Trong những ngày
cuối tháng 5 vừa qua, những ai có thói quen “lướt Web” - đọc thông tin
trên internet, mạng xã hội thì đều thấy cơ quan chức năng vừa bắt tạm giam hai
kẻ vi phạm pháp luật. Đó là trường hợp blogger “Bà Đầm Xòe - Phạm Thành” (bị
bắt ngày 21/5), do xúc phạm Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và
Nguyễn Tường Thụy (bắt tạm giam vào sáng ngày 23/5/2020) về tội “làm, tàng trữ,
phát tán thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước” (theo Điều 117, Bộ
luật Hình Sự, 2019). Cả hai trường hợp nói trên đều vi phạm pháp luật về quyền
tự do ngôn luận báo chí. Vậy quyền tự do ngôn luận báo chí là gì? Trong bối
cảnh internet, mạng xã hội ngày nay có điều gì cần lưu ý?
Theo nghĩa thông
thường, quyền quyền tự do ngôn luận báo chí được hiểu đó là một quyền con
người, quyền công dân. Về nội dung, đó là quyền của tất cả mọi người trong
việc tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến,
không phân biệt lĩnh vực, hình thức bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới
hình thức nghệ thuật, v.v.
Về nguồn gốc,
quyền tự do ngôn luận báo chí được quy định trong nhiều văn kiện quốc tế và
Việt Nam. Trong Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945, cộng đồng quốc tế đã nhất
trí xem quyền con người bao gồm cả quyền tự do ngôn luận báo chí như là một mục
tiêu. Khoản 3, Điều 1 của Hiến chương quy định “Khuyến khích phát triển sự tôn
trọng các quyền của con người và các tự do cơ bản cho tất cả mọi người không
phân biệt chủng tộc, nam, nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo”. Sau Hiến chương Liên hợp
quốc, “Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (Việt Nam đã
gia nhập năm 1982) quy định cụ thể hơn về quyền này. Tại khoản 2, Điều 19 viết:
“Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp
nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, …”. Như vậy, quyền này bao gồm 3
nội dung cơ bản: 1- Quyền tự do “tìm kiếm” thông tin; 2- Quyền “tiếp nhận” (đọc
và nhận thức, thể hiện quan điểm của cá nhân) thông tin; 3- Quyền “truyền đạt”
mọi thông tin.
Về hình thức
thông tin, Công ước quy định: “không phân biệt lĩnh vực, hình thức bằng
miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật,…”. Khoản 3, Điều
19 quy định “Việc thực hiện những quyền quy định tại khoản 2 điều này kèm theo
những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, việc này có thể phải chịu một
số hạn chế nhất định. Tuy nhiên, những hạn chế này phải được quy định trong
pháp luật và là cần thiết để: “a- Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của
người khác. b- Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc
đạo đức của xã hội”. Điều đáng chú ý là, quy định về hạn chế quyền nhằm “Bảo
vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng” (Khoản b). Từ khoản b của
Công ước 1966, người ta thấy quyền tự do ngôn luận báo chí tuy ở mỗi thể chế xã
hội khác nhau, nhưng việc bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công
cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội…và tôn trọng các quyền hoặc uy tín của
người khác vẫn được cộng đồng quốc tế thừa nhận như một nguyên tắc hạn
chế quyền.
Ở nước ta, quyền
tự do ngôn luận báo chí từng bước được xác lập và ngày càng hoàn thiện. Năm
1945, trước khi Liên hợp quốc ra đời, tháng 10/1945, ngày 2/9/1945, trong Tuyên
ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn lại “Tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền” Pháp, 1791. Trong đó, Người tái khẳng định: “Người ta sinh ra tự do và
bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Như vậy, theo Tuyên ngôn độc lập
1945, mọi người đều có đầy đủ, bình đẳng về các quyền và nghĩa vụ.
Sau Tuyên ngôn
độc lập, Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng quy định: “Công dân
Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận; Tự do xuất bản; Tự do tổ chức và hội họp…”
(Điều 10). Các bản Hiến pháp tiếp nối Hiến pháp 1946, như: Hiến pháp 1959, Hiến
pháp 1980, Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013 đều khẳng định và mở rộng quyền tự
do ngôn luận báo chí.
Công cuộc đổi mới
mở đầu từ Đại hội VI (1986) đã mở ra một thời kỳ phát triển mới của Việt Nam.
Dựa trên Đường lối Đại hội VI, mô hình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa kiểu
mới được thiết lập. Thay cho mô hình kinh tế cũ - kinh tế quan liêu bao
cấp, Đại hội VI quyết định chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành
phần, trong đó có thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản chủ nghĩa. Về
chính trị, mô hình đổi mới, đó là nhà nước pháp quyền, pháp luật tối thượng,
mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
Hiến pháp 2013 đã
dành riêng một chương (Chương II) quy định về Quyền con người, quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân, trong đó Điều 25 nêu rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình”. Đồng
thời, Điều 25 cũng nêu nguyên tắc hạn chế quyền: “Việc thực hiện các quyền này
do pháp luật quy định”.
Luật Báo chí năm
2016 cũng quy định về quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí của
công dân. Điều 13 quy định: “Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công
dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo
chí phát huy đúng vai trò của mình”. Đặc biệt, khoản 3, Điều 13 quy định: “Báo
chí không bị kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng”. Đồng thời,
Luật này cũng quy định: “Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí,
quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân”.
Năm 1989, Quốc
hội thông qua Luật Báo chí năm 1989. Mười năm sau, năm 1999, Quốc hội thông qua
Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí năm 1989. Năm 2016, Luật Báo
chí sửa đổi, bổ sung đã được Quốc hội khóa XIII thông qua (có hiệu lực thi hành
từ ngày 01/01/2017).
Trong điều kiện
internet, mạng xã hội quyền tự do ngôn luận báo chí bao gồm quyền và nghĩa vụ
của cá nhân, cơ quan (báo chí) trên internet, mạng xã hội đã được Quốc hội ta
luật hóa. Luật Tiếp cận thông tin (2016 và Nghị định 72/2013/NĐ-CP,
ngày 15/07/2013) của Chính phủ về Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet
và thông tin trên mạng tái khẳng định định quan điểm nhất quán của
Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do ngôn luận báo chí. Có
thể nói, tiếp cận thông tin là một quyền mới. Quyền tiếp cận thông tin, bao
gồm: Quyền sáng tạo tác phẩm báo chí; Quyền cung cấp thông tin cho báo chí;
Quyền phản hồi thông tin trên báo chí v.v… Như vậy, quyền tiếp cận thông tin không
chỉ là một quyền thụ động (do cơ quan nhà nước công khai thông tin) mà
còn là một quyền chủ động, quyền của người dân được đòi hỏi các cơ
quan, tổ chức nhà nước đáp ứng thông tin.
Tuy nhiên, trên
không gian mạng, Nhà nước ta đã có những quy định về quyền tự do ngôn luận, báo
chí, tiếp cận thông tin và những hạn chế quyền nhất định. Theo đó, công dân có
quyền được sử dụng các dịch vụ trên internet, trừ các dịch vụ bị cấm theo quy
định của pháp luật và có nghĩa vụ tuân thủ các quy định về bảo đảm an toàn
thông tin, an ninh thông tin; phải chịu trách nhiệm về nội dung thông tin do
mình lưu trữ, cung cấp, truyền đưa trên mạng xã hội, v.v.
Trên môi trường
internet, mạng xã hội, một số kẻ nghĩ rằng trên thế giới ảo thì sự vi phạm pháp
luật của chúng có thể bị các cơ quan chức năng bỏ qua. Hai trường hợp bị cơ
quan chức năng bắt vừa qua là những trường hợp vi phạm pháp luật trên internet,
mạng xã hội. Điều 16, Luật An ninh mạng quy định về tội: a) Xúc phạm nghiêm
trọng danh dự, uy tín, nhân phẩm của người khác; b) Thông tin bịa đặt, sai sự
thật xâm phạm danh dự, uy tín, nhân phẩm hoặc gây thiệt hại đến quyền và lợi
ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Chứng cứ mà các cơ quan chức
năng thu thập được là các thông tin ở các tài khoản của chúng trên internet,
cũng như những tài liệu còn được lưu giữ trên máy tính và điện thoại di động mà
chúng đang sử dụng. Phân tích hai trường hợp vừa bị bắt cho thấy, đây là những
kẻ đã từng nhiều lần vi phạm pháp luật. Hơn nữa, chúng vốn là những kẻ chống
phá chế độ đã lợi dụng xã hội đang tập trung vào chống đại dịch Covid để phát
tán thông tin xấu độc để thực hiện mưu đồ của mình.
Nói như một
blogger, cái sai “chết người” của Phạm Thành và Nguyễn Tường Thụy ở đây là:
Chúng đã xúc phạm nhân phẩm, danh dự Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, trên cả hai
phương diện: 1- Là một công dân Việt Nam (được pháp luật bảo vệ); 2- Trên cương
vị Tổng Bí thư, Chủ tịch nước được toàn Đảng, toàn dân kính trọng, tín nhiệm,
đương nhiên cũng được thể chế xã hội bảo vệ. Mặt khác, chúng còn soạn thảo và
tàng trữ nhiều tài liệu xấu độc, chuẩn bị tán phát trên không gian điện tử.
Việc hai blogger của Đài Á Châu Tự Do: Phạm Thành và Nguyễn Tường Thụy bị bắt
và xử lý là đúng với các quy định của pháp luật Việt Nam.
Nguồn TCQPTD
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét