Ngày 3/6/2017, Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khóa XII về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả
doanh nghiệp nhà nước (Nghị quyết số 12-NQ/TW). Sau đây là toàn văn Nghị quyết:
I- TÌNH HÌNH VÀ NGUYÊN NHÂN
1- Trong 15 năm thực
hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa IX về "Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát
triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước" và các chủ trương của
Đảng về doanh nghiệp nhà nước; các cấp, các ngành, các doanh nghiệp nhà nước đã
cụ thể hóa và triển khai thực hiện nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp để
tiếp tục đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
- Cùng với cơ chế, chính
sách của Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước là công cụ quan trọng để bảo đảm thực
hiện có hiệu quả các chính sách ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát, đối phó với
những biến động thị trường; tạo nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước; đóng góp
quan trọng trong xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế; thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và
chính sách an sinh xã hội.
- Cơ cấu lại doanh
nghiệp nhà nước được đẩy mạnh, số lượng doanh nghiệp nhà nước đã được thu gọn
hơn, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt. Cơ chế hoạt động của doanh
nghiệp nhà nước đã có bước đổi mới theo hướng tự chủ kinh doanh, cạnh tranh
bình đẳng, công khai, minh bạch hơn. Hiệu quả hoạt động, năng lực cạnh tranh
của một số doanh nghiệp nhà nước được nâng lên.
- Quản lý nhà nước đối
với doanh nghiệp nhà nước được điều chỉnh phù hợp hơn với cơ chế thị trường.
Hoạt động của tổ chức đảng trong doanh nghiệp nhà nước đã có bước đổi mới theo
hướng phù hợp hơn với sự thay đổi về cơ cấu sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước
và cơ chế thị trường.
2- Tuy nhiên, vai trò
của doanh nghiệp nhà nước là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước, dẫn dắt,
tạo động lực phát triển đối với nền kinh tế còn hạn chế.
- Nhìn chung, hiệu quả
sản xuất kinh doanh và đóng góp của nhiều doanh nghiệp nhà nước còn thấp, chưa
tương xứng với nguồn lực Nhà nước đầu tư; nợ nần, thua lỗ, thất thoát lớn.
Cơ chế quản trị doanh nghiệp nhà nước chậm được đổi mới, kém hiệu quả, chưa phù
hợp với các thông lệ, chuẩn mực quốc tế; tính công khai, minh bạch còn hạn chế.
- Việc cơ cấu lại doanh
nghiệp nhà nước và thoái vốn nhà nước triển khai chậm, quá trình cổ phần hoá
còn nhiều yếu kém, tiêu cực và có một số khó khăn, vướng mắc về thể chế chậm
được giải quyết, nhất là thể chế định giá đất đai, tài sản. Trách nhiệm của
người quản lý doanh nghiệp nhà nước chưa rõ ràng; công tác cán bộ, chính sách
tiền lương còn bất cập, chưa phù hợp với cơ chế thị trường. Việc tách chức năng
quản lý nhà nước và chức năng của cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại
doanh nghiệp nhà nước thực hiện chậm. Cơ chế quản lý, giám sát và việc thực
hiện quyền, trách nhiệm của cơ quan và người đại diện chủ sở hữu nhà nước chưa
thật rõ ràng và phù hợp.
- Đổi mới phương thức
lãnh đạo của các tổ chức đảng, phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị
- xã hội trong doanh nghiệp chưa theo kịp yêu cầu đổi mới, cơ cấu lại doanh
nghiệp nhà nước.
3- Những hạn chế,
yếu kém nêu trên của doanh nghiệp nhà nước do nhiều nguyên nhân khách
quan và chủ quan, nhưng chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan:
- Nhận thức về vai trò,
vị trí của kinh tế nhà nước và doanh nghiệp nhà nước, về yêu cầu và giải pháp
cơ cấu lại, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước còn
chưa đầy đủ; một số vấn đề chưa rõ, còn ý kiến khác nhau nhưng chưa được kịp
thời tổng kết thực tiễn, kết luận, dẫn đến chưa có sự thống nhất cao trong nhận
thức và hành động.
- Việc thể chế hóa và tổ
chức thực hiện các chủ trương của Đảng về doanh nghiệp nhà nước còn nhiều yếu
kém, bất cập. Chủ quan, nóng vội trong thực hiện chủ trương thí điểm thành
lập các tập đoàn kinh tế nhà nước hoạt động đa ngành. Lúng túng trong xác định
mô hình cơ quan đại diện chủ sở hữu. Kỷ cương, kỷ luật không nghiêm.
- Thể chế quản lý, quản
trị doanh nghiệp nhà nước còn không ít hạn chế, yếu kém, tạo kẽ hở để hình
thành "nhóm lợi ích", thao túng hoạt động của doanh nghiệp nhà nước,
tham nhũng, lãng phí; không rõ ràng về trách nhiệm của các tổ chức, cá
nhân; quyền hạn chưa gắn với trách nhiệm trong quản trị, điều hành doanh
nghiệp nhà nước; thiếu cơ chế kiểm soát quyền lực.
- Công tác đào tạo, bồi
dưỡng, đánh giá, bổ nhiệm cán bộ trong các doanh nghiệp nhà nước còn nhiều hạn
chế. Một bộ phận không nhỏ cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước yếu kém về năng
lực quản lý, điều hành, sa sút về tinh thần trách nhiệm, suy thoái về phẩm chất
đạo đức, lối sống, vi phạm pháp luật, tham nhũng, lãng phí.
- Hiệu lực, hiệu quả
công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm toán của các cơ quan quản
lý nhà nước không cao. Tình trạng thực hiện chưa nghiêm túc chủ trương của
Đảng, vi phạm pháp luật, rủi ro, yếu kém, thua lỗ trong doanh nghiệp nhà
nước không được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh.
II- QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ MỤC
TIÊU
1- Quan điểm chỉ đạo
- Doanh nghiệp nhà nước
là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc cổ phần, vốn góp chi
phối; được tổ chức và hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty
trách nhiệm hữu hạn. Doanh nghiệp nhà nước là một lực lượng vật chất quan
trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội. Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực
then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những
lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư.
- Doanh nghiệp nhà nước
hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá
chủ yếu, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy định của pháp luật. Bảo đảm công
khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp nhà nước. Tách bạch
nhiệm vụ của doanh nghiệp nhà nước sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thông
thường và nhiệm vụ của doanh nghiệp nhà nước sản xuất, cung cấp hàng hóa, dịch
vụ công ích.
- Nâng cao chất lượng,
hiệu quả, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước để làm tốt vai trò dẫn
dắt phát triển các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác, bảo đảm doanh
nghiệp Việt Nam thật sự trở thành lực lượng nòng cốt trong phát triển kinh tế -
xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập,
tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
- Cơ cấu lại, đổi mới
doanh nghiệp nhà nước theo cơ chế thị trường là quá trình thường xuyên, liên
tục với phương thức thực hiện và lộ trình hợp lý. Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại
doanh nghiệp nhà nước theo hướng kiên quyết cổ phần hóa, bán vốn tại những
doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm hoặc không cần giữ cổ phần, vốn góp chi
phối, kể cả những doanh nghiệp đang kinh doanh có hiệu quả; đồng thời xử lý triệt
để, bao gồm cả việc cho phá sản các doanh nghiệp nhà nước yếu kém.
- Nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý, giám sát, kiểm tra, kiểm soát đối với hoạt động của doanh
nghiệp nhà nước; không để xảy ra thất thoát, lãng phí vốn, tài sản nhà nước.
Tách bạch, phân định rõ chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước với chức
năng quản lý nhà nước đối với mọi loại hình doanh nghiệp, chức năng quản trị
kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao
trình độ, năng lực quản trị, phẩm chất đạo đức để kiện toàn đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý doanh nghiệp nhà nước.
- Tiếp tục đổi mới
phương thức và nâng cao năng lực lãnh đạo của các tổ chức đảng; phát huy vai
trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
trong giám sát đối với việc cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh
nghiệp nhà nước; bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của người lao
động, giữ vững ổn định chính trị - xã hội.
2- Mục tiêu
Mục tiêu tổng quát
Cơ cấu lại, đổi mới và
nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước trên nền tảng công nghệ hiện đại, năng
lực đổi mới sáng tạo, quản trị theo chuẩn mực quốc tế, nhằm huy động, phân bổ
và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, bảo toàn, phát triển vốn nhà nước
tại doanh nghiệp để doanh nghiệp nhà nước giữ vững vị trí then chốt và là một
lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
Mục tiêu đến năm 2020
- Cơ cấu lại, đổi mới
doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2017 - 2020 trên cơ sở các tiêu chí phân loại
doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước thuộc các ngành, lĩnh vực.
Phấn đấu hoàn thành thoái vốn tại các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm
giữ, tham gia góp vốn.
- Tập trung xử lý dứt
điểm các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, các dự án, công trình đầu tư
của doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài.
- Phấn đấu đáp ứng các
chuẩn mực quốc tế về quản trị doanh nghiệp; nâng cao một bước quan trọng hiệu
quả sản xuất kinh doanh, chất lượng sản phẩm, năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp nhà nước.
- Hoàn thiện mô hình
quản lý, giám sát doanh nghiệp nhà nước và vốn, tài sản của Nhà nước đầu tư tại
doanh nghiệp. Chậm nhất đến năm 2018, thành lập một cơ quan chuyên trách làm
đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước và cổ phần, vốn góp của Nhà
nước tại doanh nghiệp.
Mục tiêu đến năm 2030
- Hầu hết các doanh
nghiệp nhà nước có cơ cấu sở hữu hỗn hợp, chủ yếu là doanh nghiệp cổ phần.
- Trình độ công nghệ, kỹ
thuật sản xuất hiện đại tương đương với các nước trong khu vực; đáp ứng đầy đủ
chuẩn mực quốc tế về quản trị doanh nghiệp; hình thành đội ngũ quản lý chuyên
nghiệp, có trình độ cao, phẩm chất đạo đức tốt.
- Củng cố, phát triển
một số tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có khả năng
cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền
kinh tế.
III- NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ
YẾU
1- Đẩy mạnh cơ cấu lại
doanh nghiệp nhà nước
- Căn cứ vào chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và mục tiêu, nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ, tiến hành rà soát, xác định rõ số lượng và
phạm vi ngành, lĩnh vực cần có doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà
nước để xây dựng kế hoạch 5 năm và hằng năm cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước,
cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước theo nguyên tắc: Tập trung vào những lĩnh vực
then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những
lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư; giảm
tỉ lệ sở hữu nhà nước xuống mức đủ để thay đổi quản trị một cách thực chất và
thu hút nhà đầu tư có năng lực thực sự; tối đa hóa giá trị bán vốn nhà nước
theo cơ chế thị trường.
- Rà soát, đánh giá
toàn diện thực trạng và phân loại các doanh nghiệp nhà nước, dự án,
công trình đầu tư và vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp để có giải
pháp cơ cấu lại, xử lý phù hợp. Kiên quyết xử lý dứt điểm các doanh
nghiệp nhà nước, các dự án đầu tư thua lỗ, kém hiệu quả. Đối với doanh nghiệp
mà Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần, vốn góp chi phối hoặc không cần nắm
giữ cổ phần, vốn góp thì thực hiện cổ phần hóa, bán, khoán, cho thuê,
giải thể, phá sản. Đối với những doanh nghiệp mà Nhà nước cần nắm giữ 100%
vốn hoặc cần nắm giữ cổ phần, vốn góp chi phối thì cơ cấu lại bằng cơ chế,
chính sách phù hợp.
- Mở rộng các phương
thức bán cổ phần, vốn góp, kể cả bán toàn bộ doanh nghiệp nhà nước; áp
dụng biện pháp phá sản theo quy định của pháp luật đối với doanh nghiệp nhà
nước lâm vào tình trạng phá sản mà không có phương án phục hồi khả thi.
Đối với những dự án đầu tư thua lỗ, thực hiện cơ cấu lại và chuyển nhượng
dự án cho nhà đầu tư thuộc thành phần kinh tế khác. Làm rõ trách nhiệm
và xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật những vi phạm của các tổ
chức, cá nhân liên quan để xảy ra tình trạng doanh nghiệp nhà nước, dự
án đầu tư thua lỗ, thất thoát, lãng phí lớn.
- Tuân thủ pháp luật,
tôn trọng cơ chế thị trường, thực hiện lộ trình cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước
đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Bảo đảm công khai, minh bạch
trong cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, nhất là trong cổ phần hóa và thoái vốn
nhà nước tại doanh nghiệp. Áp dụng các phương pháp định giá tài sản tiên tiến
phù hợp với cơ chế thị trường; bảo đảm vốn, tài sản của Nhà nước và giá trị
doanh nghiệp được định giá đầy đủ, hợp lý, công khai, minh bạch. Hoàn thiện thể
chế về định giá đất đai, tài sản hữu hình và tài sản vô hình (tài sản trí tuệ,
thương hiệu,…) trong cổ phần hóa theo cơ chế thị trường. Quy định rõ trách
nhiệm của tổ chức tư vấn định giá độc lập trong định giá tài sản, vốn
và xác định giá trị doanh nghiệp. Xác định rõ trách nhiệm của Kiểm toán Nhà
nước trong việc kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp, định giá tài sản, vốn
nhà nước.
- Trên cơ sở giá trị
vốn, tài sản của Nhà nước và giá trị doanh nghiệp đã được xác định đầy đủ, hợp
lý và theo quy định của pháp luật, khẩn trương bán cổ phần, thoái vốn
một cách công khai, minh bạch, chủ yếu thông qua bán đấu giá cạnh tranh trên
thị trường. Cổ phần hóa phải gắn với niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán.
Các doanh nghiệp cổ phần hóa phải niêm yết trong thời hạn một năm kể từ ngày
phát hành cổ phiếu lần đầu. Các doanh nghiệp cổ phần hóa chưa đáp ứng đầy đủ
các điều kiện niêm yết cổ phiếu theo quy định của pháp luật thì phải lập và
triển khai kế hoạch niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán trong thời
hạn xác định theo quy định.
- Nghiêm cấm và xử lý
nghiêm minh các trường hợp định giá thấp tài sản, vốn của Nhà nước và giá trị
doanh nghiệp không đúng quy định của pháp luật để trục lợi, gây thất thoát tài
sản, vốn nhà nước.
- Đối với các doanh
nghiệp nhà nước đang được giao quản lý, khai thác các công trình, dự án kết cấu
hạ tầng do Nhà nước đầu tư có ý nghĩa quan trọng về kinh tế, xã hội, quốc
phòng, an ninh, khi cổ phần hóa, Nhà nước tiến hành kiểm soát theo nguyên tắc:
Nhà nước thống nhất sở hữu các công trình hạ tầng quan trọng; doanh nghiệp cổ
phần hóa, nhà đầu tư nhận quyền khai thác chỉ được quyền quản lý, vận hành,
khai thác các công trình, dự án kết cấu hạ tầng; việc lựa chọn nhà đầu tư, doanh
nghiệp phải thực hiện theo Luật Đấu thầu, công khai, minh bạch; bảo đảm quốc
phòng, an ninh và bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ.
- Hoàn thiện đầy đủ hồ
sơ pháp lý của các tài sản trước khi tiến hành sắp xếp, cổ phần hóa hay thoái
vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Thực hiện nghiêm cơ chế cho thuê đất theo quy
định của pháp luật. Sử dụng có hiệu quả chính sách thuế, phí gắn với nâng cao
hiệu quả công tác quy hoạch đất đai một cách ổn định. Tăng cường quản lý, kiểm
soát chặt chẽ, bảo đảm nhà đầu tư thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính với Nhà
nước trong việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất sau cổ phần hóa.
- Hoàn thiện và nâng
cao hiệu quả các thiết chế hiện có để hỗ trợ cơ cấu lại doanh nghiệp
nhà nước, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Nâng cao năng
lực, hiệu quả hoạt động của Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà
nước (SCIC), Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC)
và Công ty Mua bán nợ Việt Nam (DATC), Quỹ Hỗ trợ sắp xếp và phát triển
doanh nghiệp theo cơ chế thị trường và quy định của pháp luật.
- Khuyến khích, thu hút
các nhà đầu tư chiến lược tham gia mua cổ phần, góp vốn vào doanh nghiệp khi cổ
phần hóa, thoái vốn nhà nước. Hoàn thiện tiêu chí cổ đông lớn, cổ đông chiến
lược có đủ năng lực tài chính, công nghệ và quản trị để cơ cấu lại và phát
triển doanh nghiệp.
- Giải quyết tốt việc
sắp xếp, bố trí, sử dụng cán bộ; đào tạo, chuyển đổi nghề và xử lý lao động
dôi dư. Bảo đảm đầy đủ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của người lao động, đặc
biệt là lao động dôi dư để ổn định cuộc sống và bảo đảm an sinh xã hội cho
người lao động. Phát huy vai trò và trách nhiệm của người lao động là cổ đông
trong việc tham gia quản lý, giám sát doanh nghiệp, đồng thời có cơ chế phù hợp
bảo vệ quyền lợi của cổ đông nhỏ.
- Thực hiện quyết
liệt, có hiệu quả việc sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao
hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp theo Nghị quyết số
30-NQ/TW, ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị khóa XI. Tổ chức chặt chẽ việc
cổ phần hóa, giải thể các công ty nông, lâm nghiệp, bảo đảm quyền lợi của người
đang nhận khoán đất đai, mặt nước, vườn cây lâu năm và rừng.
- Triển khai đồng bộ các
giải pháp và có cơ chế, chính sách phù hợp để lành mạnh hóa tình hình tài
chính, xử lý dứt điểm tồn đọng tài chính, nợ không có khả năng thanh toán
và các tài sản không sinh lời của doanh nghiệp nhà nước.
- Đẩy mạnh thoái vốn đầu
tư ngoài ngành, lĩnh vực kinh doanh chính, kiên quyết khắc phục tình trạng đầu
tư phân tán, dàn trải. Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước trên cơ sở nhiệm vụ
được giao, ngành, nghề kinh doanh chính, khai thác tối đa tiềm năng, thế mạnh;
triệt để tiết kiệm chi phí; nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ, uy tín và
thương hiệu trên thị trường.
- Tăng cường đầu tư,
nâng cao năng lực của doanh nghiệp nhà nước về đổi mới sáng tạo, nghiên cứu,
ứng dụng, chuyển giao khoa học, công nghệ, kỹ thuật sản xuất hiện đại, sử dụng
tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường, coi đây là yếu tố quyết định
nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà
nước.
- Tiền thu từ cổ
phần hóa, thoái vốn nhà nước được quản lý tập trung và chỉ sử dụng
cho các mục đích chi đầu tư phát triển; không sử dụng cho chi thường xuyên
của ngân sách nhà nước.
2- Tiếp tục đổi mới cơ
chế, chính sách để doanh nghiệp nhà nước thật sự vận hành theo cơ chế thị
trường
- Doanh nghiệp nhà
nước tham gia thực hiện nhiệm vụ chính trị, xã hội do Nhà nước giao
thực hiện theo cơ chế Nhà nước đặt hàng, lựa chọn cạnh tranh, công
khai và xác định rõ giá thành, chi phí thực hiện, trách nhiệm và quyền
lợi của Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước để bảo đảm không làm giảm
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.
- Quan hệ kinh tế,
tài chính giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước, nhất là các
quyền và nghĩa vụ phải được thực hiện đầy đủ, minh bạch theo quy
định của pháp luật, phù hợp với cơ chế thị trường.
- Xóa bỏ các cơ chế can
thiệp hành chính trực tiếp, bao cấp dành cho doanh nghiệp nhà nước, đối xử bất
bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, nhất là trong
tiếp cận các nguồn lực nhà nước, tín dụng, đất đai, tài nguyên, cơ hội đầu tư,
kinh doanh, tài chính, thuế,...
- Phát huy vai trò mở
đường, dẫn dắt của doanh nghiệp nhà nước trong việc hình thành và mở rộng các
chuỗi sản xuất, cung ứng và chuỗi giá trị trong nước, khu vực và thế giới. Hạn
chế tình trạng sản xuất, kinh doanh khép kín, cục bộ, không minh bạch trong
doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là trong các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà
nước.
3- Đổi mới, nâng cao
hiệu quả hoạt động của hệ thống quản trị và nâng cao năng lực, phẩm chất của
đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước
- Xây dựng và áp dụng
khung quản trị doanh nghiệp phù hợp với chuẩn mực quốc tế tại các doanh nghiệp
nhà nước, nhất là đối với các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; đi đôi với đào
tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực quản trị, điều hành và phẩm chất đạo đức của
cán bộ, tạo lập môi trường quản trị doanh nghiệp lành mạnh, hiệu quả.
- Củng cố, phát triển
một số tập đoàn kinh tế nhà nước đa sở hữu với quy mô lớn, hoạt động có hiệu
quả, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế ở một số ngành, lĩnh vực then
chốt của nền kinh tế trên cơ sở hoàn thiện mô hình tập đoàn kinh tế nhà
nước theo thông lệ quốc tế; xác định rõ quy mô và phạm vi hoạt động phù hợp với
năng lực quản trị, điều hành; cơ cấu lại bộ máy tổ chức và cán bộ theo hướng
tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; phân cấp, phân quyền rõ ràng.
- Kiên quyết đấu tranh
và thiết lập các hệ thống quản trị, kiểm soát nội bộ có hiệu quả
trong việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật, xung đột lợi ích; tình trạng cán bộ lãnh đạo, quản lý của
doanh nghiệp nhà nước móc ngoặc với cán bộ, công chức nhà nước và khu vực kinh
tế tư nhân để hình thành "nhóm lợi ích", "sân sau", lạm
dụng chức vụ, quyền hạn thao túng hoạt động của doanh nghiệp nhà nước,
trục lợi cá nhân, tham nhũng, lãng phí, gây tổn hại cho Nhà nước và doanh
nghiệp.
- Xác định rõ nhiệm
vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các chức danh quản lý trong hệ thống
quản trị của doanh nghiệp nhà nước; bảo đảm trách nhiệm đi đôi với quyền hạn.
Nâng cao tiêu chuẩn, điều kiện, trách nhiệm của thành viên độc lập trong
hội đồng quản trị.
Ban kiểm soát, kiểm soát
viên phải thực sự là công cụ giám sát hữu hiệu của chủ sở hữu, hoạt động độc
lập và không chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo hoặc chi phối về lợi ích của hội đồng
thành viên, hội đồng quản trị và ban điều hành doanh nghiệp. Tổng giám đốc và
các thành viên ban điều hành doanh nghiệp nhà nước do hội đồng thành viên, hội
đồng quản trị bổ nhiệm, thuê và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy
định của pháp luật và hợp đồng lao động.
- Hoàn thiện các hệ
thống khuyến khích, đòn bẩy kinh tế đi đôi với nâng cao trách nhiệm, kỷ luật,
kỷ cương trong doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện chế độ tiền lương, tiền thưởng,
thù lao của người lao động và người quản lý doanh nghiệp nhà nước phù hợp với
cơ chế thị trường, có tính cạnh tranh cao trên cơ sở kết quả sản xuất, kinh
doanh. Nghiên cứu, triển khai cơ chế trả lương, thưởng theo thỏa thuận đối
với tổng giám đốc và một số chức danh quản lý chủ chốt của doanh
nghiệp. Áp dụng hệ thống đánh giá hiệu quả lao động đối với từng vị
trí việc làm để xác định mức độ hoàn thành, năng suất, chất lượng và
hiệu quả công việc, làm cơ sở trả lương, đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp,
bố trí và đề bạt cán bộ.
- Thực hiện việc tách
người quản lý doanh nghiệp nhà nước khỏi chế độ viên chức, công chức. Triển
khai rộng rãi cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm qua thi tuyển cạnh tranh,
công khai, minh bạch đối với tất cả các chức danh quản lý, điều hành và các
vị trí công việc khác trong doanh nghiệp.
- Sắp xếp, tinh gọn và
nâng cao hiệu quả tổ chức bộ máy, biên chế của doanh nghiệp nhà nước; cơ cấu
lại, bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ; tăng cường bồi dưỡng, đào tạo, nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực lãnh đạo và tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống của cán bộ doanh nghiệp nhà nước; có cơ chế, chính sách thu hút
và sử dụng có hiệu quả lao động trình độ cao. Xây dựng chiến lược phát
triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo của doanh nghiệp nhà nước. Rà soát, nâng cao
tiêu chuẩn, điều kiện về phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, quản lý
và chuyên môn nghiệp vụ đối với người quản lý doanh nghiệp nhà nước.
- Bảo đảm tính minh
bạch, công khai của doanh nghiệp nhà nước và trách nhiệm giải trình của
người quản lý doanh nghiệp, đặc biệt là về tài chính, đầu tư, mua sắm,
sử dụng vốn của Nhà nước, chi phí, kết quả kinh doanh, phân phối lợi
nhuận, công tác cán bộ, các giao dịch lớn, giao dịch với người có
liên quan đến người quản lý, tài sản và thu nhập của người quản lý
theo các chuẩn mực quốc tế và quy định của pháp luật. Hoàn thiện
chế độ kế toán, kiểm toán và hệ thống báo cáo tài chính phù hợp
với chuẩn mực quốc tế.
4- Nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước
Hoàn thiện chức năng quản
lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước
- Rà soát, hoàn thiện
hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách về doanh nghiệp nhà nước, đặc
biệt là các cơ chế, chính sách về tập đoàn kinh tế, quản lý vốn, tài
sản nhà nước tại doanh nghiệp và cơ cấu lại, đổi mới, nâng cao hiệu quả
doanh nghiệp nhà nước phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, tình hình
thực tế và kinh nghiệm đúc kết được trong thời gian qua.
- Nâng cao năng lực,
hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát của cơ
quan quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước; phòng ngừa, phát hiện
và xử lý nghiêm những hành vi vi phạm pháp luật, tiêu cực, tham nhũng,
lãng phí trong doanh nghiệp nhà nước. Quy định rõ trách nhiệm của các cơ
quan thanh tra, cơ quan kiểm toán về kết quả thanh tra, kiểm toán đối với doanh
nghiệp nhà nước. Hoàn thiện hệ thống giám sát, tiêu chí đánh giá mức độ an
toàn, hiệu quả hoạt động, xếp loại doanh nghiệp nhà nước và người đại diện
chủ sở hữu cổ phần, vốn góp của Nhà nước. Quản lý, giám sát chặt chẽ việc
huy động, sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước, nhất là vay nợ nước ngoài,
các dự án đầu tư trong nước và ở nước ngoài, nguồn vốn mua bán,
sáp nhập doanh nghiệp; hạn chế tối đa cấp bảo lãnh của Chính phủ đối với
doanh nghiệp nhà nước; xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu
quốc gia thống nhất, đồng bộ về doanh nghiệp nhà nước và vốn, tài
sản của Nhà nước tại doanh nghiệp.
- Tăng cường công tác
chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các kế hoạch, phương án cổ phần hóa,
thoái vốn nhà nước đã được phê duyệt. Đề cao trách nhiệm của các bộ,
ngành, địa phương, tổ chức, cá nhân đại diện chủ sở hữu nhà nước, nhất là
người đứng đầu trong việc thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, kế hoạch, phương án cơ cấu lại, đổi mới doanh nghiệp nhà
nước đã được phê duyệt, đặc biệt là cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh
nghiệp, bảo đảm công khai, minh bạch trong triển khai thực hiện.
Hoàn thiện tổ chức để
thực hiện chức năng Nhà nước là chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước, cổ
phần, vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp
- Nhà nước thực hiện
đầy đủ trách nhiệm của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước,
cổ phần, vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp; thực sự đóng vai trò là
nhà đầu tư, chủ sở hữu, bình đẳng về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm
với các nhà đầu tư khác trong doanh nghiệp. Bảo đảm quyền tự chủ
trong hoạt động của doanh nghiệp nhà nước theo nguyên tắc thị trường.
Tôn trọng tính độc lập trong việc thực hiện quyền và trách nhiệm của hội
đồng thành viên, hội đồng quản trị, chủ tịch hội đồng thành viên, chủ tịch
hội đồng quản trị, tổng giám đốc, ban điều hành doanh nghiệp nhà nước để hoạt
động và quản trị của doanh nghiệp nhà nước được thực hiện một cách
minh bạch, giải trình, chuyên nghiệp, hiệu quả cao.
- Khẩn trương thành lập
một cơ quan chuyên trách của Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu đối với doanh
nghiệp nhà nước theo hướng: (1) Thực hiện quyền, trách nhiệm của đại diện
chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước, cổ phần, vốn góp của Nhà
nước tại doanh nghiệp; (2) Phê duyệt và giám sát việc thực hiện các chiến lược,
kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phù hợp với kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển ngành; (3) Phối hợp với các cơ quan có liên
quan thực hiện đúng quy định của pháp luật về công tác tổ chức - cán bộ tại
doanh nghiệp.
5- Đổi mới phương thức
và nâng cao hiệu quả lãnh đạo của tổ chức đảng; phát huy vai trò của nhân dân,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề
nghiệp tại doanh nghiệp nhà nước
- Đổi mới mô hình tổ
chức và phương thức lãnh đạo của tổ chức đảng tại doanh nghiệp nhà
nước. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên trong doanh nghiệp nhà
nước. Nâng cao hiệu quả và vai trò lãnh đạo toàn diện của tổ chức đảng
tại doanh nghiệp nhà nước trong việc chấp hành chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, xây dựng và thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh
doanh, sử dụng, bảo toàn và phát triển vốn của Nhà nước, công tác
chính trị, tư tưởng, công tác cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát; đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, lãng phí; lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội
trong doanh nghiệp, phát huy dân chủ cơ sở. Quy định rõ trách nhiệm của cấp uỷ,
người đứng đầu tổ chức đảng trong doanh nghiệp nhà nước khi để xảy ra thua lỗ,
tổn thất trong hoạt động và vi phạm chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước.
- Triển khai thực hiện
nghiêm túc Quy định số 69-QĐ/TW, ngày 13/02/2017 của Ban Bí thư về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của đảng uỷ cấp trên cơ sở trong doanh
nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn nhà nước chi phối.
- Bảo đảm sự đồng bộ,
thống nhất giữa các quy định của Đảng với các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà
nước về công tác tổ chức và cán bộ dựa trên nguyên tắc: Đảng lãnh đạo thực hiện
nhiệm vụ chính trị và thống nhất quản lý cán bộ trong doanh nghiệp nhà nước,
nhất là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước.
- Lãnh đạo, chỉ đạo
quán triệt sâu sắc, tuyên truyền sâu rộng, nâng cao nhận thức trong hệ
thống chính trị và sự đồng thuận trong xã hội về quan điểm, mục
tiêu, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về cơ cấu lại,
đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Tạo điều kiện thuận
lợi cho việc tiếp cận đầy đủ thông tin và tham gia giám sát hoạt động
của doanh nghiệp nhà nước.
- Phát huy vai trò của
nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội đối với
hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và công tác quản lý nhà nước
đối với doanh nghiệp nhà nước, nhất là đối với việc thực hiện chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về cơ cấu lại, đổi
mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
- Đổi mới, hoàn thiện mô
hình tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội
tại doanh nghiệp nhà nước. Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị -
xã hội, xã hội - nghề nghiệp trong quá trình triển khai thực hiện chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về doanh nghiệp nhà
nước; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao
động trong doanh nghiệp nhà nước.
IV- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1- Đảng đoàn Quốc hội
chỉ đạo bổ sung Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, ưu tiên các dự án luật
trực tiếp phục vụ triển khai thực hiện Nghị quyết; tăng cường giám sát của Quốc
hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội đối
với việc cơ cấu lại, đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
2- Ban cán sự đảng Chính
phủ, ban cán sự đảng các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Tòa án
nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, các tỉnh ủy, thành ủy, đảng
đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương xây dựng chương trình, kế hoạch hành động
với lộ trình và phân công cụ thể trách nhiệm cho các cơ quan, đơn vị thực hiện phù
hợp với điều kiện cụ thể của từng ngành, lĩnh vực, địa phương và đơn vị.
3- Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp xây dựng chương trình, kế hoạch
giám sát việc thực hiện Nghị quyết.
4- Ban Tổ chức Trung
ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu, xây dựng,
trình Bộ Chính trị Đề án đổi mới phương thức lãnh đạo, hoàn thiện mô
hình tổ chức và hoạt động của tổ chức đảng trong doanh nghiệp nhà nước.
5- Ban Tuyên giáo Trung
ương chủ trì, phối hợp với Ban Kinh tế Trung ương tổ chức việc học tập, quán
triệt và tuyên truyền sâu rộng Nghị quyết, kết quả thực hiện Nghị quyết.
6- Ban Kinh tế Trung
ương chủ trì, phối hợp với Văn phòng Trung ương Đảng, các ban cán sự đảng, đảng
đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc
triển khai thực hiện Nghị quyết; thực hiện sơ kết, tổng kết và định kỳ báo cáo
Bộ Chính trị, Ban Bí thư./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét