Sự ra đời và phát
triển của mạng thông tin toàn cầu Internet và các công nghệ truyền dẫn không
dây đã và đang làm nên một cuộc cách mạng lớn trong lĩnh vực thông tin - truyền
thông. Cùng với sự đi lên của đời sống kinh tế - xã hội và sự phát triển của
khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ, sự tác động mạnh của Internet là tất
yếu và nhanh chóng tạo ra những biến đổi về văn hóa - xã hội sâu sắc ở mọi nơi,
mọi ngõ ngách của cuộc sống loài người.
Mạng xã hội xuất hiện
ở Việt Nam vào khoảng năm 2005 - 2006 với sự thâm nhập và phát triển của các
mạng xã hội nước ngoài và sự hình thành, phát triển của mạng xã hội do người
Việt tạo ra. Cùng với sự xuất hiện của hàng loạt các mạng xã hội lớn trên thế giới
như Linkedin (ra đời năm 2002), Facebook (2004), Youtube (2005), Twitter (năm
2006), Google+ (2011), có sự xuất hiện và phát triển của hàng loạt mạng xã hội
thuần Việt như ZoomBan, Yobanbe, FaceViet.com, VietSpace, Clip.vn. Yume,
Tamtay.vn, Truongxua.vn, ZingMe, Go.vn,...
Chưa bao giờ, sức mạnh
của mạng xã hội lại được phát huy như thời điểm này, khi mà bất cứ một thông
tin “lạ” nào được đưa ra cũng đủ khiến cả cộng đồng sục sôi. Cư dân mạng dường
như đang trở thành những “người mù” bị dắt mũi theo những luồng thông tin không
chính thống, chưa được kiểm chứng, để rồi từ đó, bao hệ lụy xảy ra.
* Khi cư dân mạng
“cuồng” chửi bới:
Biểu hiện rõ ràng nhất
của văn hóa mạng chính là “ngôn ngữ mạng xã hội” Ngôn ngữ mạng có khởi đầu
giống như “tiếng lóng” hay “từ chuyên môn”, chỉ phục vụ một nhóm nhỏ người
dùng, nhưng sau đó, do sự kết nối không giới hạn của các mạng xã hội mà nó
nhanh chóng trở thành một “tài sản chung” của một cộng đồng rộng lớn người dùng
thông qua sự tương tác vượt trội của mạng xã hội. Cao hơn nữa, ngôn ngữ mạng xã
hội là của những người cùng giaotiếp thong qua mạng xã hội. Tức là toàn bộ quá
trình giao tiếp được bộc lộ bằng ngôn ngữ trên mạng xã hội. Chính vì thế ngôn
ngữ trên mạng xã hội vừa phản ánh những đặc thù giao tiếp trên mạng xã hội, vừa
phản ánh một hiện tượng của đời sống. Hay nói cách khác, ngôn ngữ mạng xã hội
phản ánh văn hóa của người dùng trên mạng xã hội.
Một vấn đề đáng lo
ngại là việc sử dụng ngôn ngữ mạng xã hội là một sự hỗn tạp, lai căng làm mất
đi sự trong sáng của tiếng Việt, đặc biệt là giới trẻ. Việc dùng tiếng Việt kết
hợp với ngôn ngữ khác (phổ biến nhất là kết hợp với tiếng Anh) có xu hướng tăng
lên đáng báo động. Tiếng Việt được dùng theo cách riêng với sự kết hợp “lạ hóa”
và khó hiểu. Các biểu hiện lệch chuẩn về đạo đức, văn hóa trên mạng xã hội hiện
nay đã đến mức đáng báo động. Nếu không có các thiết chế hoặc chế tài phù hợp
để ngăn chặn thì rất có thể những hiện tượng đó sẽ tiếp tục lan rộng và phát
triển thành những hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Kiểu tung tin câu like
này không hiếm, nhưng điều đáng nói là ở khía cạnh những người tiếp nhận thông
tin. Không ít cư dân mạng đã không hề nghi ngờ trước nguồn tin thất thiệt này,
thi nhau like, chia sẻ, rủ nhau đi tham gia lễ hội. Trong số đó, cũng có không
ít người chế giễu, chửi bới chính quyền trong khi không kiểm chứng được nội
dung bị cuốn vào hiệu ứng đám đông.
* Cần lựa chọn giữa sự
vùi dập và tình yêu thương!
Quả thật, mạng xã hội
đã trở thành một công cụ hữu ích cho những kẻ vô công rồi nghề muốn “làm nổi”,
hoặc những kẻ muốn kinh doanh trục lợi bằng cách tạo sự chú ý của đám đông.
Không ít lần, cộng đồng mạng đã “mắc lỡm” bởi những tin đồn chưa xác định như
thế: tin “sái cổ” trước những thông tin sai lệch như rơi máy bay, bắt cóc lấy
nội tạng, các tin đồn thất thiệt liên quan đến cơ quan quản lý nhà nước; hùa
nhau chửi bới, sỉ nhục người khác chỉ với vài bức ảnh, clip được cắt ghép;
thương cảm, xót xa, thậm chí quyên góp tiền cho những tình cảnh bất hạnh mà chỉ
mới thấy được thông tin, hình ảnh, chưa có gì làm bằng cớ đây là câu chuyện
thật đang tồn tại…
Thực tế thì, những bức
ảnh, những clip, những câu chuyện đôi khi chỉ thế hiện một phần rất nhỏ của sự
thật đằng sau, thậm chí đã bị bóp méo, sai lệch so với sự thật. Không ít lần,
những nạn nhân của tin đồn, của hình ảnh đã phải chịu biết bao áp lực đáng sợ,
phải đính chính và nhờ đến cơ quan chức năng can thiệp để lấy lại danh dự và sự
bình an cho mình.
Trong cuộc sống, người
ta thường nhắn nhủ nhau “nghe bằng hai tai”, để có thể sáng suốt nhận diện sự
thật. Trên mạng ảo, nơi thị phi trắng đen khó kiểm chứng, nơi không ít người
dùng bàn phím, câu chữ để phục vụ lợi ích bất chính cho mình, bất chấp tổn hại
đến người khác thì sự tiếp nhận thông tin càng phải thận trọng hơn nữa: Không
chỉ cần nghe bằng hai tai mà phải nhìn nhận bằng cả.
* Lý trí, cảm nhận
bằng cả trái tim.
Bởi, những bình luận,
chia sẻ chỉ là hành động trên thế giới ảo, nhưng sự tổn thương là có thật.
Thiếu bình tĩnh và hùa theo đám đông mù quáng, rất có thể, những câu chữ tưởng
như vô hại mà người ta buông ra rồi quên ngay ấy, có thể hại đến sinh mạng, đến
tương lai một hay nhiều con người. Cẩn trọng trước mọi thông tin, tiếp nhận
chừng mực cũng chính là cách mà một con người văn minh hành xử trên mạng để thế
giới ảo giảm tiêu cực, bớt chuyện đau lòng, đem lại nhiều hơn lợi ích và tình
yêu thương.
* Tự tạo dựng nhân
cách tốt cho các chủ thể tham gia văn hóa mạng:
Đối với Nhóm đối tượng
là người dùng trên các trang mạng xã hội, cần tăng cường trang bị tri thức về
việc phát triển năng lực cá nhân để mỗi người tự ý thức về trách nhiệm, quyền
hạn của chính mình khi tham gia mạng xã hội. Nâng cao năng lực cá nhân cần được
áp dụng trong cả môi trường gia đình, nhà trường. Để tăng cường phát triển năng
lực cá nhân, công tác truyền thông nâng cao nhận thức cho người sử dụng mạng xã
hội cũng cần được chú trọng hơn nữa. Đặc biệt cần phải nâng cao giá trị thông
tin của báo chí, để báo chí trở thành công cụ định hướng tốt cho công chúng,
tránh bỏ mất độc giả.
Cần nâng cao năng lực
xã hội cho các cá nhân, đặc biệt là cho nhóm học sinh, sinh viên. Đây là nhóm
đối tượng chiếm phần lớn và là nhóm công chúng chính trên các trang mạng
Internet. Năng lực xã hội giúp cho các cá nhân biết được mình là ai, mình có
mối quan hệ như thế nào với cộng đồng, xã hội, với các tổ chức hay cá nhân khác
trong xã hội. Nâng cao năng lực xã hội cho các cá nhân nên trở thành các chương
trình cụ thể áp dụng trong các trường học, đồng thời thực hiện các chiến dịch
truyền thông xã hội lớn để hỗ trợ thông tin cho các hoạt động trong nhà trường.
Đối với Nhóm đối tượng
là các công ty công nghệ, các nhà mạng. Đối với nhóm đối tượng này, nhà nước
cần đưa ra các tiêu chuẩn kinh doanh tại Việt Nam và khuyến cáo các công ty
công nghệ áp dụng, trong đó có những cảnh báo về các chuẩn mực đạo đức mà nhà mạng
đòi hỏi. Việc ngăn chặn tác động xấu và yêu cầu các sản phẩm nước ngoài tuân
thủ nghiêm ngặt quy định luật pháp Việt Nam trên môi trường Internet cần được
tiến hành bằng cả giải pháp quản lý và giải pháp kỹ thuật một cách nghiêm túc.
Nhóm đối tượng là cơ
quan quản lý nhà nước. Đây là nhóm đối tượng đặc biệt, thực hiện chức năng quản
lý nhà nước trong lĩnh vực này: Cần sớm rà soát, bổ sung, hoàn thiện hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm môi trường pháp lý rõ ràng, công khai, minh
bạch và bình đẳng cho mọi đơn vị, cá nhân cung cấp và sử dụng thông tin
Internet trên lãnh thổ Việt Nam. Rà soát và sửa đổi, bổ sung nhằm nâng cao tính
hiệu lực, hiệu quả các văn bản hiện có phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Xây dựng
các văn bản mới phù hợp với xu thế phát triển và yêu cầu công tác quản lý nhà
nước. Nghiên cứu đề xuất, đàm phán các cơ chế phối hợp giữa các quốc gia trong
việc quản lý các dịch vụ thông tin xuyên biên giới, phù hợp với các cam kết
quốc tế và yêu cầu hội nhập./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét