Cả nước bước vào năm 2018 với tâm
thế tự tin và phấn khởi trước những thành tựu đạt được trong năm 2017 và đón
chào ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Song, như thường lệ, cứ vào dịp
này, các thế lực thù địch và những phần tử cơ hội chính trị lại gióng lên hồi
chuông hùa nhau chống phá Đảng ta một cách trơ trẽn, lố bịch. Một trong những
luận điệu cũ rích mà họ đưa ra là: “Đảng đặt lợi ích giai cấp lên trên lợi ích
dân tộc”.
Họ xuyên tạc rằng, ngay từ khi thành
lập, Đảng đã coi lợi ích giai cấp trên lợi ích dân tộc và thậm chí, đặt lợi ích
của mình cao hơn lợi ích dân tộc; chỉ chú ý củng cố quyền lực của giai cấp,
thao túng, bao che cho “các nhóm lợi ích” làm giàu, bất chấp nhân dân nghèo
đói, đất nước tụt hậu(!) Với lập luận đó, mưu đồ của họ là làm mất uy tín của
Đảng Cộng sản Việt Nam, chia rẽ mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân
dân, với dân tộc!
Sự xuyên tạc của luận điệu này bị
chính thực tiễn lịch sử dân tộc Việt Nam từ khi có Đảng bác bỏ. Bởi, ngay
từ đầu và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
đặt lợi ích của dân tộc gắn liền với lợi ích giai cấp. Điều đó xuất phát từ
quan điểm: cách mạng Việt Nam gắn liền và là một bộ phận của cách mạng thế
giới. Thực tế lịch sử cho thấy, vấn đề lớn nhất của nhân dân ta trong những năm
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là làm sao giải phóng được dân tộc khỏi áp bức,
thống trị của thực dân, phong kiến, để đất nước độc lập, nhân dân được tự do.
Để trả lời câu hỏi ấy, nhiều cuộc khởi nghĩa, nhiều phong trào yêu nước đã nổ
ra, nhiều chí sĩ cách mạng bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước, nhưng đều thất
bại. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, với ý thức dân tộc mạnh mẽ đã làm tất cả để
tìm ra câu trả lời cho dân tộc: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có
con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”1. Khát vọng cao cả,
ước mơ cháy bỏng của Nguyễn Ái Quốc: dân tộc được giải phóng, được làm chủ; Tổ
quốc được độc lập, thống nhất, giàu mạnh; nhân dân được tự do, ấm no, hạnh
phúc; xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Và đó cũng là động lực, là mục tiêu
xuyên suốt của cách mạng Việt Nam.
Để đi đến mục tiêu “độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội”, từ buổi đầu tìm đường cứu nước và trong mỗi giai đoạn
cách mạng, Nguyễn Ái Quốc và Đảng ta đều nhìn nhận đúng vấn đề dân tộc và giải
quyết hài hòa quan hệ giai cấp - dân tộc. Trong khi Quốc tế Cộng sản (do yêu
cầu của châu Âu lúc đó) chỉ nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, thì Nguyễn Ái Quốc
cho rằng: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”. Khi chủ nghĩa dân
tộc thắng lợi, “nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”2.
Chính vì vậy, trong “Chánh cương vắn tắt”, Người chủ trương:“Tư sản dân
quyền cách mệnh và thổ địa cách mệnh, để đi tới xã hội cộng sản”3.
Tư tưởng đúng đắn, phù hợp đó được cụ thể hóa thành đường lối của Đảng, lập tức
thu hút và tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân; đồng thời, khắc phục
triệt để xu hướng dân tộc cải lương tư sản cũng như chủ nghĩa phiêu lưu tiểu tư
sản (đang là trào lưu chính lúc đó), bảo đảm cho cách mạng phát triển và vượt
qua những thách thức thời kỳ Xô-viết Nghệ Tĩnh (1930 - 1931), vận động dân
chủ (1936 -1939), cao trào giải phóng dân tộc (1939 - 1945).
Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời (03-02-1930), trên thế giới đã có các cuộc cách mạng của giai cấp công nhân
giành được chính quyền, trong đó điển hình là Cách mạng Tháng Mười Nga
(07-11-1917) dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đứng đầu là V.I. Lê-nin. Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi và sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa là cuộc vùng dậy giành chính quyền với sức mạnh to lớn của dân tộc ta dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đó là thành quả vĩ đại của sự vận dụng sáng tạo
nguyên lý chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam; thành quả
của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, của tinh thần: “đem sức ta mà tự giải
phóng cho ta”. Thắng lợi đó, trước hết là nhờ Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta
có đường lối đúng, nắm bắt và triệt để tận dụng thời cơ chín muồi; đặt quyền
lợi của dân tộc lên trên hết, nên đã động viên, tập hợp được lực lượng cho cách
mạng. Sức mạnh của đoàn kết dân tộc cũng là nhân tố bảo đảm cho chính quyền
cách mạng non trẻ đứng vững trước “thù trong, giặc ngoài”, trong bối cảnh tình
thế đất nước như “ngàn cân treo sợi tóc”.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ xâm lược là cuộc đụng đầu lịch sử, lâu dài, khó khăn và vĩ đại
nhất của dân tộc ta với những tên đế quốc sừng sỏ nhất. Đáp lời kêu gọi của Chủ
tịch Hồ Chí Minh: “Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng
phải kiên quyết giành cho được độc lập”4, “Không có gì quý hơn độc
lập, tự do”5, nhân dân cả nước và kiều bào nước ngoài, “không phân
biệt tôn giáo, đảng phái”, đã đoàn kết muôn người như một, phát huy cao độ
truyền thống của dân tộc, chiến đấu, hy sinh, chiến thắng vẻ vang quân xâm
lược, thu giang sơn về một mối. Sau Đại thắng mùa Xuân 1975, đất nước gặp những
khó khăn mới, bị bao vây cấm vận từ mọi phía. Cả dân tộc lại cùng với Đảng gồng
mình vượt qua “thiếu thốn trăm bề”, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, giành
thắng lợi trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và phía Bắc. Kết quả
đó là nhờ Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nắm vững quan điểm, phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, luôn đặt “độc lập, tự do” của dân tộc lên trên
hết, quy tụ và lãnh đạo toàn dân chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, nhận thức rõ trách nhiệm trước dân tộc, Đảng đã đề ra đường lối đổi
mới và coi đó là “vấn đề sống còn” của đất nước, dân tộc. Để đổi mới thực sự vì
lợi ích của nhân dân, phát huy được vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân,
Đảng đã “nhận thức lại” một số vấn đề về lý luận, nhất là những nội dung giáo
điều, xơ cứng. Trên cơ sở giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng chủ trương
đẩy mạnh thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng cường
hội nhập quốc tế, coi trọng phát triển kinh tế tư nhân,…; đồng thời, phê phán
những tư duy rập khuôn, máy móc, cản trở sức sáng tạo của nhân dân. “Ý Đảng hợp
lòng dân”, Đảng ta vững tay chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua khó khăn,
thử thách, đưa đất nước ngày càng phát triển. Sự nghiệp đổi mới xét về bản chất
mang tính nhân dân sâu sắc, vì nó bắt nguồn từ lợi ích dân tộc, quyền lợi của
quần chúng và do nhân dân thực hiện. Chính những sáng kiến từ cơ sở, từ cuộc
sống được tổng kết thành đường lối đổi mới của Đảng nên phù hợp với nhu cầu
thực tiễn, được toàn dân ủng hộ và thực hiện một cách sáng tạo. Nhờ đó, công
cuộc đổi mới đã giải phóng mạnh mẽ mọi tiềm năng của đất nước, khơi dậy được
nhân tài, vật lực cho công cuộc phát triển.
Những năm qua, trong bối cảnh quốc
tế và khu vực diễn biến phức tạp, nhưng kinh tế nước ta vẫn giữ mức tăng trưởng
ổn định. Đặc biệt, năm 2017, trong điều kiện kinh tế - xã hội gặp nhiều khó
khăn, thiên tai khắc nghiệt, nhưng nước ta đều đạt và vượt 13 chỉ tiêu kế hoạch
đề ra; trong đó, tăng trưởng GDP đạt 6,81%, là mức cao so với khu vực và thế
giới. Việt Nam được đánh giá kinh tế vĩ mô ổn định; lạm phát được kiểm soát;
tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu đạt cao; là điểm đến hấp dẫn khách du lịch quốc
tế và thu hút đầu tư. Việt Nam được nhìn nhận là quốc gia khởi nghiệp mạnh mẽ;
có trên 50% dân số (50 triệu người) dùng in-tơ-nét, luôn bắt kịp với sự phát
triển của công nghệ thông tin thế giới. Cùng với kinh tế - xã hội, lĩnh vực
quốc phòng - an ninh và đối ngoại cũng đạt được nhiều thành tựu. Sức mạnh
quốc phòng được tăng cường đáng kể, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ và không ngừng nâng cao vị thế của nước ta trên trường
quốc tế.
Trong quá trình lãnh đạo công cuộc
đổi mới, Đảng ý thức rõ vai trò của một đảng cầm quyền và trọng trách trước dân
tộc, nhân dân, nên luôn coi trọng “tự chỉnh đốn”, “tự soi, tự sửa”. Trước tình
hình một bộ phận cán bộ, đảng viên có biểu hiện thoái hóa, biến chất, tham
nhũng, hối lộ, vi phạm Điều lệ, quy định của Đảng trong công tác cán bộ và quản
lý kinh tế,... Đảng ta đã nhấn mạnh: bất cứ ai, ở cương vị nào mà vi phạm kỷ
luật đều phải xử lý nghiêm, giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng, để củng cố
niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Quán triệt quyết tâm của Đảng, thời gian
qua, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng được đẩy mạnh và đạt được nhiều
kết quả cụ thể, tích cực. Các vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp
đã được xử lý rất kiên quyết, nghiêm minh, theo đúng quy định của Đảng và pháp
luật của Nhà nước, kể cả đối với cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng, cán bộ đương
chức và cán bộ đã nghỉ hưu. Ủy ban Kiểm tra Trung ương và Thanh tra Chính phủ
tập trung kiểm tra, thanh tra, kết luận các sai phạm và quyết định kỷ luật hoặc
đề xuất cơ quan có thẩm quyền xem xét kỷ luật nghiêm đối với nhiều tổ chức, cá
nhân để xảy ra sai phạm. Riêng ngành Thanh tra đã triển khai hơn 6.800 cuộc
thanh tra hành chính, gần 260.000 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành; Viện
Kiểm sát nhân dân các cấp đã truy tố 219 vụ, 481 bị can; Tòa án Nhân dân các
cấp đã xét xử sơ thẩm 205 vụ, 433 bị cáo về các tội tham nhũng, v.v. Kết quả
nêu trên đã thể hiện quyết tâm của Đảng trong cuộc chiến chống “giặc nội xâm”,
làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với niềm tin của nhân dân.
Gần chín thập kỷ đồng hành cùng
dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn phấn đấu vì độc lập dân tộc và hạnh
phúc của nhân dân, đưa đất nước không ngừng phát triển. Thực tiễn đó là minh
chứng thuyết phục nhất phản bác luận điệu “Đảng đặt lợi ích giai cấp lên trên
lợi ích dân tộc”. Luận điệu đó của những kẻ “gắp lửa bỏ tay người” là sự xuyên
tạc trắng trợn, trơ trẽn và lố bịch.
_______________
1 - Hồ Chí Minh - Toàn tập,
Tập 1, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 9.
2 - Sđd, tr. 513.
3 - ĐCSVN - Văn kiện Đảng
toàn tập, Tập 2, Nxb CTQG, H. 2002, tr. 2.
4 - Võ Nguyên Giáp - Những
chặng đường lịch sử, Nxb CTQG, H. 1994, tr. 196.
5 - Hồ Chí Minh - Toàn tập,
Tập 15, Nxb. CTQG, H. 2011, tr. 131.
Nguồn: http://tapchiqptd.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét