩ cực đoan Mỹ, những cá nhân bất
mãn, chống đối trong nước và các tổ chức phản động lưu vong, tổ chức phi chính
phủ quốc tế thường lợi dụng dân chủ, nhân quyền chống phá Việt Nam cung cấp để
xây dựng Báo cáo. Đó là các thông tin bị bóp méo, xuyên tạc, phản ánh sai lệch
tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Cả Bộ Ngoại giao Mỹ, USCIRF đã
cố tình áp đặt những định kiến chủ quan của họ để đưa ra những nhận xét sai
lệch, thiếu khách quan về tình hình tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, bất chấp
những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được trong việc đảm bảo tự do tín ngưỡng,
tôn giáo của người dân. Suy cho cùng, mục đích ra Báo cáo thường niên về tự do
tôn giáo quốc tế của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và USCIRF là nhằm hậu thuẫn, tiếp sức
cho những công dân Việt Nam vi phạm pháp luật núp dưới vỏ bọc “đấu tranh cho
tự do tôn giáo”, “dân chủ, nhân quyền” để xâm phạm an ninh chính trị,
trật tự, an toàn xã hội, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo cớ cho bên
ngoài can thiệp nội bộ nước ta. Quan niệm khác nhau về tín ngưỡng, tôn giáo
giữa các quốc gia là điều bình thường, nhưng điều cần nói ở đây là Chính phủ Mỹ
không có quyền áp đặt mô hình tôn giáo của mình cho các quốc gia khác trong đó
có Việt Nam, điều đó chỉ làm tổn hại đến quan hệ đối tác toàn diện đang phát
triển hết sức tốt đẹp giữa Mỹ và Việt Nam.
Trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Đảng ta luôn nhất quán chính sách tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do cơ bản
của con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Ngay từ ngày mới
thành lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 234/SL khẳng định:“Việc
tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng là quyền lợi của nhân dân. Chính phủ luôn tôn
trọng và giúp đỡ nhân dân thực hiện. Chính quyền không can thiệp vào nội bộ các
tôn giáo. Các tổ chức tôn giáo phải tuân theo pháp luật của Nhà nước như mọi tổ
chức khác của nhân dân. Việc bảo vệ tự do tín ngưỡng bắt buộc phải trừng trị
những kẻ đội lốt tôn giáo gây rối loạn”. Kế thừa, phát triển quan điểm chỉ
đạo của Người, Đảng ta đã khẳng định: “Quan tâm và tạo điều kiện cho
các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo Hiến chương, Điều lệ của tổ chức tôn giáo
đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước”. Trên cơ sở thể chế hóa quan điểm
của Đảng, luật pháp quốc tế về tự do tín ngưỡng, tôn giáo, Hiến pháp 2013 đã
khẳng định: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc
không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước
tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự
do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp
luật” (Điều 24); “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn
chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (Khoản
2, Điều 14); nghiêm cấm “xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc
lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”.Điều này hoàn toàn tương
thích với luật pháp quốc tế quy định trên lĩnh vực này, như Công ước quốc tế về
các quyền Dân sự, Chính trị năm 1966 đã khẳng định: “Mọi người đều có
quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo. Quyền này bao gồm tự do có
hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng do mình lựa chọn và tự do bày tỏ tín
ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong cộng đồng với những người khác, công
khai hoặc kín đáo, dưới các hình thức như thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và
truyền giảng”, “Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới
hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự
công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ
bản của người khác” (Điều 18). Đặc biệt, việc ban hành Luật
Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 là cơ sở pháp lý quan trọng khắc phục những
bất cập, tồn tại của pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo hiện hành,
đổi mới cơ chế quản lý nhà nước tạo thông thoáng, minh bạch, tạo cơ
chế pháp lý nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính trên lĩnh vực
này; hạn chế sự can thiệp hành chính của Nhà nước vào công
việc nội bộ của các tổ chức tôn giáo, góp phần bảo đảm ngày càng
tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trên thực tế.
Với những chủ trương, chính sách, pháp luật đúng đắn của
Đảng, Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, có thể dễ dàng nhận thấy những năm qua,
Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc trong việc đảm bảo tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của người dân, chưa bao giờ các tôn giáo có điều kiện phát
triển như hiện nay. Theo thống kê sơ bộ, từ 6 tôn giáo với 16 tổ chức tôn giáo
(năm 2005), hiện nay ở nước ta đã có 15 tôn giáo với 41 tổ chức tôn giáo được
Nhà nước công nhận và cấp đăng ký hoạt động với hơn 25 triệu tín đồ (chiếm
khoảng 27% dân số cả nước), hơn 83 nghìn chức sắc, nhà tu hành, gần 134 nghìn
chức việc, 27 nghìn cơ sở thờ tự (năm 2017). Các tôn giáo đã có hệ thống
đào tạo quy mô trong cả nước, trong đó, Phật giáo có 04 Học viện, 35 trường Cao
đẳng, Trung cấp Phật học; Công giáo có 07 Đại Chủng viện; Tin lành có 01 Viện
và 01 trường Thánh kinh Thần học, v.v. Các địa phương đã giải quyết cơ bản việc
lập hồ sơ, xét giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các tôn giáo; thủ tục hành
chính giải quyết nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của tín đồ chức sắc theo cơ chế “một
cửa” diễn ra công khai, nhanh gọn. Các cơ sở thờ tự tôn giáo được chính
quyền các cấp tạo điều kiện tu sửa, nâng cấp và xây mới. Ngày càng nhiều các
chức sắc, nhà tu hành tham gia quản lý nhà nước và xã hội, là đại biểu Quốc hội
và Hội đồng nhân dân các cấp. Nhà nước tạo điều kiện cho nhiều đoàn tôn giáo
quốc tế đến thăm và làm việc tại Việt Nam và cho phép nhiều đoàn chức sắc tôn
giáo trong nước đi thăm, làm việc ở nước ngoài. Hầu hết các tổ chức tôn giáo đã
có báo, tạp chí, bản tin; Nhà nước đã cấp phép xuất bản kinh sách bằng các
tiếng dân tộc và bằng song ngữ Việt với nhiều quốc gia, v.v. Hằng năm, có
khoảng 8.500 lễ hội tôn giáo, tín ngưỡng được tổ chức trên toàn quốc. Đồng bào
các tôn giáo thực sự trở thành lực lượng quan trọng hưởng ứng các phong trào
Thi đua yêu nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, tích cực đóng góp vào công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Những năm qua, Việt Nam đã tích cực thực hiện các nghĩa vụ,
cam kết quốc tế về quyền con người, như: Đảm nhận tốt vai trò thành viên Hội
đồng Kinh tế - Xã hội Liên hợp quốc (ECOSOC) nhiệm kỳ 2016 - 2018; tham gia
tích cực, có trách nhiệm Ủy ban Liên Chính phủ ASEAN về quyền con người
(AICHR), đồng thời thực hiện đầy đủ các cam kết và nghĩa vụ theo Cơ chế rà soát
định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ II của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, đặc
biệt là thực hiện 182 khuyến nghị theo Cơ chế UPR chu kỳ II mà Việt Nam chấp
thuận nhằm đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền con người. Việc làm đó, đã thể hiện
Việt Nam là một quốc gia tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, được
Liên hợp quốc đánh giá cao. Đó là bằng chứng sinh động nhất khẳng định mạnh mẽ
nỗ lực, thành tựu của Việt Nam trong việc bảo đảm quyền con người; trong đó, có
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và là một sự thật khách quan không ai có thể
phủ nhận được.
Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật, đồng thời nghiêm cấm hoạt động lợi dụng tôn
giáo để vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và
của công dân. Thời gian qua, các cơ quan chức năng ở một số địa phương, như:
Nghệ An, Hà Tĩnh, Đồng Nai,… đã bắt giữ, xử lý một số chức sắc, tín đồ tôn giáo
và công dân vì đã lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống người thi hành công
vụ, cản trở hoạt động của các cơ quan Nhà nước, của người dân, truyền bá mê tín
dị đoan, phát triển tà đạo, tạp đạo hoặc các tôn giáo chưa được Nhà nước công
nhận làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội
của đất nước chứ không hề có chuyện chính quyền “đàn áp, bắt bớ” trái
pháp luật các tín đồ, chức sắc tôn giáo như Báo cáo đã nêu. Đó là việc làm bình
thường không chỉ ở Việt Nam mà ở các quốc gia khác kể cả ở Mỹ nhằm đảm bảo an
ninh quốc gia, trật tự công cộng. Cũng như mọi hoạt động bình thường khác,
việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cũng phải trong khuôn khổ pháp
luật. Các tôn giáo ở Việt Nam muốn phát triển được đều phải đặt dưới sự quản lý
của Nhà nước, không tôn giáo nào được phép đứng ngoài hoặc đứng trên lợi ích
quốc gia, dân tộc. Điều này hoàn toàn phù hợp với tinh thần luật pháp quốc tế
và pháp luật Việt Nam.
Mỹ là quốc gia tự cho mình luôn đảm bảo tự do tôn giáo thì
cũng là nơi bị lên án vi phạm quyền này. Điển hình là Hội đồng Giám mục Mỹ đã
nhiều lần tố giác đạo luật tại một số bang ở Mỹ đe dọa hoặc kỳ thị các tín đồ
Ki-tô, đặc biệt là Công giáo, như luật buộc các tổ chức Công giáo phải trả bảo
hiểm ngừa thai cho các nhân viên. Đặc biệt, sau sự kiện khủng bố xảy ra ở Mỹ
ngày 11-9-2001, hiện tượng “bài Hồi giáo” ngày càng diễn ra phổ biến tại
Mỹ. Chính Richard Rorty, triết gia nổi tiếng người Mỹ đã nói: “Nếu chủ
nghĩa phát xít đến Hoa Kỳ, nó sẽ liên kết với sự cố chấp tôn giáo. Tôi thú nhận
rằng nếu phải đánh cược nước nào tới đây sẽ bị phát xít hóa, chắc tôi chọn Hoa
Kỳ”. Điều đó cho thấy, ngay nội tại nước Mỹ cũng vẫn diễn ra các vụ việc vi
phạm quyền tự do tôn giáo của người dân. Vậy thì hà cớ gì mà Chính phủ Mỹ có
quyền đi phán xét vấn đề tôn giáo của các quốc gia khác, trong đó có Việt Nam ?
Nhằm góp phần thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ ngày càng
phát triển, Nhà nước ta luôn hoan nghênh các chính khách Hoa Kỳ và đại diện
USCIRF tới thăm, làm việc tại Việt Nam để tăng cường sự hiểu biết và có sự nhìn
nhận, đánh giá khách quan về tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam,
tránh đưa ra những đánh giá sai lệch, xuyên tạc vấn đề này ở Việt Nam như các
Báo cáo thường niên vừa qua đã nêu.
Nguồn: www.tapchiqptd.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét