Những vấn đề trong tư tưởng chính trị mà các thế lực phản động tập trung chống phá ta trong chiến lược “diễn biến hòa bình” hòng làm tan rã niềm tin chính trị, tiến tới làm cho xã hội hỗn loạn về chính trị, tư tưởng, mất định hướng chính trị, tạo ra thế đứng cho các lực lượng phản động trong nước, gây áp lực chính trị của quần chúng. Do vậy, chúng ta cần nêu cảnh giác trước những âm mưu “diễn biến hòa bình”.
1. Phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam
Các thế lực phản động vẫn ra rả đòi Đảng ta, nhân dân ta phải từ
bỏ mục tiêu, con đường đã chọn vì chúng cho rằng, đó là “con đường sai lầm, dẫn
dân tộc đến đường cùng, ngõ cụt”. Chúng ra sức lợi dụng sự kiện chủ nghĩa xã
hội theo mô hình Xô viết ở Liên xô và các nước Đông Âu sụp đổ, cho rằng chủ
nghĩa xã hội đã cáo chung, Đảng Cộng sản đã hết vai trò lịch sử; rằng nước ta
kiên định đi lên chủ nghĩa xã hội là sai lầm, là đi vào vết xe đổ của Liên Xô
và Đông Âu. Chúng cố tình xuyên tạc: “Chủ nghĩa xã hội mà C. Mác nêu ra chỉ là
một lý tưởng, một chủ nghĩa xã hội “không tưởng”; không bao giờ thực hiện
được”(1). Hơn thế, chúng còn “chỉ dạy” Đảng ta cần phải đi theo con đường khác,
theo mô hình “xã hội dân chủ”, thực hiện “chính trị đa nguyên”, “đa đảng đối
lập”… Những luận điệu đó được nhắc đi, nhắc lại với cách lèo lái khác nhau, khi
trắng trợn, lúc tinh vi, khi rầm rộ, lúc lặng lẽ, âm thầm, lúc thì mượn mồm của
những người biến chất, “trở cờ”, “xám hối”, khi thì thô lỗ nhân danh, khoác áo
những nhà chính trị sặc mùi tư sản phản động khẳng định sự “ưu việt” của xã hội
tư bản.
Khi Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới, chúng tuyên truyền kích
động, phủ nhận chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, cho rằng kinh tế thị trường với chủ nghĩa xã hội như lửa với nước, không
thể đồng hành, phủ nhận vai trò kinh tế nhà nước, đòi tư nhân hóa đất đai… Tuy
giọng điệu, cung bậc khác nhau, song chung một kiểu “mưa dầm thấm lâu”, được tung
lên không gian mạng, trên internet dội vào nước ta hòng làm cho quần chúng nhân
dân hoài nghi, bi quan, dao động, suy giảm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng,
vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Vì vậy, hơn lúc nào hết đòi hỏi mỗi công dân, đặc biệt là đội ngũ
cán bộ, đảng viên của Đảng phải kiên định mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội - con đường đúng đắn mà chính lịch sử dân tộc và toàn thể nhân dân, Đảng
Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đồng thuận lựa chọn từ những năm 20,
30 của thế kỷ trước.
Sự thay thế của hình thái kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa đối
với hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa là sự tiếp nối tất yếu trong
dòng chảy phát triển của sự thay thế chế độ xã hội tiến bộ hơn đối với chế độ
xã hội lỗi thời, lạc hậu. Vấn đề này đã được khẳng định bằng chính quá trình
phát triển của lịch sử nhân loại. Đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến hoàn
thiện, từ chế độ công xã nguyên thủy đến cộng sản chủ nghĩa. Đó là quy luật của
sự phát triển. Nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin cũng đã chỉ ra rằng, xét
đến cùng, xã hội sau muốn chiến thắng xã hội trước, trước hết phải bằng năng
suất lao động của nó. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu, năng suất thấp. Nay chúng ta đổi mới, phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
trong thực tế năng suất lao động (tức là trình độ của lực lượng sản xuất) còn
thấp hơn nhiều nước tư bản chủ nghĩa, nhất là các nước tư bản phát triển. Vậy
khi nào có chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Điều đó tùy thuộc vào sự đồng thuận,
dốc sức, dốc lòng của toàn Đảng, toàn dân đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa làm cho lực lượng sản xuất ngày càng phát triển cùng với quan hệ sản xuất
ngày càng ưu việt mà chúng ta đang quyết tâm triển khai đồng bộ. Thực tiễn suốt
tiến trình cách mạng Việt Nam 88 năm qua dưới ngọn cờ của Đảng đã và đang minh
chứng cho sự lựa chọn con đường đúng đắn này và cho sự thắng lợi của quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của
nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ
Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”(2) và thời đại, thể hiện
rõ khát vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam: dân tộc độc lập, nhân dân sống
trong hòa bình, tự do, ấm no, hạnh phúc.
2. Phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh
Chúng phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, cho rằng chủ nghĩa Mác -
Lê-nin đã lỗi thời, chỉ phù hợp với thế kỷ XIX, phù hợp với trình độ, lực lượng
sản xuất và văn hóa Nga, hoặc chỉ thích hợp với nền văn minh công nghiệp của
thế kỷ XX, còn hiện nay, khi bước sang thế kỷ XXI, thời đại văn minh tin học,
kinh tế tri thức, chủ nghĩa C. Mác đã lỗi thời, đã bị lịch sử vượt qua. Từ đó, chúng
cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lê-nin không phù hợp với Việt Nam, hoặc chủ nghĩa Mác
- Lê-nin là sản phẩm ngoại nhập của phương Tây, không thích hợp với các nước
kinh tế lạc hậu như Việt Nam. Việc du nhập chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào Việt Nam
là một sai lầm lịch sử, xa lạ với truyền thống dân tộc.
Xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như cuộc đời và sự
nghiệp của Người, “hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh”… chính là chúng muốn phủ định
tư tưởng Hồ Chí Minh và phủ định sự vận dụng sáng tạo tư tưởng chính trị của
chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện của Việt Nam. Chúng muốn đánh sập nền tảng
tư tưởng chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam và dân tộc Việt Nam trong bước
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là hệ thống các quan điểm và học thuyết
khoa học do C. Mác và Ph. Ăng-ghen xây dựng, V. I. Lê-nin bảo vệ và phát triển,
Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo, phát triển trong điều kiện cụ thể của
một nước thuộc địa, nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu; được hình thành và phát
triển trên cơ sở tổng kết thực tiễn và kế thừa những giá trị tư tưởng của nhân
loại; là thế giới quan phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và
thực tiễn cách mạng; là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải
phóng nhân dân lao động khỏi mọi chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới giải phóng
con người. Trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận duy vật biện chứng,
kinh tế chính trị Mác - Lê-nin, chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã
chỉ ra những quy luật kinh tế của xã hội, đặc biệt là những quy luật kinh tế
của quá trình ra đời, phát triển, suy tàn của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa và sự ra đời, phát triển của phương thức sản xuất mới - phương thức sản
xuất cộng sản chủ nghĩa. Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là kết quả tất
nhiên của sự vận dụng thế giới quan, phương pháp luận triết học, kinh tế chính
trị Mác - Lê-nin, chủ nghĩa xã hội khoa học vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Các thế lực thù địch ra sức xuyên tạc các vấn đề cốt lõi của chủ nghĩa Mác -
Lê-nin (như học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, thời đại ngày nay và sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân, bản chất của chủ nghĩa tư bản hiện đại, giai
cấp và đấu tranh giai cấp, học thuyết giá trị thặng dư)... Đồng thời tuyên
truyền xuyên tạc, bóp méo sự thật công cuộc đổi mới ở Việt Nam nhằm phủ nhận tư
tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đối lập tư
tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lê-nin; phát tán tài liệu, ấn phẩm xuyên
tạc cuộc đời hoạt động và tấm gương đạo đức của Người là logic tất yếu của các
thế lực phản động, kẻ xấu thuộc về thế lực có tư tưởng chính trị đối lập với tư
tưởng chính trị xã hội chủ nghĩa. Giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam là tất yếu giương cao ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt
Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng. Vì
thế, muốn xây dựng một xã hội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam
thì chỉ có thể đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, mà Đảng phải
lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm cốt lõi. Bảo vệ sự trong sáng và phát triển chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp
xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
3. Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam
Các thế lực phản động đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam bằng luận điệu: “Từ bỏ độc quyền lãnh đạo là vấn đề căn bản vì đó
là then chốt của chế độ dân chủ”. Chúng “lập luận” rằng: Do “vai trò lãnh đạo
độc tôn của Đảng Cộng sản Việt Nam” nên “song song với những công trạng họ lập
được, Đảng Cộng sản đã vấp phải quá nhiều sai lầm gây nên hậu quả thảm khốc cho
cả nước”; “Đảng Cộng sản chưa bao giờ chứng tỏ có khả năng quản trị đất nước”,
“thể chế độc đảng toàn trị” nên “xã hội không có tự do, dân chủ”… Chúng lấy
quan điểm “dân chủ”, “nhân quyền” tư sản để đồng nhất dân chủ với đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập; Nhà nước pháp quyền với thiết chế tam quyền phân
lập; nhân quyền với tuyệt đối hóa quyền của cá nhân rồi vu cáo Đảng ta là “độc
tài, độc đoán, mất dân chủ”! Chúng lý sự rằng, “chế độ một đảng lãnh đạo, cầm
quyền là trái với nguyên tắc Nhà nước pháp quyền”, “việc Đảng nắm quyền lãnh
đạo đất nước là hành vi tiếm quyền, chiếm đoạt thành quả của nhân dân”, “đã đến
lúc Đảng Cộng sản Việt Nam nên chấp nhận đối lập”... Cùng với đó, ở trong nước,
một số kẻ nhân danh “tâm nguyện vì nước, vì dân” đưa yêu cầu (thực chất là yêu
sách) đòi Đảng Cộng sản Việt Nam “từ bỏ vị thế lãnh đạo”, phải “thay đổi Cương
lĩnh xây dựng đất nước”, phải “chuyển đổi thể chế chính trị”… Và cuối cùng
chúng khẳng định rằng, Đảng “không được sự ủng hộ của nhân dân”… nên Đảng Cộng
sản Việt Nam không thể lãnh đạo đất nước.
Rõ ràng, dù được ngụy trang bằng những mỹ từ nào đi chăng nữa, bản
chất và mục đích thật sự của những luận điệu đó đều phục vụ âm mưu của các thế
lực phản động, cơ hội chính trị nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, thực hiện “đa nguyên chính trị”.
Về phương diện lý luận, vấn đề Đảng Cộng sản cầm quyền trong thời
kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là một trong những nội dung quan trọng của
chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Nghiên cứu lịch sử đương đại, C. Mác và Ph. Ăng-ghen
chỉ ra rằng, trong các xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp, giai cấp nào
giành được quyền lực nhà nước sẽ trở thành giai cấp thống trị và thực hiện vai
trò lãnh đạo đối với xã hội. Kế thừa những di sản tư tưởng chính trị cơ bản đó
trong điều kiện mới, V. I. Lê-nin đã phát triển và có những luận điểm sâu sắc
về vấn đề cầm quyền của Đảng Cộng sản, trong đó khẳng định, sự lãnh đạo của
Đảng là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
thành công. Nguyễn Ái Quốc khi đi tìm lời giải cho bài toán cách mạng Việt Nam
đã khẳng định: Cách mệnh trước hết phải có đảng cách mệnh. Suốt cuộc đời cách
mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyệt đối khẳng định sự cần thiết và vai
trò tiên quyết của nhân tố Đảng lãnh đạo và Đảng cầm quyền.
Về phương diện thực tiễn, Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức và
hoạt động chặt chẽ theo tư tưởng, nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đã lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong hơn
30 năm qua đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đưa đất nước
vững bước trên con đường đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế.
Buông lỏng hoặc hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng là phạm sai lầm
từ nguyên tắc, là thủ tiêu sức mạnh của nhà nước và hệ thống chính trị, tạo
điều kiện cho chủ nghĩa cơ hội nổi dậy “cướp chính quyền”. Vấn đề cơ bản, quan
trọng lúc này là phải không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu,
không ngừng đổi mới, chỉnh đốn, bảo vệ Đảng, để Đảng luôn có đủ uy tín chính
trị và khả năng hoàn thành nhiệm vụ do lịch sử giao phó.
Lập trường chính trị của chúng ta là xây dựng chủ nghĩa xã hội
trên đất nước ta mà chủ thể là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, nhân dân lao động làm chủ. Chủ thể xây dựng và thụ hưởng thành quả của nó
là nhân dân, chứ nhất thiết không thuộc về một nhóm xã hội nào khác.
Đỗ Hồng
Quân
Rất hay!!!
Trả lờiXóa