Ngay từ khi báo chí ra đời, vấn đề tự do
báo chí đã xuất hiện. Và trong suốt lịch sử tồn tại, phát triển của báo chí,
vấn đề tự do báo chí luôn luôn đồng hành như hình với bóng, trở thành đề tài
cho vô số những bài báo, luận văn tuyên truyền, chủ đề trung tâm của những cuộc
tranh luận nẩy lửa, không bao giờ dứt, thậm chí là nguyên nhân của không biết
bao nhiêu vụ việc rắc rối, phức tạp, kể cả tù đày và đổ máu. Vậy tự do báo chí
là gì? Tại sao vấn đề tự do báo chí lại phức tạp như thế? Vấn đề tự do báo chí
được giải quyết như thế nào ở thế giới và Việt Nam, trong lịch sử cũng như hiện
tại? Thực chất của những luận điệu rêu rao, bôi nhọ tình hình tự do báo chí của
nước ta là gì? Trong bài viết này, chúng tôi xin được thêm một lần nữa trao
đổi, ngõ hầu góp phần làm rõ phần nào những câu hỏi đó.
1. Lịch sử của vấn đề tự do báo chí
Sự ra đời của báo chí là kết quả của quá
trình phát triển văn hoá của nhân loại, trong đó đặc biệt là những thành tựu về
kỹ thuật in ấn. Nhưng chính bối cảnh của cuộc cách mạng tư sản ở phương Tây và
cùng với nó là tiến trình công nghiệp hoá, mở rộng thị trường mới là điều kiện,
là mảnh đất mầu mỡ cho sự phát triển và thể hiện sức mạnh của báo chí với tính
chất là một phương tiện truyền thông mới. Trong cuộc đấu tranh một mất, một còn
giữa một bên là các thế lực phong kiến, quý tộc bảo thủ và nhiều khi là cả sự
sát cánh của các thế lực tăng lữ, với một bên là giai cấp tư sản đang lên cùng
với nhu cầu phát triển nền kinh tế hàng hóa, báo chí ngay lập tức trở thành một
loại quyền lực xã hội đầy hấp dẫn. Tuy nhiên, các nhà nước phong kiến lúc đó đã
giành lấy báo chí, giữ lấy nó như một thứ vũ khí mạnh mẽ để bảo vệ quyền lực
của mình. Tự do báo chí ra đời trong bối cảnh đó và tất nhiên do chính
giai cấp tư sản phát động. Ban đầu, tự do báo chí được hiểu là quyền tự do in
ấn và xuất bản các tờ báo mà giai cấp tư sản lúc đó đòi được được chia xẻ công
bằng với nhà nước phong kiến bảo thủ đang đang nắm giữ độc quyền.
Một số nhà tư tưởng tư sản từng giải
thích về tự do báo chí như tự do hàng hóa. Người ta có thể tự do sản xuất các
hàng hóa để đưa ra thị trường tiêu thụ thì cũng có thể tự do in ấn, xuất bản
các tờ báo để bán cho người dân. Người dân đã biết chọn cho mình thứ hàng hóa
tốt thì cũng có thể chọn cho mình những ý kiến hay, những tư tưởng tốt trong
báo chí tự do (John Milton 1608-1674,John Stuart Mill 1806-1873). Tuy nhiên,
giới phong kiến quý tộc và các nhà nước bảo thủ không hiểu như thế. Họ tìm mọi
cách nắm lấy báo chí và biến báo chí thành một thứ công cụ sắc bén, một thứ
quyền lực mạnh mẽ để bảo vệ vị thế xã hội và các lợi ích của mình. Trong khi
nhà nước phong kiến sử dụng pháp luật và cả bạo lực để ngăn cản quyền tự do báo
chí của giai cấp tư sản và nhân dân lao động thì một bộ phận tôn giáo cũng đứng
về phía chính quyền, hòa giọng vào giàn đồng ca lên án tự do báo chí, tự do
ngôn luận. Trong Thông điệp (Mirarivos) ngày 15-8-1832, Giáo hoàng Gre-gô-ri-ô
XVI (Gregorius XVI) đã lên án mạnh mẽ và hoàn toàn loại bỏ tự do ngôn
luận, tự do báo chí ra ngoài vòng pháp luật của xã hội. Thông điệp viết: “Cái
châm ngôn sai lầm và phi lý, hay nói cho đúng, sự rồ dại: tự do tín ngưỡng, tự
do báo chí, cái tự do ghê tởm nhất tai hại nhất, mà bao giờ người ta cũng ghê
sợ”.
Khi giành được chính quyền, giai cấp tư
sản lại đi theo vết xe đổ của nhà nước phong kiến quý tộc, giành lấy cho riêng
mình độc quyền về báo chí, ngăn cản tự do báo chí ở chính quốc và đàn áp báo
chí tự do ở các quốc gia, lãnh thổ thuộc địa. Cuộc đấu tranh giành tự do
báo chí của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức ở các nước thuộc địa đã
phải trả giá cả bằng xương máu và nước mắt. Trong loạt bài báo “Những cuộc
tranh luận về tự do báo chí”, đăng liên tục trong sáu số phụ trương của tờ
Rheinische Zeitung (Nhật báo tỉnh Ranh) tháng 5 năm 1842, C. Mác đã bày tỏ quan
điểm kiên quyết bảo vệ tự do báo chí. Ông cho rằng “Báo chí tự do - đó là con
mắt sáng suốt của tinh thần nhân dân; là hiện thân sự tin cậy của nhân dân đối
với bản thân mình, là những dây liên hệ biết nói, gắn liền các cá nhân với nhà
nước, với toàn thế giới, nó là hiện thân nền văn hóa đang biến cuộc đấu tranh
vật chất thành cuộc đấu tranh tinh thần và lý tưởng hóa hình thức vật chất thô
bạo của cuộc đấu tranh đó… Báo chí Tự do là Toàn diện, nơi nào cũng có mặt, cái
gì cũng biết. Báo chí tự do là cái thế giới ý tưởng không ngừng trào ra từ thực
tế hiện thực lại chảy trở về hiện thực như một dòng thác đầy sinh khí dưới hình
thức của cái tinh thần ngày càng dồi dào”[1]. Ông lên án gay gắt sự đàn áp và việc
kiểm duyệt báo chí của nhà nước lúc đó: “kiểm duyệt là sự phê bình với tư cách
là độc quyền của chính phủ” và “Khi sự phê bình tác động không phải bằng lưỡi
dao sắc bén của lý tính mà bằng cái kéo cùn của sự tùy tiện, khi sự phê bình
coi việc dùng sức mạnh thô bạo là luận cứ mạnh mẽ - khi đó lẽ nào sự phê bình
lại không mất tính chất hợp lý của mình” (sđd, tr. 290).
Phải đến giữa thế kỷ XX, với kết quả của
cuộc đấu tranh kiên trì, quyết liệt của công nhân và nhân dân lao động toàn thế
giới cùng với những tiến bộ văn hóa, văn minh nhân loại, quyền tự do báo chí và
cùng với nó là quyền tự do ngôn luận, mới được khẳng định và trở thành một giá
trị chuẩn mực quốc tế. Điều 19, Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền của
Liên hợp quốc được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua và công bố theo Nghị
quyết số 217, ngày 10 tháng 12 năm 1948 nêu rõ: “Mọi người đều có quyền tự do
ngôn luận và bày tỏ quan điểm; kể cả tự do bảo lưu ý kiến không phụ thuộc vào
bất cứ sự can thiệp nào, cũng như tự do tìm kiếm, thu nhận, truyền bá thông tin
và ý kiến bằng bất cứ phương tiện thông tin đại chúng nào và không giới hạn về
biên giới”.
Ngày nay, quyền tự do báo chí không đơn
thuần chỉ là quyền tự do in ấn, xuất bản các sản phẩm báo chí mà nó đã được mở
rộng một cách toàn diện, bao gồm: Quyền tự do hoạt động nghề nghiệp của
người làm báo; quyền tự do ra báo, thành lập các cơ quan truyền thông đại
chúng; quyền tự do tiếp cận thông tin báo chí; quyền tự do truyền phát thông
tin, biểu đạt quan điểm và quyền được bảo vệ và đối xử công bằng trên các
phương tiện truyền thông đại chúng. Cần phải nói rằng, lâu nay rất nhiều
người vì mục đích nào đó mà thường chỉ nhấn mạnh các quyền tự do làm báo, tự do
ra báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí mà quên đi quyền được bảo vệ một cách
công bằng, đạo đức trên báo báo chí, truyền thông. Hơn thế nữa, người ta cũng
vô tình hay hữu ý mà không nhắc đến vai trò của pháp luật trong điều chỉnh hoạt
động báo chí phục vụ cho mục đích chung, hài hòa và phúc lợi của nhân dân trong
phạm vi xã hội dân chủ.
2. Hai câu hỏi thực tế về tự do báo
chí
Khi bàn về tự do báo chí, một số người
thường hay trích dẫn một câu trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1789
của nước Pháp rằng:“Tự do trao đổi suy nghĩ và ý kiến là một trong những quyền
quý giá nhất của con người. Vì thế, bất kỳ công dân nào cũng có thể nói, viết
và công bố tự do”; hoặc viện dẫn Tu chánh án thứ nhất của Hiến pháp Hoa kỳ được
thông qua năm 1791 rằng: “Quốc hội không được làm luật liên quan đến bất cứ tôn
giáo nào, hoặc ngăn cản sự tự do tín ngưỡng, hoặc ngăn cản sự tự do ngôn luận,
tự do báo chí, hoặc quyền của người dân được hội họp hòa bình, và kiến nghị
chính quyền để giải quyết khiếu nại”. Đồng thời,người ta cũng coi đó là biểu
tượng về của nền tự do báo chí ở Mỹ và phương Tây nói chung. Xin nói ngay rằng,
những luận điểm đặt ra trong hai trích dẫn đó là hoàn toàn đúng, là thể hiện
giá trị tích cực, tiến bộ của nhân loại. Nhưng vấn đề là ở chỗ, từ những luận
điểm ấy đến thực tế xã hội có khoảng cách không; cần hiểu như thế nào cho đúng
về thực chất của những luận điểm đó?Từ đây có hai câu hỏi thực tế cần phải làm
rõ: Thứ nhất, phải chăng trên thực tế báo chí ở nước Mỹ và phương
Tây tự do tuyệt đối, không bờ bến, không có bất cứ một hạn chế, ràng buộc
nào? Thứ hai, phải chăng báo chí Mỹ và báo chí phương Tây chỉ thông
tin những gì là sự thật, phi chính trị, là hoàn toàn khách quan, không thiên vị?
Câu trả lời cho câu hỏi thứ nhất là
không, hoàn toàn không!
Trước hết, cần phải khẳng định rằng, tự
do báo chí là thiêng liêng, là cần thiết cho cuộc sống, là một biểu hiện cho
tiến bộ và một yếu tố thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Nhưng tự do báo chí
chưa bao giờ và không bao giờ là tự do chung chung, tự do cho mọi người, tự do
vô bờ bến. Ngược lại, tự do báo chí bao giờ cũng là và chắc chắn là tự do cho
ai, tự do vì mục đích gì. Chính vì thế, nhiều nhà lãnh đạo cách mạng tư sản
trước đây đã quyết liệt đấu tranh, thậm chí bị tù đày vì đòi được chia xẻ quyền
tự do báo chí với các thế lực phong kiến, quý tộc, nhưng khi dành được chính
quyền về tay mình, chính họ lại ngăn cản và không ngần ngại đàn áp tự do báo
chí của những người công nhân và nhân dân lao động. V.I. Lê nin đã chỉ ra rằng,
“Giai cấp tư sản hiểu tự do báo chí là quyền tự do ra báo của nhà giàu, là
quyền của bọn tư bản chiếm đoạt báo chí..., Chính phủ công nông hiểu tự do báo
chí là giải phóng báo chí khỏi ách tư bản...”, tức là mang lại cho nhân dân lao
động quyền tư do báo chí một cách đầy đủ[2].
Mặt khác, theo thực tế pháp lý ở tất cả
các quốc gia trên thế giới, vấn đề có tính nguyên tắc là tự do luôn gắn liền
với trách nhiệm, quyền lợi luôn gắn liền với nghĩa vụ. Mối quan hệ phổ biến này
nhằm mục tiêu chính đáng và khách quan là đảm bảo cho tự do của mỗi người không
làm mất đi hay ảnh hưởng tiêu cực đến tự do của người khác và của cộng đồng.
Đây cũng chính là nguyên tắc căn bản mà Tuyên ngôn toàn thế giới về
nhân quyền của Liên hợp quốc đã khẳng định mạnh mẽ. Sau khi xác quyết
các quyền tự do và quyền con người nói chung, Điều 29 của Tuyên ngôn này khẳng
định: “Khi thực hiện các quyền và tự do của mình, mọi người chỉ chịu những hạn
chế do luật định, nhằm mục đích duy nhất là đảm bảo sự công nhận và tôn
trọng thích đáng đối với các quyền và tự do của người khác cũng như đáp ứng
những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự xã hội và phúc lợi chung trong
một xã hội dân chủ”. Nói cách khác, quyền tự do nói chung, tự do báo chí, ngôn
luận nói riêng của mỗi người là thiêng liêng, là quan trọng, nhưng không có
nghĩa là vì những quyền đó mà người ta có thể làm gì cũng được. Vấn đề là con
người sống trong một cộng đồng xã hội, vì thế, tự do của mỗi con người cụ thể
không thể tách rời tự do của cả cộng đồng. Hơn thế nữa, chính sự tự do của mọi
người, của cả cộng đồng là điều kiện đảm bảo cho tự do của mỗi người. Vì thế,
những quyền tự do của mỗi người không thể không bị hạn chế bởi pháp luật nhằm
bảo đảm cho tự do của những người khác, bảo đảm lợi ích chung cho cả cộng đồng.
Cũng đơn giản như, muốn lưu thông được trên đường một cách thuận tiện, người ta
không thể không tuân thủ luật giao thông.
Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của
nước Pháp ra đời từ năm 1789 cũng thể hiện về các quyền tự do của con người và
công dân Pháp theo nguyên tắc ấy. Điều khoản thứ tư của Tuyên ngôn nêu rõ: “Tự
do bao gồm khả năng làm bất cứ điều gì mà không gây hại cho người khác. Như
thế, việc thực hiện các quyền tự nhiên của mỗi cá nhân chỉ bị giới hạn sao cho
các cá nhân khác trong xã hội cũng được hưởng những quyền tương tự. Những giới
hạn này được quy định duy nhất bằng luật pháp”. Liên quan đến tự do báo chí và
tự do ngôn luận, Điều 11 trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của nước Pháp
cũng xác định: “Tự do trao đổi suy nghĩ và ý kiến là một trong những quyền quý
giá nhất của con người. Vì thế, bất kỳ công dân nào cũng có thể nói, viết và
công bố tự do; tuy nhiên, họ sẽ chịu trách nhiệm nếu lạm dụng quyền tự do này
theo quy định của pháp luật”.Như vậy, tự do báo chí, tự do ngôn luận, bất luận
trong trường hợp nào cũng là tự do có hạn định, không thể vượt ra ngoài khuôn
khổ của pháp luật.
Trở lại trường hợp của nước Mỹ, tuy nhà
nước không có bộ luật riêng về báo chí nhưng lại có nhiều điều luật từ các bộ
luật khác của Quốc hội, nhiều quy định có tính pháp lý của Tòa án, của các cơ
quan liên bang khác và của các bang, trong đó có những quy định, những yêu cầu
giới hạn đối với hoạt động báo chí, đối với quyền và trách nhiệm của công
dân liên quan đến báo chí.Ví dụ, Ðiều 2.385 Chương 115 Bộ luật Hình sự của Mỹ
quy định: Nghiêm cấm mọi hành vi in ấn, xuất bản, biên tập, phát thanh, truyền
bá, buôn bán, phân phối hoặc trưng bày công khai bất kỳ tài liệu viết hoặc in
nào có nội dung vận động, xúi giục hoặc giảng giải về trách nhiệm, sự cần thiết
tham vọng, tính đúng đắn của hành vi lật đổ hoặc tiêu diệt bất kỳ chính quyền
cấp nào tại Mỹ bằng vũ lực hay bạo lực. Năm 1953, Bộ luật Hình sự này đã được
bổ sung thêm điều khoản cho phép xét xử việc đăng tải các tài liệu mà chính phủ
cho là bí mật. Chưa kể, các tổ chức báo chí ở Mỹ cũng có những quy định riêng,
yêu cầu người làm báo và các cơ quan báo chí phải tuân thủ những nguyên tắc cụ
thể trong hoạt động báo chí. Quy tắc Báo chí Mỹ theo tinh thần “lý thuyết trách
nhiệm xã hội của báo chí” xác định 7 yêu cầu hoạt động nghề nghiệp là: 1. Trách
nhiệm; 2. Tự do báo chí; 3. Sự độc lập; 4. Lòng thành, sự xác thực, đúng đắn;
5. Sự vô tư; 6. Sự bảo đảm tôn trọng thanh danh; 7. Giữ thuần phong mỹ tục.
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, hoạt
động báo chí ở Mỹ và các nước phương Tây đã ít nhiều cởi mở hơn thời kỳ trước.
Tuy nhiên, bằng hệ thống luật pháp, những chính sách và mức độ khác nhau, chính
quyền Mỹ và các nước phương Tây vẫn quản lý chặt chẽ báo chí và các phương tiện
truyền thông đại chúng. Ngoài ra, với sự cạnh tranh khốc liệt trong thị trường
báo chí, truyền thông, hầu như tự do xuất bản báo chí và thành lập các tổ chức
truyền thông hiện đại chỉ là quyền tự do của các ông chủ những tập đoàn tài
phiệt giàu có, của những người có tiền, có của, có quyền lực trong tay. Không
có chuyện những người nghèo hay tổ chức của họ có thể xuất bản báo chí hoặc duy
trì hoạt động của một cơ quan truyền thông. Đặc biệt, các chính quyền phương
Tây chưa bao giờ đối xử nhẹ tay đối với thông tin báo chí và những người làm
báo bất đồng chính kiến, không ăn cánh với họ, có tư tưởng không đồng thuận với
họ và nhất là đụng chạm đến lợi ích của các ông chủ và của nhà cầm quyền. Vụ
Edward Snowden là một trong số những ví dụ sinh động và xác thực cho tình trạng
đó.
Tháng 6 năm 2013, viên cựu nhân viên Cơ
quan tình báo Trung ương Mỹ (CIA) E. Snowden đã tiết lộ cho một loạt tờ báo ở
Mỹ và châu Âu về một chương trình rộng lớn của chính phủ Mỹ nhằm theo dõi thông
tin điện tử của người dân, và đặc biệt là Chương trình do thám toàn cầu, trong
đó cơ quan tình báo Mỹ và Anh đã bí mật giám sát các cuộc điện thoại của 35 nhà
lãnh đạo thế giới, trong đó có cả Thủ tướng Đức Angela Merkel và ông Đmitry
Metveđev khi đó đang làm Tổng thống Nga.Vụ việc đã phơi bày ra ánh sáng mặt
trái đen tối đến mức khó tưởng tượng của nền dân chủ, tự do kiểu Mỹ và làm chấn
động cả thế giới. Ngay lập tức, Cơ quan An ninh nội địa Mỹ (NSA) và Lầu Năm Góc
tuyên bố E. Snowden đã đánh cắp 1,7 triệu trang tài liệu mật liên quan đến hoạt
động của các cơ quan tình báo Mỹ và các chiến dịch quân sự của Mỹ. Anh tabị cáo
buộc 3 tội: Ăn cắp tài sản chính phủ, truyền tin trái phép các thông tin quốc
phòng và cố ý tiết lộ tài liệu tình báo mật cho người không được phép. Theo
luật pháp của nước Mỹ, với những tội danh ấy, E. Snowden sẽ phải đối mặt với
mức án tổng cộng 30 năm tù. E. Snowden đã phải chạy trốn khỏi nước Mỹ và hiện
nay vẫn đang tị nạn ở Nga. Mặc dù việc Chính phủ Mỹ theo dõi thông tin của
người dân và giám sát điện thoại của các nguyên thủ quốc gia khác là việc làm
sai trái, phạm pháp và đi ngược lại những nguyên tắc của quan hệ ngoại giao,
nhưng họ không những không nhận lỗi, mà còn trở thành người luận tội và truy
đuổi E. Snowden. Ngược lại, E. Snowden hành động theo đúng chuẩn mực của Tu
chánh án thứ nhấtcủa Hiến pháp nước Mỹ, được giới thiệu nhận giải thưởng Noben
Hòa bình, nhưng anh ta vẫn bị coi là tội nhân và khó có đường trở về Mỹ - Tổ
quốc mình.
Vậy nên, nói báo chí Mỹ và phương Tây là
tự do vô bờ bến, các nhà nước ở đó không bao giờ can thiệp là cách nói vô căn
cứ, một thứ xáo ngữ phi thực tế!
Trở lại với câu hỏi thứ hai,
phải chăng báo chí Mỹ và báo chí phương Tây chỉ thông tin những gì là sự thật,
là phi chính trị, khách quan, không thiên vị?
Câu trả lời là không, hoàn toàn không!
Một thực tế không thể phủ nhận là chính
phủ Mỹ và các nước phương Tây thường bưng bít và ngăn chặn báo chí đưa những
những thông tin về các sự kiện khách quan mà bất lợi cho họ hoặc các đồng minh.
Vụ thảm sát Mỹ Lai trong Chiến tranh Việt Nam là một ví dụ điển hình về tình
trạng đó. Ngày 16-3-1968, trong cuộc càn quét vào thôn Mỹ Lai, làng Sơn Mỹ,
huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, một đơn vị lục quân Mỹ đã đã nổ súng giết hại
504 dân thường không có vũ khí trong tay, phần lớn là phụ nữ, trẻ em và người
già. Trước khi bị sát hại, nhiều người trong số các nạn nhân còn bị cưỡng bức,
quấy rối, tra tấn, đánh đập hoặc cắt xẻo các bộ phận trên cơ thể. Trong khi đó,
báo cáo của quân đội Mỹ lại ghi rằng họ đã "tiêu diệt 128 binh
lính kẻ thù mà không chịu bất cứ thương vong nào". Phải đến cuối năm
1969, tức là hơn một năm sau, một người lính Mỹ biết được vụ thảm sát này qua
lời kể của những kẻ trực tiếp tham gia mới tố cáo, vụ thảm sát đó mới được đưa
ra ánh sáng và nhân loại mới biết đến một tội ác dã man chống lại con người của
quân đội Mỹ.
Trong cuộc Chiến tranh Vùng Vịnh năm
1991, bộ máy tuyên truyền của quân đội Mỹ đã chuẩn bị và tổ chức rất chặt chẽ
việc đưa tin để đảm bảo sự an toàn và có lợi cho họ. Các nhà báo được họ lựa
chọn cẩn thận và đảm bảo mọi điều kiện sống, làm việckhi đi theo quân đội.
Nhiệm vụ còn lại của họ là đưa tin theo những gì mà bộ máy tuyên truyền của
quân đội Mỹ đã “xào nấu”. John R. MacArthur, nhà báo Mỹ, tác giả cuốn sách nổi
tiếng “Mặt trận thứ hai: Kiểm duyệt và tuyên truyền về Chiến tranh Vùng Vịnh
1991” đã nhận xét: “Các hãng tin Mỹ như FOX, CNN, ABC, CBS, NBC ít khi đưa
được tin chính xác về diễn biến thực tế các trận đánh, vì hầu hết các bài và
hình ảnh đều được biên soạn tại các căn cứ quân sự của Mỹ ở Qatar và Kuwait.
Các phóng viên hầu hết đều ở phía sau chiến tuyến viết bài, đưa tin dựa vào các
tin và tài liệu do quân đội Mỹ cung cấp". Cũng chính trong thời kỳ này, xe
tăng Mỹ đã nã đạn vào một khách sạn ở Thủ đô Baghdad, nơi có hơn 100 nhà báo
đang làm việc, làm cho 11 người chết, hàng chục người khác bị thương.Năm 1999,
NATO không kích vào Đài truyền hình quốc gia Nam Tư RTS ở thủ đô Bêograt giết
chết 16 nhà báo... Những thông tin này đều bị chính quyền Mỹ kiểm soát, không
để lọt ra trên báo chí của Mỹ.
Một ví dụ khác, vụ biếm họa nhà tiên tri
Muhamad. Cuối năm 2005, tờ báoJyllands-Posten của Đan mạch
đăng 12 bức biếm họa về nhà tiên tri của đạo Hồi Muhammed, trong đó có bức
vẽ Nhà tiên tri Muhammed với quả bom đã châm ngòi đặt trong khăn xếp trên đầu.
Trên quả bom còn có ghi một tín điều của Hồi giáo. Sau đó một số tờ báo của 40
nước ở châu Âu đã đăng lại những bức tranh này, trong số đó có tờ tuần báo trào
phúng của Pháp Charlie Hebdo. Sau vụ việc này, bạo loạn đã xảy ra ở
nhiều nơi trên thế giới, nhất là những nước có đông tín đồ Hồi giáo. Những
người phản đối việc đăng tải những bức vẽ này cho rằng đó là sự sỉ nhục và lăng
mạ Hồi giáo. Những người ủng hộ chúng lại cho rằng việc một tờ báo in hình biếm
họa hay đăng tải cái gì chăng nữa là quyền tự do báo chí chính đáng. Lạ
lùng là chính phủ nhiều nước phương Tây lại lên tiếng ủng hộ và đứng ra bảo vệ,
thậm chí khuyến khích các tòa báo, bất chấp những nguyên tắc về chống lạm quyền
tự do đã được ghi trong Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền của
Liên hợp quốc mà họ đã công nhận. Những vụ bạo loạn chống lại việc đăng tải
biếm họa nhằm vào Hồi giáo đã không giúp cho các cơ quan báo chí châu Âu, nhất
là tờ tuần báo trào phúngCharlie Hebdo, có một bài học cần thiết về
việc “lạm dụng quyền tự do” “gây hại cho người khác”, “lăng mạ tôn giáo”. Trong
các năm 2011, 2013 và 2015, mỗi năm Charlie Hebdođều có một số báo
chuyên biệt đăng tải những bài viết và biếm họa liên quan đến Hồi giáo. Việc
làm đó đã gây nên sự phẫn nộ trong dư luận người theo Hồi giáo. Và ngày
7-1-2015, một số phần tử Hồi giáo quá khích đã tấn công trụ sở tuần báo trào
phúng Charlie Hebdo giữa trung tâm Paris, Pháp.Vụ xả
súng đã khiến 12 người thiệt mạng, trong đó có 5 họa sỹ nổi tiếng của nước
Pháp.
Vụ xả súng ở tòa soạn Charlie
Hebdo rõ ràng là hành động khủng bố cần phải lên án. Nhưng phải chăng
để thực thi quyền tự do báo chí, người ta có thể tự do xúc phạm bất cứ ai, nhất
là lăng mạ những điều thiêng liêng trong niềm tin tôn giáo? Nếu tự do báo chí
cho người này những lại làm tổn hại đến người khác, làm cho người khác không có
tự do, thử hỏi đó có phải là thứ tự do báo chí cần thiết cho con người và xã
hội không?
Ở trong nước, các chính phủ phương Tây
quản lý, sử dụng báo chí truyền thông nhằm phục vụ cho lợi ích và làm đẹp hình
ảnh của họ. Còn đối với các quốc gia bất đồng chính kiến, không ăn cánh hoặc
yếu thế thì họ tìm cách can thiệp hoặc lũng đoạn tình hình bằng thông tin báo
chí. Năm 1950, Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) bắt đầu thực hiện Chương
trình “Kiểm soát nhận thức” (mind control), sử dụng các phương tiện thông tin
báo chí để can thiệp vào nội tình các quốc gia không cùng chính kiến. Theo đó,
họ thành lập và rót tiền cho Đài Châu Á tự do (RFA) để xây dựng các chương
trình phát thanh tiếng địa phương nhằm tuyên truyền chống các nước ở châu Á đi
theo con đường xã hội chủ nghĩa. Cho đến nay, RFA vẫn hoạt động với chương
trình theo 9 thứ tiếng, không chỉ là phát thanh mà còn bằng Internet.
Đài Châu Âu tự do (RFE) được thành lập từ
năm 1949 do Quốc hội Mỹ chu cấp kinh phí hoạt động nhằm chống phá các nước xã
hội chủ nghĩa Liên xô , Đông và Trung Âu trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Ngày
nay, khi Chiến tranh lạnh đã không còn nữa nhưng RFE không những không ngừng mà
còn hoạt động với công suất lớn hơn. Hiện RFE có hai trụ sở ở Praha (Cộng hòa
Séc) và ở Washinhton DC, với các chương trình phát thanh bằng 28 thứ tiếng và
nhằm vào Nga, một số nước ở Trung Á và Nam Á và Trung Đông.
Bằng lực lượng báo chí khổng lồ, ảnh
hưởng rộng khắp toàn thế giới, với sự hỗ trợ mạnh mẽ của tiền bạc và công nghệ
tiên tiến, báo chí Mỹ và phương Tây hầu như chi phối lĩnh vực truyền thông, áp
đặt dư luận xã hội cả thế giới. Và bằng con đường báo chí, Mỹ và phương Tây đã
phát động những cuộc bạo loạn còn được gọi dưới cái tên mỹ miều là những cuộc
“Cách mạng màu” ở một số quốc gia. Vụ Rumania năm 1989 là một ví dụ điển hình
cho việc sử dụng truyền thông báo chí để kích động bạo loạn, lật đổ. Vụ việc
bắt đầu từ thành phố nhỏ Timisoara với 25 vạn dân ở vùng Transylvania, vùng đất
nghèo nhất châu Âu. Trong một cuộc biểu tình của người dân, chủ yếu là cán bộ
công chức và người về hưu đòi chính quyền cải thiện đời sống, một số phần tử
quá khích đập phá các cửa hàng, xe cộ đã bị lực lượng an ninh bắt giữ để duy
trì trật tự. Truyền thông trong nước Rumania chỉ đưa tin đơn giản như một cuộc
gây rối. Vụ việc tưởng như đã yên lặng. Nhưng báo chí phương Tây lập tức vào
cuộc. Mặc dù không chứng kiến sự kiện nhưng báo chí phương Tây đã đưa tin cuộc
biểu tình gây rối ở Timisoara như “một vụ thảm sát đẫm máu”. Đài Châu Âu tự do
mặc dù chỉ “nghe nói” thôi những đã đưa ra số người chết lên đến khoảng từ
4.000 đến 20.000. Đó là một con số chỉ có người đặc biệt giàu trí tưởng
tượng mới có thể nghĩ ra, bởi vì nó lớn hơn nhiều lần số người tham gia biểu
tình.Cùng với đó là một làn sóng nhưng tin giả để bôi nhọ Nicolae
Ceausescu và chế độ đương thời. Và chính thông tin báo chí đã trở thành
mồi lửa cho một đám cháy dữ dội, chất kích thích sự cuồng loạn của những đám
đông vô chính phủ. Kết quả là chỉ hai tuần sau, N. Ceausescu, người có công đưa
đất nước Rumania từ tàn phá và nghèo đói sau chiến tranh trở thành một quốc gia
hòa bình, phát triển, đã bị giết hại một cách hèn hạ. Sau gần 30 năm, Viên đại
úy Ionel Boeru đã tham gia vụ xử bắn N. Ceausescuhối hận: “Cuộc sống của những
người dân nơi đây càng tồi tệ hơn sau khi ông Ceausescu bị lật đổ. Nếu như
những người đó biết tôi là ai thì có lẽ họ sẽ xé xác tôi. Tôi lấy làm tiếc vì
phải nói điều đó… Chúng tôi có nhiều người giàu, nhưng cạnh đó có cả sự bần hàn
cùng cực. Nước chúng tôi thiếu một tầng lớp trung lưu. Dưới thời ông Ceaucescu
cũng có tình trạng làm ăn gian lận, trí trá, nhưng ít lắm, còn bây giờ nạn tham
ô, nhũng nhiễu lan tràn khắp cả nước”[3]. Đương nhiên là những điều như viên đại
úy Ionel Boeru thừa nhận không bao giờ được báo chí phương Tây nhắc tới.
Còn rất nhiều những ví dụ, vô số những bằng
chứng cho sự không khách quan, thái độ thiên vị và những hoạt động phục vụ cho
những âm mưu chính trị của báo chí Mỹ và phương Tây. Mặc dù giới chức chính
quyền và các cơ quan báo chí chính thống không bao giờ công khai thừa nhận
nhưng thực ra không khó gì để người ta có thể nhận ra. Hơn nữa, trong một số
trường hợp, chính những nhân vật có thẩm quyền nhất lại thú nhận cho dù “không
ai khảo”. Tổng thống Mỹ Donal Trum đã gọi một số hãng truyền thông là “rác
rưởi” vì sản xuất “tin tức giả”.Ngày 18/2/2017, ông ta đã viết đoạn tweet rằng:
“Truyền thông tin tức giả (các đơn vị yếu kém nytimes, @NBCNews, @ABC, @CBS,
@CNN) không phải là kẻ thù của tôi, đó là kẻ thù của nhân dân Mỹ!”.
Tóm lại, trả lời “không” cho hai câu hỏi
thực tế đã đặt ra trên đây cũng là dễ hiểu. Bởi bản chất của tự do vốn luôn
luôn là tự do cho ai, tự do vì mục đích gì và tự do trong khuôn khổ nào. Đối
với tự do báo chí cũng vậy. Tự do báo chí cho mọi công dân, vì thỏa mãn nhu cầu
thông tin trao đi và nhận lại và những mục đích tốt đẹp của con người và xã
hội, luôn là điều mong muốn chung của mọi dân tộc, mọi quốc gia. Nhưng tự do
cho mình, cộng đồng mình mà ảnh hưởng xấu đến người khác và cộng đồng khác, đâu
còn là tự do. Bởi vậy, tự do báo chí phải đặt trong khuôn khổ pháp luật và những
quy tắc đạo đức xã hội. Duy trì trong khuôn khổ ấy, trong những quy tắc ấy, báo
chí là động lực thúc đẩy phát triển xã hội, là phương tiện phục vụ tích cực cho
con người. Bỏ qua những khuôn khổ ấy, những quy tắc đạo đức ấy, báo chí rất có
thể trở thành vô chính phủ, vật gây hại với văn hóa và con người, thậm chí trở
thành công cụ chính trị chống phá lẫn nhau giữa cá thế lực, đảng phái, nhà
nước, giữa cá các quốc gia, dân tộc./.
GS.TS Tạ Ngọc Tấn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét