Trong suốt 70 năm qua, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền vẫn
là bản tuyên ngôn có ý nghĩa nhân văn cao cả, đã và đang là mục tiêu phấn đấu
của toàn thể nhân loại. Là thành viên có trách nhiệm của Liên hợp quốc, Việt
Nam luôn coi việc bảo đảm quyền con người là bản chất, mục đích của chế độ xã
hội chủ nghĩa và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên lĩnh vực này, được
quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.
Những hậu quả mà Cuộc chiến tranh thế giới thứ Hai, do chủ
nghĩa phát xít gây ra đã thức tỉnh nhân loại về một nhiệm vụ chung là bảo vệ
hòa bình, tôn trọng độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và quyền con người. Đây
được xem là một nhu cầu cấp bách của cộng đồng quốc tế. Vì vậy, ngay sau khi
được thành lập (24-10-1945), với sự làm việc khẩn trương của các chuyên gia
hàng đầu, các cơ quan có trách nhiệm, ngày 10-12-1948, “Tuyên ngôn quốc tế nhân
quyền” đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua.
Tuyên ngôn không chỉ chọn lọc kế thừa những tư tưởng tiến bộ
của nhân loại, mà còn đề cập tới những vấn đề mang tính thách thức đối với các
hệ thống xã hội vào thời điểm đó. Đó là quyền không bị kỳ thị, phân biệt đối xử
về chủng tộc, màu da, giới tính; quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng tôn giáo, tự
do hội họp, lập hội; quyền được tham gia vào việc quản lý đất nước, v.v. Đây là
những nhu cầu bức thiết của đại bộ phận dân chúng vẫn chưa được đáp ứng ngay cả
ở những nước tư bản phát triển nhất. Các quyền về kinh tế, xã hội và văn
hóa; quyền làm việc, bao gồm quyền được bảo vệ, chống lại thất nghiệp; quyền
được giáo dục,… được xem là những ưu việt của hệ thống xã hội chủ nghĩa (vào
thời điểm đó), sau nhiều cuộc tranh luận đã được đưa vào văn kiện quan trọng
này.
Thể chế hóa tư tưởng của Tuyên ngôn, cho đến nay, Liên hợp
quốc đã thông qua nhiều công ước, đặc biệt là: “Công ước quốc tế về các quyền
dân sự và chính trị”, “Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn
hóa” (năm 1966). Hai công ước này xác định cụ thể và chi tiết các quyền tự do
cơ bản của con người trên lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn
hóa; đồng thời, xác lập trách nhiệm, nghĩa vụ của các quốc gia thành viên phải
tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người. Cùng với đó, Liên hợp
quốc đã thông qua nhiều công ước, nghị định thư khác,... góp phần tạo lập hệ
thống nguyên tắc, quy phạm và chuẩn mực quốc tế về quyền con người.
Tuy nhiên, một hạn chế của Tuyên ngôn là không đề cập đến
quyền con người của các dân tộc thuộc địa và ai là người phải chịu trách nhiệm
tôn trọng và bảo vệ quyền của họ? Vì, đối với các dân tộc bị áp bức, điều kiện
tiên quyết của quyền con người là độc lập dân tộc. Đây chính là một lỗ hổng lớn
về tư tưởng chính trị - pháp lý của văn kiện này. Điều đó cho thấy, trong thực
tế, không một đế quốc nào thừa nhận quyền này và tự nguyện trao lại độc lập cho
các dân tộc thuộc địa. Muốn có độc lập thật sự, các dân tộc bị áp bức phải đứng
lên giành lấy quyền đó bằng con đường đấu tranh cách mạng. Vì vậy, trải qua rất
nhiều đấu tranh, tới ngày 14-12-1960, Liên hợp quốc mới ra Bản “Tuyên bố về
trao trả độc lập cho các nước và dân tộc thuộc địa”1.
Mặc dù vậy, 70 năm qua, các quy định của Tuyên ngôn vẫn còn
nguyên giá trị. Đó là văn kiện chính trị đặc biệt, được tất cả các quốc gia,
dân tộc trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị, hệ tư tưởng, trình độ
phát triển, bản sắc văn hóa đều thừa nhận và được xem là giá trị chung của nhân
loại, góp phần thúc đẩy các quốc gia, dân tộc xây dựng, thực thi quyền con
người, làm cho thế giới phát triển, tiến bộ hơn.
Đối với Việt Nam, trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhân
dân ta hoàn toàn không biết đến quyền con người, quyền công dân; nhiều lắm,
người dân chỉ biết đến khái niệm quyền con người qua luận điệu tuyên truyền của
bọn thực dân và tay sai. Chỉ đến khi cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dưới sự
lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam thành công, thì
quyền công dân và quyền con người của nhân dân ta mới giành lại được. Điều đặc
biệt là, bản Tuyên độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố trước quốc dân đồng
bào và thế giới đã kế thừa những giá trị tiến bộ của nhân loại, bao quát đầy đủ
về dân chủ, quyền con người, quyền công dân, đồng thời có tính tương đồng,
thống nhất với Tuyên ngôn của Liên hợp quốc về quyền con người. Ngay sau đó một
năm, Việt Nam đã ban hành Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp dân chủ đầu tiên của
nền cộng hòa - đã thiết lập và đảm bảo cho công dân thực hiện và hưởng thụ các
quyền và tự do dân chủ.
Tuy nhiên, do điều kiện đất nước có chiến tranh, hậu quả
nặng nề, kinh tế chưa phát triển, nên việc đảm bảo quyền con người còn hạn chế,
nhất là các quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội. Sau khi giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước, Việt Nam trở thành thành viên của Liên hợp quốc (năm
1977), nhất là bước vào thời kỳ đổi mới, với quan điểm: con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực phát triển; gắn mỗi bước tăng trưởng kinh tế với đảm bảo
an sinh xã hội, tất cả vì con người, vì hạnh phúc của nhân dân, Việt Nam đã
tham gia hầu hết các điều ước quốc tế về nhân quyền do Liên hợp quốc ban hành
và đảm bảo tốt trên thực tế.
Trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, có thể nói, quyền
con người đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Cho đến nay, hầu hết các xã,
cụm dân cư, kể cả ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người đều có
điện, trường học, trạm y tế, hệ thống giao thông phát triển; tỷ lệ hộ đói nghèo
giảm nhanh, luôn đạt và vượt mục tiêu đề ra qua các giai đoạn. Đặc biệt, Việt
Nam đã hoàn thành Mục tiêu thiên niên kỷ về giảm nghèo trước 10 năm. Đến hết
năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo của Việt Nam là 9,45%, vượt mức mục tiêu đề ra là 10%.
Chính phủ Việt Nam đã xây dựng định hướng giảm nghèo giai đoạn 2011 - 2020, với
mục tiêu giảm số hộ nghèo còn 4% - 5% vào năm 2020.
Trên lĩnh vực quyền dân sự và chính trị, kế thừa các Hiến
pháp trước đó, Quốc hội (khóa XIII) đã xây dựng và ban hành Hiến pháp năm 2013.
Đây là văn kiện chính trị, pháp lý thể hiện đầy đủ về “Quyền con người, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Có thể nói, những quy định về quyền con người
tại Hiến pháp năm 2013 hoàn toàn tương thích với các công ước quốc tế về quyền
con người, trong đó có những quyền được xem là “nhạy cảm” cũng đã được đưa vào
văn kiện này. Chẳng hạn, Điều 14, quy định: (1). “Ở nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị,
dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm
theo Hiến pháp và pháp luật. (2). Quyền con người, quyền công dân
chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý
do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức
khỏe của cộng đồng”. Hoặc Điều 25 quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận,
tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện
các quyền này do pháp luật quy định”. Ngoài ra, Quốc hội đã sửa và xây dựng
nhiều đạo luật mới, như: Luật Báo chí (năm 2016); Luật Tiếp cận thông tin (năm
2013); Luật An ninh mạng (năm 2018), v.v. Các quy định của những bộ luật này
đều nhằm bảo đảm an ninh Quốc gia, trật tự công cộng và quyền con người.
Trong bối cảnh internet, mạng xã hội phát triển mạnh
mẽ, Đảng và Nhà nước ta đã bảo đảm quyền tự do ngôn luận, báo chí và đáp ứng
đầy đủ nhu cầu thông tin của nhân dân. Việt Nam hòa mạng internet toàn cầu khá
sớm so với nhiều quốc gia trong khu vực, từ ngày 01-12-1997. Theo tổ chức
nghiên cứu về mạng xã hội quốc tế - Next Web, hiện nay, Việt Nam nằm trong “Top
10 quốc gia có nhiều người dùng Facebook nhất thế giới” với 64 triệu
người, chiếm 3% tổng số tài khoản Facebook toàn cầu. Người dân Việt
Nam ngày nay có thể đăng lên mạng và tải về các video/clip hoàn toàn không bị
cấm đoán nếu không vi phạm pháp luật. Ngoài các đài phát thanh, truyền hình của
quốc gia và các tỉnh, thành phố, hiện nay, Việt Nam có tới 74 báo và
tạp chí điện tử, 336 mạng xã hội, 1.174 trang thông tin điện tử được cấp phép
hoạt động. Người nước ngoài và người dân Việt Nam có thể tiếp cận tin tức của
các cơ quan thông tấn, báo chí trên thế giới, như: AFP, AP, BBC, VOA, Reuters,…
mà không có bất kỳ hạn chế nào.
Những thành tựu trên là rất cơ bản và to lớn, nhất là hệ
thống pháp luật Việt Nam về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu đặt ra cho việc thúc
đẩy, bảo vệ và phát triển quyền con người, quyền công dân. Nhờ đó, Việt Nam
được bầu làm ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ
2008 - 2009) và thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014 -
2016). Đó là sự ghi nhận và đánh giá cao của quốc tế đối với Việt Nam trong
việc bảo đảm, thực thi quyền con người.
Có thể khẳng định rằng, đi theo con đường chủ nghĩa xã hội
dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Việt Nam không
chỉ giành được quyền con người, mà còn có những đóng góp to lớn trên lĩnh vực
này từ tư tưởng chính trị đến thực tiễn. Công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế là
một thời kỳ phát triển vượt bậc của Việt Nam về các phương diện, trong đó tư
duy và nhận thức về quyền con người, về giá trị đích thực của nhân quyền ngày
càng sáng rõ và luôn ý thức rằng: nhân quyền là thuộc bản chất của chế độ và là
mục tiêu phấn đấu của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp cách mạng của Đảng
Cộng sản Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến sự nghiệp đổi mới
ngày nay, tất cả chỉ vì mục đích là giải phóng con người, vì tự do và hạnh phúc
của nhân dân, vì nhân quyền cao cả.
Tuy nhiên, quyền con người, như có người nói, đó là đường
chân trời, khi người ta càng tiến đến thì dường như nó càng lùi xa, đảm bảo
thực hiện nó là cả một quá trình phấn đấu lâu dài, không thể một sớm một chiều,
vì nhu cầu của con người không ngừng phát triển, nhất là đối với Việt Nam -
nước đã chịu biết bao hy sinh mất mát, đau thương về người và của do thực dân,
đế quốc gây nên, hiện hậu quả chiến tranh để lại còn rất nặng nề. Do đó, những
thành quả nhân quyền đã đạt được, chúng ta cũng không bao giờ tự mãn, bởi trước
mắt, đất nước còn đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Nhận thức rõ
điều đó, Đảng, Nhà nước ta đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, nhằm phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân, hướng tới mục
tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó là cách tốt nhất
để bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, công dân
ngày càng tốt hơn.
Nguồn:
www.tapchiqptd.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét