Thứ Tư, 19 tháng 8, 2020

KHÔNG ĐỂ XÃ HỘI BỊ THÔNG TIN XẤU ĐỘC LUNG LẠC

 Những thông tin nhân sự cấp cao trong Đại hội XIII của Đảng sắp tới, vấn đề chống tham nhũng, tranh chấp trên Biển Đông… luôn được các thế lực phản động triệt để lợi dụng để xuyên tạc, bẻ cong, bóp méo.

Có lẽ chưa bao giờ “thị trường” không gian mạng lại sôi nổi như bây giờ. Các trang website, blog, đưa lên facebook, diễn đàn… đua nhau mọc lên như nấm sau mưa. Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị triệt để lợi dụng không gian mạng để chống phá Đảng, Nhà nước ta bằng nhiều thủ đoạn tinh vi và xảo quyệt, đưa tin thất thiệt, thật giả lẫn lộn, dẫn đến tâm lý hoang mang, nghi ngờ, phân tâm trong xã hội. Những thông tin xấu độc trên không gian mạng luôn tạo ra cơ hội cho các thế lực thù địch tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá, gây mất ổn định chính trị, kinh tế-xã hội ở nhiều địa phương, không chỉ những đô thị lớn mà nó còn len lỏi về tận những vùng nông thôn.

Những chiêu trò tuyên truyền, xuyên tạc, kích động chống phá Đảng, Nhà nước của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị diễn ra ở nhiều nơi, nhiều thời gian và không gian khác nhau. Đặc biệt, trong những thời điểm các tổ chức đảng đang tích cực chuẩn bị đại hội ở cấp mình, theo Chỉ thị số 35-CT/TƯ ngày 30-5-2019 của Bộ Chính trị “Về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”, thì chúng tung tin giả, xuyên tạc, kích động, xuyên tạc sự thật, cho rằng “các phe cánh trong Đảng đang thanh trừng lẫn nhau”, “trong Đảng không có dân chủ nên cần phải đa đảng…”. Họ lợi dụng tâm lý cực đoan, định kiến của một bộ phận dân chúng để hằng ngày tán phát lên mạng nhiều thông tin sai sự thật; bình luận, nhìn nhận vấn đề có thật một cách méo mó, theo hướng có lợi cho mục đích, mưu đồ của họ. Thủ đoạn mà họ thông tin thường là lợi dụng những sơ hở, thiếu sót trong quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội rồi thổi phồng, cắt ghép theo ý đồ có sẵn; lấy hiện tượng quy kết thành bản chất, thật giả lẫn lộn, xuyên tạc sự thật vào những sự kiện, những diễn biến, những động thái có thật, bằng những kỹ xảo tinh vi của công nghệ, tạo dựng chuyện bằng cách lắp ghép, trích dẫn, cắt xén các lời phát ngôn, bài viết, hình ảnh… gây nhiễu loạn thông tin, làm cho người đọc, xem thiếu kinh nghiệm dễ lầm tưởng, khó phân biệt, nhận diện thật-giả, đúng-sai. Từ đó, đánh giá không đúng bản chất sự kiện, nhân vật. Hoạt động chống phá của các thế lực thù địch suy cho cùng là nhằm chia rẽ Đảng với nhân dân, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, chống “tự chuyển hóa”, “tự diễn biến” trên không gian mạng thì chúng ta còn bộc lộ những hạn chế. Chẳng hạn, một số sự việc đã bị kẻ xấu lợi dụng, lan truyền, nhưng ta chưa kịp thời có biện pháp đấu tranh, ngăn chặn; hoặc chưa kịp thời cung cấp thông tin chính thống để định hướng dư luận. Hình thức đấu tranh vẫn chủ yếu là chia sẻ các bài viết trên mạng, tần suất các bài viết đấu tranh trực diện chưa nhiều, thông tin chưa có chiều sâu, còn nặng về lý thuyết, giáo điều, tính thuyết phục hạn chế, nên chưa tạo được sự chú ý rộng rãi và sức lan tỏa trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, trong cộng đồng xã hội.

Để tin xấu, độc không còn đất sống, trước hết, cán bộ, đảng viên và nhân dân cần nhận diện rõ thông tin xấu, độc, ngăn chặn sự tác động của nó vào đời sống chính trị, tinh thần của cộng đồng xã hội. Cần cảnh giác cao độ với tính nguy hiểm mặt trái của mạng xã hội. Tuy nhiên, sự suy thoái, tha hóa của một bộ phận cán bộ, đảng viên cũng là sự tiếp sức cho sự chống phá của các thế lực thù địch. Bởi vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng với tinh thần “Không có vùng cấm, không có ngoại lệ” ở tất cả cơ quan, tổ chức, đơn vị. Sự chống phá của các thế lực thù địch sẽ không có đất sống nếu Đảng, Nhà nước và nhân dân ta có sức đề kháng tốt. Người dân sẽ không tin khi biết rõ thông tin và hiểu được âm mưu, thủ đoạn của thế lực thù địch, cơ hội chính trị. Còn nếu chúng ta không định hướng tốt, để tâm lý, tư tưởng trong cộng đồng xã hội bị lung lạc, thì sự chống phá của các thế lực thù địch sẽ càng có thêm cơ hội.

Vì vậy, bên cạnh việc nâng cao hiệu quả tuyên truyền, Đảng và Nhà nước cần chủ động công khai, minh bạch thông tin những chủ trương chính sách trong giải quyết các vấn đề, nhất là những vấn đề có tính nhạy cảm. Các phương tiện tuyên truyền của Đảng, Nhà nước cần chủ động, kịp thời, phản ánh rõ các sự kiện, sự việc theo hướng tích cực, đúng sự thật. Tuyệt đối không để công chúng hoài nghi về công tác truyền thông và cũng không để những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc tự tung, tự tác mà không bị phản bác. Thực tiễn cho thấy, để tạo thuận lợi cho việc chống tin giả, cần củng cố, xây dựng một nền báo chí và truyền thông xã hội dân chủ, nhân văn, chuyên nghiệp và hiện đại. Thông tin càng cởi mở, việc kết nối thông tin trong xã hội tới mọi người dân luôn thông suốt, chúng ta càng có điều kiện để phòng, chống tin giả, tin xấu độc, bảo đảm thông tin chính thống giữ vững vai trò làm chủ, định hướng dư luận.

HOÀNG QUÝ LÊ
Theo qdnd.vn

KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC NHỮNG GIÁ TRỊ LỊCH SỬ CỦA TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP

 Cách đây 75 năm, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập trước toàn thể dân tộc Việt Nam và cộng đồng quốc tế, khai sinh ra chế độ xã hội mới cùng với sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, mở ra một thời đại mới cho dân tộc ta – thời đại độc lập dân tộc gắn với những giá trị cao cả nhất của nhân loại. Đó là tự do, bình đẳng, bác ái gắn với hòa bình và tình hữu nghị giữa các dân tộc.

Trên 2/3 thế kỷ, kể từ khi bản Tuyên ngôn độc lập ra đời, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc ta đã bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, xây dựng đất nước hướng tới mục tiêu dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Thế nhưng trong những ngày mùa thu năm nay, lợi dụng internet, mạng xã hội, các thế lực thù địch trong và ngoài nước, những phần tử thoái hóa về tư tưởng chính trị đã tải lên mạng những bình luận xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ chế độ nhằm chuyển hóa chế độ ta sang con đường “dân chủ, nhân quyền” ngoại nhập.

Họ viết: “Cách mạng tháng Tám là “ăn cướp” chính quyền từ tay chính phủ Trần Trọng Kim”. Gần đây, còn có kẻ tải lên mạng mà chúng gọi là “nỗi buồn mùa thu”, nuối tiếc chính phủ Trần Trọng Kim với bản Tuyên ngôn độc lập của “Nước đế quốc Việt Nam” cùng với “Hoàng đế Bảo Đại” (!).

Có kẻ còn viết rằng, Chủ nghĩa Mác-Lênin và Cách mạng tháng Tám đã đưa dân tộc vào các cuộc chiến tranh “huynh đệ tương tàn”… Thực là, chỉ có những kẻ tâm thần về chính trị khi ngày nay vẫn đặt bút, gõ phím viết và tải lên mạng những nội dung kỳ quặc rằng trong chế độ Trần Trọng Kim vẫn có “Hoàng đế” và niềm tự hào dân tộc là “quốc gia đế quốc” (!?).

Trong bản Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích lại 2 bản tuyên ngôn có ý nghĩa thời đại. Đó là Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp,  năm 1789.

Lịch sử cho thấy, những lực lượng cầm quyền ở hai nền dân chủ đó đã đi ngược lại các giá trị hai bản tuyên ngôn nói trên. Họ chẳng những không chia sẻ giá trị dân chủ với các dân tộc khác mà trái lại đã phản bội lại những lý tưởng đó. Các cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp (1945-1954) và đế quốc Mỹ (1954-1975) nhằm tạo dựng chế độ độc tài tàn bạo cho thấy rõ điều đó.

Trong  90 năm qua (1930-2020), đi theo con đường của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn trung thành với mục tiêu độc lập dân tộc, xây dựng chế độ xã hội XHCN. Ngay sau khi giành được chính quyền trong cả nước, trong điều kiện thù trong giặc ngoài, Đảng ta đã chỉ đạo tiến hành tổng tuyển cử trong cả nước xây dựng Nhà nước theo mô hình “dân chủ, cộng hòa”, trao quyền lại cho toàn dân, theo nguyên tắc chính quyền các cấp, từ cơ sở đến Trung ương đều do nhân dân bầu ra, đại diện cho quyền và lợi ích của đại đa số nhân dân.

Do nhiều nguyên nhân, trong một vài thời kỳ lịch sử, một số quyền con người (QCN) của nhân dân ta đã bị một số hạn chế. Chẳng hạn trong thời kỳ chiến tranh, Nhà nước ta không thể tiến hành các cuộc bầu cử theo luật định để bảo đảm quyền bầu cử và ứng cử của nhân dân. Trong thời kỳ trước đổi mới theo mô hình cũ của CNXH với nền kinh tế kế hoạch hóa, các thành phần kinh tế tư nhân và kinh tế thị trường bị kỳ thị, do đó các quyền về chính trị, nhất là về kinh tế, trong đó có quyền lựa chọn thành phần kinh tế của người dân không được bảo đảm. Những khiếm khuyết này đã được khắc phục trong mô hình xã hội XHCN kiểu mới, mở đầu từ Đại hội VI, 1986.

Có thể nói, cho đến nay lý tưởng của bản Tuyên ngôn độc lập, 1945 đã được hiện thực hóa trong chế độ dân chủ XHCN với những đặc trưng dân tộc, đồng thời mang giá trị thời đại. Đó là:

1 – “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.

Là một quốc gia nằm ở một trong những đại bản địa – chính trị quan trọng bậc nhất khu vực Đông Nam Á và thế giới, Việt Nam luôn luôn phải ứng phó với tham vọng về lãnh thổ và chiến lược cạnh tranh chính trị, kinh tế giữa các nước lớn ở Biển Đông.

 Từ kinh nghiệm lịch sử, Việt Nam phải ứng phó bằng chiến lược chính trị- quân sự, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa với tinh thần và ý chí “kiên trì, kiên quyết” giữ gìn hòa bình và chủ quyền quốc gia trên đất liền, trên biển, trên không và trên không gian mạng. Tuy nhiên tinh thần yêu nước, ý thức về độc lập dân tộc không phải một dạng của chủ nghĩa dân túy giả danh, tham vọng về lãnh thổ hoặc áp đặt về chế độ chính trị của dân tộc mình cho dân tộc khác.

Nhà nước CHXHCN Việt Nam ngày nay là một thành viên có trách nhiệm của Liên hợp quốc, luôn tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế.

2 – Yêu chuộng hòa bình, thủy chung với bạn bè quốc tế

Yêu chuộng hòa bình là một truyền thống của dân tộc. Tuyên ngôn độc lập năm 1945 đã phát triển truyền thống đó trong bối cảnh của thời đại mới, đó là yêu chuộng hòa bình, thủy chung với bạn bè gần xa trong cộng đồng quốc tế, không phân biệt chế độ chính trị, ý thức hệ; gác lại quá khứ, hướng tới tương lai.

Cho đến nay tất cả các quốc gia đã từng phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam đều đã trở thành bè bạn, đối tác chiến lược, có nước đã trở thành đối tác toàn diện của Việt Nam.

Ngày nay, Việt Nam thực hiện chính sách quân sự “ba không”. Đó là “không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia. Với chính sách này, các nước láng giềng gần xa không lo sợ Việt Nam có thể có hành động nào đó làm phương hại đến lợi ích quốc gia của họ.

Đây cũng là thông điệp với các nước lớn: Việt Nam không phải là “con bài” mà họ có thể lợi dụng vì lợi ích của họ. Tuy nhiên chính sách này không cản trở Việt Nam trở thành bạn bè, đối tác chiến lược và đối tác toàn diện trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong bối cảnh quốc tế và khu vực đang diễn ra phức tạp, nhanh chóng, chiến lược Bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta ngày nay chỉ rõ việc kết hợp chặt chẽ giữa phương thức đấu tranh phi vũ trang với đấu tranh vũ trang khi cần thiết để không bị động bất ngờ. Đó là chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ xa, chủ động đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” và phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Nhạy bén, linh hoạt trong xác định “đối tác” và “đối tượng”, Nghị quyết TW 8 (khóa IX) của Đảng ta xác định: “Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta”(1).

Quan điểm về “đối tác” và “đối tượng” kết hợp với chính sách quốc phòng “ba không” là sự hoàn thiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta trong bối cảnh chính trị quốc tế và khu vực hiện nay.

3- Tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân (QCN, QCD)

QCN là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử nhân loại, là giá trị cao quý chung của các dân tộc. Ngày nay QCN được xem như là một thước đo của sự tiến bộ và trình độ văn minh của các xã hội, không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển và bản sắc văn hóa.

Lịch sử cho thấy, sau 169 năm kể từ khi có bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ (1776), 156 năm ra đời bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp (1789), nhân dân các nước thuộc địa nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng (trước 1945) vẫn phải sống kiếp nô lệ – sống dưới ách thống trị của thực dân, phong kiến.

Không quốc gia TBCN nào thật sự chia sẻ giá trị nhân quyền cho dân tộc ta cũng như các dân tộc thuộc địa khác. QCN và quyền công dân của dân tộc Việt Nam chỉ ra đời từ khi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo giành được thắng lợi vào năm 1945.

Trong Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trân trọng trích dẫn hai văn kiện: Tuyên ngôn độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp rồi suy ra “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Bởi vậy có thể nói Tuyên ngôn độc lập năm 1945 là bản Tuyên ngôn kép – Tuyên ngôn độc lập của dân tộc Việt Nam và Tuyên ngôn về QCN của các dân tộc thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc.

Sự khác biệt về QCN của dân tộc ta không chỉ về thời điểm ra đời mà còn về tiền đề, tính chất và nội dung của các quyền. Tiền đề của QCN của dân tộc ta (và cũng là của các dân tộc bị áp bức nói chung) là độc lập dân tộc. Không có độc lập dân tộc thì không thể có QCN. Gắn liền với tiền đề này là một chế độ xã hội của dân, do dân và vì dân.

Chế độ đó không chỉ xây dựng một lần là mãi mãi giữ được bản chất của nó mà phải thường xuyên đấu tranh chống suy thoái bằng nhiều biện pháp. Vì quy luật chung của các chế độ xã hội, nhà nước, cho dù dựa trên ý thức hệ nào cũng có xu hướng quan liêu hóa.

Chống suy thoái, bảo vệ QCN quyền công dân bằng pháp luật là một nội dung tư duy chính trị mới của Đảng ta. Hiến pháp 2013, lần đầu tiên các QCN, quyền và nghĩa vụ công dân đã được Quy định trong chương II. Nội dung các quy định về quyền và nghĩa vụ, những hạn chế quyền trong Hiến pháp 2013 hoàn toàn tương thích với các Công ước quốc tế về QCN của Liên hợp quốc.

Nhiều QCN được xem là nhạy cảm, phức tạp của người dân trong bối cảnh xuất hiện Internet, mạng xã hội cũng đã được luật hóa, trên cơ sở vừa bảo đảm QCN vừa bảo vệ chế độ xã hội. Thể chế hóa Hiến pháp 2013, thời gian qua, Quốc hội ta đã sửa đổi và xây dựng nhiều luật trên cơ sở bảo đảm QCN gắn với bảo vệ chế độ xã hội  như Bộ luật Hình sự 2015; Luật Báo chí, 2016; Luật Tiếp cận thông tin, 2016; Nghị định của Chính phủ về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet năm 2013…

Có thể nói, trong lịch sử tư tưởng Việt Nam và lịch sử tư tưởng nhân loại, hiếm có một văn kiện chính trị nào lại tích hợp ở đỉnh cao tinh hoa trí tuệ, đồng thời mạng giá trị bền vững như bản Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo và công bố vào ngày 2-9-1945. 73 năm qua, ở những bước ngoặt của cách mạng, người ta đều tìm thấy mục tiêu và sự khích lệ từ Tuyên ngôn độc lập.

Chặng đường đổi mới phía trước của dân tộc ta dưới sự lãng đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục đi theo lý tưởng của Tuyên ngôn độc lập và nhất định sẽ đem lại những thành tựu mới.

BẢO ĐẢM TỰ DO NGÔN LUẬN, TỰ DO BÁO CHÍ CHO ĐẠI ĐA SỐ NGƯỜI DÂN

Tự do ngôn luận, tự do báo chí là những quyền cơ bản của con người đã được Việt Nam cam kết thực hiện theo những nguyên tắc chung của Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền. Tuy nhiên, đây cũng là vấn đề nhạy cảm mà các thế lực thù địch, phản động, bất mãn chính trị thường lợi dụng để chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN).

1. Những năm gần đây, vào dịp Ngày Tự do báo chí thế giới (3-5) hằng năm, hay kỷ niệm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21-6), trên nhiều trang mạng có nội dung xấu độc và trên trang tiếng Việt của một số cơ quan truyền thông nước ngoài thiếu thiện chí với Việt Nam thường xuất hiện các ý kiến, bài viết xuyên tạc tình hình tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam. Trong đó, cái gọi là “Tổ chức phóng viên không biên giới” không những đưa ra bảng xếp hạng hết sức sai trái về tự do báo chí ở Việt Nam, mà còn công bố danh sách và trao giải thưởng “Anh hùng thông tin” cho một số đối tượng người Việt Nam đã lợi dụng tự do, dân chủ chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam. “Tiền hô hậu ủng” cho tổ chức phi chính phủ này là những đối tượng được dán mác “nhà đấu tranh dân chủ, nhân quyền”, “nhà báo tự do” trong nước tung ra nhiều bài viết, phát ngôn xuyên tạc trắng trợn tình hình tự do báo chí của Việt Nam.

Không chỉ vậy, vào những thời điểm các cơ quan chức năng, bảo vệ pháp luật của Việt Nam khởi tố vụ án, khởi tố các đối tượng lợi dụng tự do, dân chủ tuyên truyền, chống phá chính quyền Nhà nước, thì các thế lực thù địch bên ngoài và những người còn thù hằn với chế độ lại rêu rao đó là “hành động bóp nghẹt tự do ngôn luận”, “triệt tiêu quyền tự do báo chí”, hoặc “ra sức ngăn cản những người bất đồng chính kiến”…

Tự do ngôn luận, tự do báo chí là những quyền cơ bản của con người đã được Việt Nam cam kết thực hiện theo những nguyên tắc chung của Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền. Ảnh: TTXVN.

2. Là quốc gia thành viên có trách nhiệm của Liên hợp quốc, Việt Nam đã sớm tham gia, ký kết các điều ước quốc tế về bảo đảm các quyền cơ bản của con người và quyền công dân, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bản Hiến pháp đầu tiên được Quốc hội thông qua ngày 9-1-1946 đã hiến định tại Điều thứ 10: “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận; tự do xuất bản; tự do tổ chức và hội họp; tự do tín ngưỡng; tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”. Những quyền cơ bản này đã được hiến định xuyên suốt trong các bản hiến pháp của Việt Nam và tiếp tục được hiến định tại Điều 25 Hiến pháp năm 2013: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.

Để bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ngày càng được hiện diện trong thực tiễn cuộc sống, năm 2016, Quốc hội Việt Nam đã ban hành Luật Tiếp cận thông tin và Luật Báo chí. Trong đó, Điều 3 Luật Tiếp cận thông tin quy định: Mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin; thông tin được cung cấp phải chính xác, đầy đủ; việc cung cấp thông tin phải kịp thời, minh bạch, thuận lợi cho công dân; Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để người khuyết tật, người sinh sống ở khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn thực hiện quyền tiếp cận thông tin. Điều 10 của luật này cũng quy định công dân có quyền tự do tiếp cận thông tin được cơ quan nhà nước công khai, đồng thời được yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông tin.

Về quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân được quy định tại Điều 11 Luật Báo chí năm 2016 với 3 nội dung cụ thể, gồm: Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức và cá nhân. Đặc biệt, Điều 13 luật này nêu rõ: “Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình; báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân; báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng”.

Như vậy, về mặt pháp lý, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin của công dân ở Việt Nam đã được quy định toàn diện, đầy đủ, với những nội dung cụ thể, dễ hiểu, dễ áp dụng, dễ thực hiện trong cuộc sống.

3. Trên thực tế, không riêng ở Việt Nam, mà hầu hết các quốc gia tuy có cách tiếp cận không giống nhau về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, nhưng đều có một nguyên tắc cơ bản là việc thực thi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí phải phù hợp với tình hình, điều kiện lịch sử, văn hóa, trình độ dân trí, thể chế chính trị của mỗi nước và không được phép lợi dụng quyền cơ bản này để xâm hại lợi ích quốc gia-dân tộc, làm phương hại danh dự, nhân phẩm người khác và ảnh hưởng tiêu cực đến đạo đức cộng đồng, trật tự xã hội. Điều 11, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1789 của nước Pháp đã quy định: “Tự do trao đổi suy nghĩ và ý kiến là một trong những quyền quý giá nhất của con người. Vì thế, bất kỳ công dân nào cũng có thể nói, viết và công bố tự do; tuy nhiên, họ sẽ chịu trách nhiệm nếu lạm dụng quyền tự do này theo quy định của pháp luật”. Nước Mỹ tuy không ban hành luật riêng về báo chí, nhưng có nhiều điều luật khác của quốc hội, quy định có tính pháp lý của tòa án cũng đưa ra những giới hạn nhất định đối với báo chí, đối với quyền và trách nhiệm của công dân liên quan đến báo chí nhằm tránh xâm hại đến an ninh quốc gia. Khoản 2, Điều 29 Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền năm 1948 nêu rõ: “Trong khi hành xử những quyền tự do của mình, ai cũng phải chịu những giới hạn do luật pháp đặt ra nhằm bảo đảm những quyền tự do của người khác cũng được thừa nhận và tôn trọng, những đòi hỏi chính đáng về đạo lý, trật tự công cộng và an lạc chung trong một xã hội dân chủ cũng được thỏa mãn”.

Thế giới từng có những bài học về việc báo chí đi quá giới hạn tự do cho phép, nên phải giá rất đắt. Tháng 9-2005, tờ báo Jyllands-Posten (Đan Mạch) đăng tải 12 bức tranh biếm họa về đấng tiên tri Muhammad của Hồi giáo. Sau đó, bức tranh biếm họa này tiếp tục xuất hiện trên nhiều tờ báo ở Pháp, Na Uy, Hà Lan, Italy, Tây Ban Nha. Vụ việc đã gây nên một làn sóng phẫn nộ mạnh mẽ của những người theo đạo Hồi trên toàn thế giới dẫn đến nhiều hậu quả xấu. Tháng 7-2011, tờ News of the World (Tin tức thế giới) của nước Anh đã phải đình bản vĩnh viễn sau 168 năm hoạt động vì bị công chúng cáo buộc nhiều phóng viên bản báo này đã đột nhập điện thoại của hàng nghìn người dân để “săn tin”. Nhắc lại hai ví dụ trên để thấy, trên thế giới không có quốc gia nào cho phép tự do báo chí, tự do ngôn luận “đứng trên, đứng ngoài” luật pháp và xâm hại đến an ninh quốc gia. Nếu vi phạm điều này, báo chí sẽ bị công chúng tẩy chay và bị những chế tài xử lý thích hợp.

4. Mọi quyền tự do, trong đó có tự do ngôn luận, tự do báo chí đều phải có giới hạn nhất định. Giới hạn này đặt ra để bảo đảm quyền tự do chính đáng cho số đông mọi người, chứ không phải cho một nhóm ít người nào đó nói năng bừa bãi, phát ngôn bạt mạng, thích gì viết đấy, nói và viết chỉ vì động cơ cá nhân ích kỷ, thiên vị mà không vì sự ổn định, đồng thuận chung của xã hội, cộng đồng.

Chẳng hạn như trong đợt đại dịch Covid-19, nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam không chỉ đối mặt với loại virus nguy hiểm này, mà còn phải đối mặt với vấn nạn tin giả tràn lan trên mạng xã hội. Phần lớn những tin giả này xuất phát từ những người lợi dụng tự do ngôn luận để lan truyền thông tin sai trái, thất thiệt, tác động tiêu cực đến dư luận xã hội và an ninh truyền thông. Do đó, ngăn chặn, xử lý những đối tượng gây ra nạn “hoang tin” trên mạng xã hội chính là góp phần bảo đảm sự trong sạch của môi trường thông tin, qua đó góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Thành công của Việt Nam trong công tác phòng, chống, kiểm soát đại dịch Covid-19 được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, có một phần bắt nguồn từ việc Đảng, Nhà nước Việt Nam và các cấp, các ngành đã làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền, tạo sự đồng thuận cao trong các tầng lớp nhân dân; đồng thời phát hiện, ngăn chặn kịp thời những thông tin sai trái về dịch bệnh trên mạng xã hội.

Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn xác định việc bảo đảm, thực thi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam là một trong những giải pháp quan trọng để khơi dậy, phát huy ý chí, nguyện vọng, trí tuệ, sức mạnh tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Mặt khác, trong quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam luôn có tinh thần cầu thị, tích cực tiếp thu, học hỏi, tham khảo những kinh nghiệm tiến bộ của các quốc gia khác để thực hiện ngày càng tốt hơn quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí cho đại đa số người dân.

Để bảo đảm quyền lợi, tự do chính đáng cho số đông công dân, chúng ta cũng không chủ quan, lơ là, mà phải luôn đề cao cảnh giác, tỉnh táo nhận diện, kiên quyết vạch trần, kịp thời bác bỏ mọi âm mưu của các thế lực thù địch, phản động, bất mãn chính trị cố tình lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí nhằm đưa ra những thông tin sai trái, xuyên tạc, tác động tiêu cực dư luận xã hội, xâm hại an ninh truyền thông quốc gia, chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam.

PHÚC NỘI

                                                                                  Theo Báo điện tử Quân đội Nhân dân 

HÀNH ĐỘNG “NÉM ĐÁ GIẤU TAY” VÀ CUỘC ĐẤU TRANH VỚI “ĐỊCH BÊN TRONG TA”

 

Cứ mỗi dịp diễn ra đại hội đảng các cấp, đơn thư nặc danh, mạo danh, thông tin lan truyền về công tác nhân sự đại hội lại rộ lên.

Điều rất đáng bàn là nhiều thông tin sai trái, xuyên tạc xuất phát từ động cơ không trong sáng, “ném đá giấu tay”; tiềm ẩn nguy cơ chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết; cán bộ, đảng viên và quần chúng dễ nảy sinh tư tưởng nghi ngờ, đố kỵ, thậm chí gây hoang mang, lo lắng. Đấu tranh mạnh mẽ xua tan “đám mây mù” làm thanh sạch bầu không khí thông tin không chỉ là trách nhiệm chính trị của từng tổ chức và mỗi người, mà còn là yếu tố cơ bản để tổ chức đại hội thành công…

“Địch bên trong ta đáng sợ hơn”

Theo Từ điển Thành ngữ và Tục ngữ Việt Nam do Nhà xuất bản Văn hóa phát hành năm 1997 thì thành ngữ “ném đá giấu tay” chỉ hành động “làm những việc độc ác một cách lén lút không dám công khai, cố tỏ ra không liên quan gì đến hậu quả của nó”. Những kẻ “ném đá giấu tay” hay “ném đá” rồi giấu mặt, hoặc xúi giục người khác “ném đá” thay mình thường đứng đằng sau cổ xúy, bơm thổi, khuếch tán… Mục đích của họ là làm cho người khác ngộ nhận về những thông tin sai trái, xuyên tạc, qua đó hướng lái dư luận theo ý đồ, động cơ không trong sáng của một hoặc nhóm người.

Xuyên tạc, gây nhiễu thông tin, phá hoại tổ chức theo kiểu “ném đá giấu tay” không chỉ là những đối tượng phản động, thù địch với Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ xã hội chủ nghĩa mà trong bài viết này, chúng tôi tập trung vào đối tượng là cán bộ, đảng viên, hoặc những phần tử thoái hóa biến chất, cơ hội có nhận thức, hành động sai trái trên.

Qua các kỳ đại hội đảng trước đây, cũng như diễn biến gần đây cho thấy, những người có hành vi “ném đá giấu tay” tiến hành với nhiều chiêu thức, thủ đoạn, ngày càng tinh vi để bôi nhọ, xuyên tạc về công tác nhân sự. Họ thường lôi kéo, mua chuộc, xúi giục những người bất mãn, nhẹ dạ, hoặc đang có mâu thuẫn, xung đột trong nội bộ để kích động, tuyên truyền, xuyên tạc thông tin. Họ lợi dụng công nghệ thông tin, mạng xã hội, dưới nhiều danh nghĩa hoặc mạo danh, nặc danh để đăng tải những tài liệu dưới dạng “kiến nghị”, “thư ngỏ”, “tâm thư”, lồng vào đó là nội dung tố cáo người này, người khác, nhất là những người dự kiến quy hoạch nhân sự của khóa mới. Cũng có thể chỉ với một chiếc điện thoại, máy tính, họ núp bóng để tán phát thông tin tới cơ quan chức năng, các tổ chức, cá nhân liên quan gây nên các “đám mây mù”, nhiễu loạn thông tin, chia rẽ nội bộ, nghi ngờ trong quần chúng, hòng phá hoại sự thành công của đại hội. Điều này được Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) chỉ rõ: “Lợi dụng và sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, gây chia rẽ nội bộ, nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân”.

Thủ đoạn, luận điệu xuyên tạc mà các đối tượng “ném đá giấu tay” hay sử dụng thường là: Tung tin thất thiệt, xuyên tạc về phẩm chất, đạo đức, lối sống cán bộ; phán xét về trình độ năng lực, chuyên môn cán bộ thông qua việc khoét sâu những hạn chế, khuyết điểm ở những lĩnh vực mà cán bộ đó phụ trách, hoặc công việc cụ thể theo kiểu “bới lông tìm vết”, “bé xé ra to”, thậm chí “đổi trắng thay đen”, dựng chuyện để hạ thấp uy tín; bịa đặt về tình hình sức khỏe, các quan hệ xã hội, gia đình, thậm chí bới móc chuyện riêng tư để bôi nhọ hoặc kê kích, cường điệu hóa…

Ở trong nội bộ cơ quan, đơn vị có những người mang thói “ném đá giấu tay” sẽ làm tiềm ẩn nguy cơ chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết; cán bộ, đảng viên và quần chúng dễ nảy sinh tư tưởng nghi ngờ, đố kỵ, thậm chí có thể gây hoang mang, lo lắng, nhất là vào thời điểm tổ chức đại hội đảng các cấp.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới công tác xây dựng nội bộ, bồi dưỡng đạo đức, tư cách cán bộ, đảng viên. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Người đề cập hàng loạt chứng bệnh và mỗi chứng bệnh là một kẻ địch. Người phân tích sâu sắc: “Mỗi kẻ địch bên trong là một bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra”. Nguồn gốc bắt nguồn từ “bệnh cá nhân”: “Tất cả đều vì cá nhân, vì gia đình mình, vì phe nhóm mình… Mắc những căn bệnh đó là do “kém tính Đảng”, mắc một trong những bệnh đó “là hỏng việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định.

Trung tướng Nguyễn Quốc Thước, nguyên Tư lệnh Quân khu 4 đã nói với chúng tôi: Ông từng chứng kiến trong chiến tranh, kẻ thù đã tung tin đích danh vị chỉ huy cấp cao của ta đầu hàng, hay tuyên truyền, nói xấu cán bộ, hòng làm cho bộ đội ta hoang mang. Tuy nhiên, khi ấy kỷ luật chiến trường rất nghiêm nên những luận điệu ấy luôn thất bại. Giờ đây, khi khoa học-công nghệ phát triển thì thông tin xấu tác động và lây lan rất nhanh. Nguy hiểm hơn khi thông tin ấy lại phát nguồn từ nội bộ, từ những người có hành vi “ném đá giấu tay”. Vì thế chúng ta phải có biện pháp mạnh, xử lý nghiêm những vi phạm cả về đạo lý và pháp lý đó.

Làm thanh sạch bầu không khí đại hội

Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng là đợt sinh hoạt chính trị quan trọng, phải được chuẩn bị và tiến hành chặt chẽ, nghiêm túc, trong đó nội bộ ổn định, đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động là yếu tố có tính quyết định tới thành công đại hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Đại hội Đảng rất quan hệ đến tương lai cách mạng của Đảng ta và của nhân dân ta. Đại hội sẽ làm cho Đảng ta đã đoàn kết càng đoàn kết hơn nữa, tư tưởng và hành động đã nhất trí, càng nhất trí hơn nữa. Cho nên, toàn thể đồng chí ta phải thảo luận kỹ càng các đề án và đóng góp ý kiến dồi dào, để đảm bảo Đại hội thành công thật tốt đẹp”.

Để chuẩn bị cho đại hội đảng các cấp, nhất là công tác nhân sự, Trung ương đã có các chỉ thị, hướng dẫn chặt chẽ và toàn diện. Kết luận số 55-KL/TW ngày 15-8-2019 của Ban Bí thư về việc tiếp tục chấn chỉnh công tác cán bộ để chuẩn bị tốt nhân sự đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội XIII của Đảng, nhấn mạnh: Chủ động phòng ngừa, cảnh giác, ngăn chặn, đấu tranh, không để tác động, chi phối bởi những thông tin giả, thông tin không chính thức, xấu độc, có dụng ý bịa đặt, xuyên tạc, gán ghép trên internet, mạng xã hội liên quan đến công tác chuẩn bị nhân sự.

Trong cuộc họp Tiểu ban Nhân sự Đại hội XIII ngày 19-3 vừa qua, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tiếp tục chỉ đạo: Phải làm tốt công tác nhân sự từ đại hội đảng bộ các cấp để góp phần chuẩn bị tốt nhân sự Đại hội XIII của Đảng; phải xác định đây là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, là nhiệm vụ “then chốt” của “then chốt,” có liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ. Công tác nhân sự, đặc biệt là nhân sự cấp cao phải được tiến hành theo quy trình chặt chẽ, khoa học và nhất quán, bảo đảm thật sự dân chủ, công tâm, thật sự trong sáng, khách quan; cách làm phải thận trọng, làm từng khâu, từng công đoạn, theo một quy trình chặt chẽ, làm đến đâu chắc đến đó.

Quán triệt tinh thần đó, trong quá trình làm công tác nhân sự các cấp, Đảng ta luôn chú trọng phát huy dân chủ, trân trọng lắng nghe và tiếp thu các ý kiến đóng góp với tinh thần xây dựng để phát hiện được nhiều nhân tố mới, cán bộ có đức, có tài. Mặt khác, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm minh với các tư tưởng, hành động lợi dụng dân chủ để xuyên tạc, bôi nhọ, hạ uy tín, kích động gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ. Trả lời báo chí mới đây, ông Vũ Quốc Hùng, nguyên Phó chủ nhiệm Thường trực Ủy ban Kiểm tra Trung ương cho rằng: Phải hết sức khách quan, phân biệt rõ những người tố cáo sai, những người có động cơ xấu. Nếu là đảng viên, tổ chức đảng thì phải làm đến nơi đến chốn. Kết luận là tố cáo sai, động cơ không đúng như làm mất đoàn kết, đại diện phe này, phe kia trong tổ chức đảng thì phải xử lý kỷ luật theo các quy định của Đảng. Nếu người đó chỉ do hồ đồ thì cũng phải xử lý bằng một hình thức thích hợp. Còn những người cố ý, muốn bôi nhọ thì luật cũng đã quy định hình thức xử lý.

Để đấu tranh với các “đám mây mù”, “virus” thông tin, tác động tiêu cực, làm “ô nhiễm” bầu không khí khi tiến hành đại hội đảng, cấp ủy, cơ quan chức năng các cấp một mặt phải thực hiện nghiêm các nguyên tắc, quy trình công tác nhân sự, đồng thời phải công minh, khách quan, tỉnh táo khi tiếp nhận và xử lý các thông tin. Cung cấp kịp thời các thông tin chính thống, xác minh, kết luận của tổ chức, cơ quan có thẩm quyền nhằm vạch trần các luận điệu xuyên tạc, vu khống, bảo vệ cán bộ và định hướng dư luận.

Không ít người có hành vi “ném đá giấu tay” là những cán bộ hoặc nguyên cán bộ có chức, có quyền, biết rõ tình hình nội bộ nhưng do động cơ cá nhân không trong sáng đã đứng đằng sau để “giật dây”, “tiếp sức”, tuyên truyền các thông tin sai trái. Cho nên, vừa phải xử lý đối tượng tung tin xấu độc, vừa phải điều tra, làm rõ và xử nghiêm cả những người tiếp tay, làm cho thông tin lan truyền với động cơ xấu. Việc xử lý ấy cần căn cứ vào các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm chặt chẽ, đúng người, đúng việc, đúng khuyết điểm.

Một giải pháp rất căn bản là phải nâng cao khả năng “đề kháng”, “miễn dịch” cho cán bộ, đảng viên trước thông tin thất thiệt, gây chia rẽ nội bộ. Mỗi người phải nâng cao trình độ, kiến thức về mọi mặt, bình tĩnh, sáng suốt để phân biệt thông tin, đồng thời phải có thái độ kiên quyết bảo vệ cái đúng, cái tích cực; đẩy lùi bóng tối thông tin, làm trong sạch nội bộ, góp phần vào thành công đại hội đảng.

TRẦN HOÀNG TIẾN

Theo qdnd.vn

ĐẬP TAN CHIÊU TRÒ BỊA ĐẶT VỀ NHÂN SỰ ĐẠI HỘI ĐẢNG

Từ trước thềm Hội nghị Trung ương (HNTƯ) 12 (khóa XII), đến nay, trên các trang mạng nước ngoài và một số tài khoản blog, facebook cá nhân… đã chủ ý đăng tải nhiều thông tin xuyên tạc, thất thiệt và cố tình suy diễn về công tác chuẩn bị nhân sự Ban Chấp hành (BCH) Trung ương nhiệm kỳ 2021-2026.

Các luận điệu hồ đồ quy chụp rằng, công tác chuẩn bị nhân sự Trung ương bị chi phối quyết định bởi “nhóm lợi ích” từ một bộ phận quan chức Trung ương, ép buộc vận hành theo một kịch bản đã được lên sẵn.

1. Mặc dù Đại hội XIII của Đảng đến đầu năm 2021 mới diễn ra, vậy mà, không biết từ nguồn tin nào, bằng cách gì, những kẻ hiềm khích, giả danh yêu nước đã sớm tung tin về kết quả của đại hội như thể họ là người trong cuộc, được có mặt tại nghị trường ở thì tương lai?

Từ đầu tháng 5-2020, không khó để tiếp cận các bài viết trên mạng xã hội nước ngoài tung tin đồn, suy đoán về “nhân sự tứ trụ” sẽ được Đại hội XIII của Đảng tín nhiệm tiến cử, lựa chọn. Có nghĩa, nhân sự cho các chức danh: Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội đã được định sẵn một cách thiếu dân chủ, khách quan, vì lợi ích nhóm trong CTCB. Tác giả của các bài viết nêu trên “lo rằng”, sự “quy hoạch mặc định” ấy sẽ ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, nhất là gây mất đoàn kết trong Đảng, do các phe cánh bày mưu tính kế, hạ bệ lẫn nhau… Cùng với đó, các bài viết còn chủ ý bôi nhọ danh dự, đời tư và hạ thấp công trạng, đóng góp của các đồng chí lãnh đạo đương chức của Đảng, Nhà nước đối với sự nghiệp cách mạng; cố tình đưa ra các luận cứ cho thấy sự phân chia phe cánh, hình thành các đường dây đối lập trong nội bộ Đảng ở thời điểm trước và trong đại hội đảng.

Cần nhận diện đúng đắn rằng: Những thông tin nêu trên là hòng gây nhiễu loạn tình hình nhân sự trong Đảng, cố ý bôi nhọ tình cảm đồng chí, đồng đội trong tập thể lãnh đạo của Đảng; mưu đồ hạ thấp uy tín của cán bộ lãnh đạo đương chức, vừa gây nghi kỵ, mâu thuẫn nội bộ, dẫn đến thiếu thống nhất, đoàn kết. Đây thực chất là một thủ đoạn hết sức nham hiểm, thâm độc. Bởi chính sự đoàn kết trong Đảng, đồng thuận trong xã hội là sức mạnh nội sinh để toàn đảng, toàn dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác; cũng là bức tường thành vững chắc đập tan mọi âm mưu chống phá cách mạng Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử. Do vậy, không lấy gì làm khó hiểu khi các thế lực thù địch luôn lăm le chống phá cho kỳ được thành trì đoàn kết của Đảng ta!

Và sự bịa đặt trắng trợn ấy, ngay lập tức bị bóc mẽ, nhận diện, khi mà HNTƯ 12, khóa XII diễn ra thành công tốt đẹp, một lần nữa công khai rộng rãi chủ trương về công tác nhân sự Đại hội XIII của Đảng. Theo đó, việc giới thiệu quy hoạch cán bộ (QHCB) chiến lược được Trung ương Đảng, Bộ Chính trị khóa XII nhất quán xuyên suốt phương châm “làm từng bước, làm đến đâu chắc đến đó” với lộ trình cụ thể: Quy hoạch BCH Trung ương trước; sau đó làm quy hoạch tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cuối cùng là quy hoạch các chức danh chủ chốt: Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, chứ không tiến hành cùng lúc như những nhiệm kỳ trước đây.

Như vậy, xét theo tiến trình, đến HNTƯ 12, khóa XII, Trung ương chỉ mới xem xét, quyết nghị những vấn đề có tính định hướng lớn trong công tác nhân sự BCH Trung ương; thậm chí chưa bàn, quyết nghị đến nhân sự cụ thể giới thiệu dự bầu BCH Trung ương khóa mới, nên chưa thể đưa ra phương án nhân sự cụ thể cho các chức danh lãnh đạo Đảng, Nhà nước như những kẻ hiềm khích đã và đang lớn tiếng rêu rao, suy diễn, bịa đặt.

Xin nhắc lại một cách làm mới mẻ và khoa học như vậy của BCH Trung ương khóa XII để nhận diện rõ hơn về âm mưu, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt của những kẻ hiểm ác; nhận biết quy luật hoạt động chống phá có tính chất chu kỳ của các thế lực thù địch với những chiêu trò đổi trắng, thay đen, không từ bất kể thủ đoạn nào. Và tất nhiên, dã tâm của những kẻ thiếu kiến thức, sự hiểu biết thực tiễn sẽ khiến những luận điệu mà chúng phơi ra dư luận trở thành những chiếc gậy tự đập vào lưng chính mình, đúng như bài học “gậy ông đập lưng ông” mà người xưa đã chỉ dạy, cảnh báo cho những kẻ cố tình đi ngược lại đạo lý, quy luật hiển nhiên.

2. Ngoài trò hề quen thuộc nêu trên, trước HNTƯ 12, khóa XII, những kẻ hiềm khích còn suy diễn, cho rằng: Công tác quy hoạch và lựa chọn, giới thiệu cán bộ Trung ương khóa XIII lần này là do Trung ương lên sẵn kịch bản theo lối “chỉ mặt, điểm tên”, bắt buộc các cấp thực thi bằng các giải pháp dân chủ hình thức để “mị dân” và chỉ nhằm phục vụ lợi ích nhóm của một bộ phận quan chức cầm quyền.

Thực tế CTCB trong Đảng nói chung, công tác giới thiệu, lựa chọn QHCB chiến lược nhiệm kỳ Đại hội XIII nói riêng lại hiện hữu một bức tranh khác biệt và đối lập. Tất nhiên, những chủ trương lớn về CTCB do Trung ương ban hành, hoạch định và trực tiếp lãnh đạo, nhưng việc lựa chọn “hiền tài” được vận hành đồng bộ ở mọi cấp trên cơ sở phát hiện, giới thiệu của cấp ủy, tổ chức đảng từ cấp nhỏ nhất đến cấp đảng bộ trực thuộc Trung ương. Mới đây nhất, trong bài viết định hướng công tác chuẩn bị, tổ chức đại hội đảng các cấp và phát biểu khai mạc, bế mạc HNTƯ 12, khóa XII, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng cũng đều thẳng thắn chỉ rõ yêu cầu phải lựa chọn bằng được cán bộ đủ tiêu chuẩn cho Trung ương và phần việc đó thuộc trách nhiệm của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.

Đặc biệt, với tinh thần làm việc nghiêm túc, HNTƯ 12, khóa XII vừa qua tiếp tục khẳng định tinh thần xuyên suốt của cả nhiệm kỳ Đại hội XII về hai nội dung, giải pháp hết sức quan trọng đối với công tác lựa chọn, phát hiện, giới thiệu nhân sự cho BCH Trung ương Đảng khóa XIII, đó là: Trao quyền lựa chọn, giới thiệu nhân sự Trung ương cho cơ sở và đảng bộ trực thuộc; đồng thời đề cao trách nhiệm, quy trách nhiệm đối với người tiến cử, đề cử cán bộ quy hoạch chiến lược.

Thực tiễn CTCB cũng minh chứng sống động cho tính đúng đắn của những giải pháp lớn ấy. Theo đó, dưới sự điều hành của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, trực tiếp là Ban Chỉ đạo xây dựng QHCB cấp chiến lược nhiệm kỳ 2021-2026, tập trung cao điểm vào tháng 11-2018, 100% đảng bộ các tỉnh, thành phố và cơ quan, đơn vị, địa phương trực thuộc Trung ương đã tổ chức tốt hội nghị cán bộ chủ chốt để phát hiện, giới thiệu nhân sự quy hoạch BCH Trung ương khóa XIII.

Với tinh thần ủy quyền và đặt niềm tin đối với các đảng bộ trực thuộc Trung ương của BCH Trung ương đã thật sự mở ra cơ chế và điều kiện thuận lợi nhất để tất cả cấp ủy, tổ chức đảng vào cuộc với tinh thần trách nhiệm cao, thực hiện nghiêm túc quy trình phát hiện, giới thiệu nhân sự quy hoạch ở địa phương, cơ quan, đơn vị theo 4 bước; quy trình rà soát, thẩm tra, phê duyệt quy hoạch ở Trung ương thực hiện theo 5 bước.

Cũng tại các cơ quan, đơn vị, địa phương, hội nghị ban thường vụ, hội nghị cán bộ chủ chốt tỉnh, thành phố đều tiến hành bỏ phiếu giới thiệu nhân sự tham gia Trung ương khóa XIII. Kết quả lấy phiếu được tiến hành đúng quy trình, bảo đảm nguyên tắc với quan điểm đặc biệt coi trọng tiêu chuẩn giới thiệu vào quy hoạch, coi trọng chất lượng, không vì cơ cấu, số lượng mà hạ thấp yêu cầu.

Đặc biệt, khi Trung ương trao quyền và gắn trách nhiệm đối với người tiến cử, đề cử giới thiệu cán bộ đã giúp đội ngũ cán bộ chủ chốt ở nhiều cơ quan, đơn vị đề cao trách nhiệm, thực sự nêu gương, kiên quyết chống mọi biểu hiện chạy chức, chạy quyền, chạy quy hoạch; không để có sự can thiệp không đúng nguyên tắc, sai thẩm quyền, thiếu trách nhiệm, trái quy định vào CTCB, nhất là quy trình giới thiệu QHCB chiến lược nhiệm kỳ 2021-2026.

Với quy trình chặt chẽ, kết quả giới thiệu nhân sự BCH Trung ương Đảng khóa XIII đến nay đã đáp ứng yêu cầu và tiến độ đặt ra. Những cán bộ được cơ sở “chọn mặt, gửi vàng”, góp tên vào danh sách đề nghị quy hoạch gửi về Trung ương, trở thành căn cứ quan trọng để BCH Trung ương xem xét, quyết nghị tại những hội nghị tiếp theo của BCH Trung ương khóa XII.

Như vậy, cách làm nêu trên cho thấy: BCH Trung ương là cơ quan tối cao thẩm định, xem xét, quyết nghị cuối cùng về nhân sự Trung ương khóa mới trên cơ sở lựa chọn, giới thiệu nhân sự cụ thể ở từng đảng bộ trực thuộc Trung ương. Hơn thế, việc chiêu mộ hiền tài cho Đảng, Nhà nước được Trung ương kêu gọi, khuyến khích toàn đảng, toàn dân phát hiện, giới thiệu để kịp thời bổ sung và sàng lọc, chứ không cứng nhắc về phương án, áp đặt về số lượng, chất lượng hay rơi vào nạn cửa quyền, mệnh lệnh theo lối áp đặt.

Điều đó càng khẳng định, những thông tin bịa đặt xoay quanh vấn đề nhân sự đại hội đảng thực chất là những thủ đoạn trá hình của các thế lực thù địch và đối tượng xấu sử dụng internet, mạng xã hội để chống phá Đảng, Nhà nước, hòng chia rẽ nội bộ trong Đảng và chĩa mũi nhọn công kích vào sự kiện chính trị quan trọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, chống phá quyết liệt đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội XIII của Đảng. Thế nhưng, tất cả những chiêu trò đó chỉ như chút bóng tối lập lờ, sẽ nhanh chóng bị ánh sáng sự thật đẩy lùi, xua tan!

NGUYỄN SÔNG TRÀ

                                                                                 Theo Báo Quân đội Nhân dân điện tử 

BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG LÀ NHIỆM VỤ CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN

QĐND - Hiện nay, có một số người băn khoăn về nhiệm vụ đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa thuộc về những thành phần nào, hay nói cách khác là nhiệm vụ đó thuộc cơ quan, tổ chức, cá nhân nào.

Cần phải khẳng định rằng, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh với những quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và mọi tầng lớp nhân dân. Trong đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên là lực lượng tiên phong. Để đấu tranh, bảo vệ thành công nền tảng tư tưởng của Đảng, trước hết phải bảo vệ vững chắc nội bộ. Nội bộ đoàn kết, không dao động, không "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" thì thế lực thù địch dù có nhiều âm mưu, thủ đoạn xảo quyệt đến mấy cũng khó bề làm lung lạc ý chí, niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Vì thế, việc đầu tiên là cần có biện pháp đấu tranh, khắc phục thực trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý không chỉ phai nhạt lý tưởng mà còn thiếu niềm tin vào con đường xã hội chủ nghĩa.

Quá trình "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong mỗi cá nhân, tổ chức thường bắt đầu từ mất niềm tin, mất phương hướng, từ bỏ lý tưởng, mục tiêu cách mạng, tiến tới du nhập tư tưởng, lý luận phi mác-xít, sẵn sàng "trở cờ" phản bội, đưa đất nước đi theo hướng khác, con đường khác phi xã hội chủ nghĩa. Thực tế là nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại trong cả nhận thức và hành động của một số người. Nhận thức đó có thể bắt nguồn từ những vấn đề còn chưa tỏ tường về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, kết hợp với sự xuất hiện những thế mạnh của chủ nghĩa tư bản hiện đại trong quá trình toàn cầu hóa. Những điều đó đã tác động mạnh tới nhận thức của một số người, trong đó có một số văn nghệ sĩ, trí thức, làm cho nhận thức của họ trở nên mông lung, như người "đứng giữa ngã ba đường".

Để bảo vệ hiệu quả nền tảng tư tưởng của Đảng, thì toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần kiên trì tiến hành cuộc đấu tranh phê phán triệt để hệ tư tưởng tư sản, tư tưởng xã hội dân chủ, chủ nghĩa thực dụng tồn tại trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Tiếp tục khẳng định chế độ và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn là con đường duy nhất đúng, bởi nó vừa thể hiện tính cách mạng triệt để, vừa phù hợp với quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội. Bên cạnh đó, cần có biện pháp thiết thực củng cố và phát triển mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với các tổ chức trong hệ thống chính trị, hệ thống chính trị xã hội và nhân dân. Phê phán, bác bỏ các quan điểm, tư tưởng và ý đồ thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Phát hiện, xử lý kịp thời những âm mưu phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng từ các thế lực thù địch, vạch mặt những phần tử cơ hội chính trị, ngăn chặn những hành vi xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, ngăn chặn sự chia rẽ mối đoàn kết gắn bó giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân và lực lượng vũ trang. Phải tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước, cụ thể là của bộ máy chính quyền các cấp; xử lý đúng đắn những mâu thuẫn nội bộ trong các tầng lớp nhân dân, không để tích tụ, tạo tâm lý bất bình và các "điểm nóng" về an ninh trật tự trong xã hội. Đồng thời đẩy mạnh việc đấu tranh, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phai nhạt lý tưởng, chủ nghĩa cơ hội, thực dụng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Quyết tâm làm trong sạch từ nhận thức đến hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên-đội ngũ vừa là đối tượng, vừa là chủ thể của phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", để tạo cơ sở nền tảng đấu tranh hiệu quả với âm mưu, thủ đoạn hoạt động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch.

Nguồn: www.qdnd.vn

                                   Bibin Nguyen

  

CẦN PHÂN BIỆT GIỮA “DÂN CHỦ ĐÍCH THỰC” VỚI “MẠO DANH DÂN CHỦ”

 Dân chủ xã hội chủ nghĩa là quyền dân chủ của công dân không ngừng được mở rộng trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của nhà nước, của xã hội mà cơ bản nhất là dân chủ về kinh tế. Trên lĩnh vực chính trị xã hội, quyền tham gia quản lý nhà nước của nhân dân và các đoàn thể quần chúng ngày càng được mở rộng về phạm vi, về độ sâu và phong phú đa dạng về các hình thức. Mục tiêu của dân chủ xã hội chủ nghĩa là nhằm xóa bỏ  nạn người bóc lột người và tạo ra ngày càng nhiều điều kiện để thực hiện triệt để công bằng xã hội, công lý cho mọi người, bình đẳng thực sự giữa nam với nữ, giữa các dân tộc, tạo cơ hội cho mọi công dân mưu sinh và mưu cầu hạnh phúc.

Từ cách tiếp cận nêu trên, nhìn vào thực tế hoạt động của mấy người tự nhận hoặc phong tặng lẫn nhau là “nhà đấu tranh dân chủ” để tiến hành “phong trào dân chủ” ở Việt Nam, không khó để nhận ra những con người và cái gọi là “phong trào” đó không hề xác định hay hướng tới giá trị dân chủ đích thực. Nguy hiểm hơn những con người, tổ chức tự xưng dân chủ này lại “rao giảng” về dân chủ, hay viết một, hai đơn từ kiện cáo, hoặc nói xấu cán bộ lãnh đạo hay một cơ quan Ðảng và Nhà nước là trở thành “nhà đấu tranh dân chủ”.  Từ đó xuyên tạc, chống phá quan điểm, đường lối của Đảng về dân chủ ở nước ta.

Mới đây, trong bài viết “Dân chủ giả cầy” Phạm Trần lại tiếp tục thuyết giảng về “dân chủ” và coi các tổ chức: Văn đoàn độc lập, Hội nhà báo độc lập, Nghiệp đoàn độc lập, Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Hội anh em dân chủ… là những tổ chức dân chủ thực sự, đại diện và mang lại lợi ích  cho người dân…. Thực tế không phải như vậy, họ lập ra hàng trăm “hội nhóm” nhưng không “hội nhóm” nào có cương lĩnh hành động mang chất trí tuệ, chủ yếu xào xáo, lặp lại của nhau. Ðối với họ, “đấu tranh dân chủ” không phải là mục đích mà là chiêu bài, là nghề kiếm sống, là hưởng lợi từ tiền hỗ trợ của các hội đoàn chống cộng ở hải ngoại. Về bản chất, họ đang đi ngược lại quá trình dân chủ, vì dân chủ thật sự phải xuất phát từ nguyện vọng chính đáng của mọi người dân, chứ không buộc người dân đi theo quan niệm mà “nhà dân chủ” giả hiệu cổ súy. Chỉ tiếp cận từ tiêu chí “của nhân dân, do nhân dân” đã thấy cái gọi là “phong trào dân chủ” được quảng bá trên internet lại được một số tổ chức ở nước ngoài cổ vũ hoàn toàn đi ngược với khát vọng và mục tiêu mà toàn dân tộc Việt Nam đang phấn đấu đạt tới là xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Không có ý nghĩa nào khác, một “phong trào dân chủ” lại từ chối mọi cơ hội để xây dựng đất nước, tảng lờ thành tựu của xã hội mà chính họ thụ hưởng, mượn danh nghĩa dân chủ để chống chính quyền, lấy tham vọng và lợi ích ích kỷ của cá nhân thay thế nguyện vọng dân tộc,… thực chất chỉ là một “phong trào phản dân chủ”.

Xem xét tổng thể các vấn đề trên đây đã lý giải tại sao sau hàng chục năm cái gọi là “phong trào dân chủ” ở Việt Nam chỉ loay hoay và loanh quanh trong một nhóm người. Sự bất lực có thể đẩy con người tới hành vi thiếu sáng suốt, đó là nhân – quả của hoạt động và hệ lụy từ hoạt động của những người đang cố xây dựng một thứ “phong trào dân chủ” trái khoáy và phi lý. Phải chăng, vì không thể thực hiện tham vọng, vì bất lực, vì bị đe dọa hầu bao từ bên ngoài,… mà gần đây họ có xu hướng cổ vũ cho mấy cuộc xuống đường tự phát, với các hành vi bạo lực? Hơn thế nữa, dường như họ còn có xu hướng muốn kết hợp cái gọi là “đấu tranh dân chủ” với chủ nghĩa dân tộc cực đoan qua hàng loạt các tuyên bố, thư ngỏ, bài viết, bình luận, tin tức trên internet nhằm kích động bạo lực.

Những ngày này, khi cả nước đang tiến hành đại hội đảng các cấp tiến tới  Đại hội XIII của Đảng một số người tự coi mình là “nhà dân chủ”, hay cái gọi là đám “dân chủ” lại xem đây là cơ hội để nói xấu Đảng, Nhà nước, phủ nhận bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa, phủ nhận những thành quả cách mạng, những thành tựu của công cuộc đổi mới và cuộc sống an bình của người dân,  lợi dụng những vụ việc rồi vu cáo chính quyền, xuyên tạc, đưa ra các luận điệu vô trách nhiệm để mê hoặc bộ phận công chúng nhẹ dạ, cả tin… Ðây là thời điểm để chúng ta nhận diện, phân biệt đâu là người yêu nước chân chính, đâu là nhà hoạt động xã hội có ý thức trách nhiệm và đâu là kẻ đang mượn danh nghĩa dân chủ để cản trở sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Đối với chúng ta, một nền dân chủ thật sự chỉ đến từ các công dân có tinh thần tự chủ, yêu hòa bình, gắn bó với cộng đồng bằng tinh thần nhân văn, luôn biết kết hợp hài hòa giữa lợi ích của chính mình với lợi ích mọi người. Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên và Nhân dân một mặt cần phân biệt rõ giữa dân chủ đích thực và mạo danh dân chủ để lôi kéo, kích động chống phá Đảng, Nhà nước. Mặt khác nêu cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh với âm mưu của các thế lực thù địch để góp phần bảo vệ và giữ vững sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam./.

                                                                                  Bibin Nguyen

VỮNG NIỀM TIN, NHÂN SỨC MẠNH NỘI LỰC

 Cách đây 75 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân dân cả nước đồng loạt vùng lên, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân; chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến ở Việt Nam; kết thúc hơn 80 năm nhân dân ta dưới ách đô hộ của thực dân, phát xít.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là mốc son chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, là thắng lợi to lớn đầu tiên của quân và dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Từ đây, đất nước, xã hội, dân tộc và con người Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội (CNXH).

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là sự kiện mang tầm vóc thời đại, khẳng định sự phát triển lớn mạnh của một đảng tiên phong thật sự cách mạng, tiếp thu nghiêm túc Chủ nghĩa Mác-Lênin; đường lối cách mạng đúng đắn, nghệ thuật chỉ đạo tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc chọn đúng thời cơ, ra quyết định Tổng khởi nghĩa đúng lúc; phát huy được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để dẫn dắt quần chúng đứng lên giành và giữ chính quyền.

Tinh thần Cách mạng Tháng Tám luôn tạo nên sức mạnh nội lực cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta lập nên những kỳ tích, chiến công vang dội. Đó là thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, kết thúc bằng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Đó là thắng lợi oanh liệt của cuộc trường chinh chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên CNXH. Thắng lợi của nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa (XHCN); vượt qua mọi khó khăn, bao vây, cấm vận, đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội.

Qua gần 35 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, tinh thần Cách mạng Tháng Tám đã được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phát huy cao độ, cùng chung một mục tiêu phấn đấu đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế. Đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Hệ thống chính trị từng bước được đổi mới, kiện toàn. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN được đẩy mạnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động được nâng lên. Giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; các cơ hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp nhân dân; chất lượng cuộc sống của nhân dân ngày càng được nâng cao... Bảo vệ vững chắc chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ vững chủ quyền biển, đảo, biên giới, vùng trời. Chủ động đấu tranh ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hòa bình”, hoạt động phá hoại, gây rối, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, không để bị động, bất ngờ trước mọi tình huống. Nhân dân luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân tiếp tục được tăng cường, củng cố.

Kỷ niệm 75 năm Cách mạng Tháng Tám trong thời điểm toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang thi đua sôi nổi lập thành tích cao nhất chào mừng đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân càng hiểu rõ giá trị lịch sử, thực tiễn sâu sắc mà Cách mạng Tháng Tám mang lại. Tinh thần Cách mạng Tháng Tám luôn là nguồn sức mạnh nội lực to lớn để các thế hệ người Việt Nam hôm nay nêu cao quyết tâm, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện. Trải qua 76 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, quân đội luôn tỏ rõ là lực lượng chiến đấu, lực lượng chính trị trung thành tuyệt đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân. Quân đội đã góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân làm nên Cách mạng Tháng Tám và giành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ xâm lược, cũng như trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Phát huy tinh thần và ý chí của Cách mạng Tháng Tám, toàn quân luôn quán triệt sâu sắc Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Quân đội vững niềm tin vào sự nghiệp đổi mới đất nước, nỗ lực phấn đấu, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, thực sự là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị trung thành của Đảng, Nhà nước và nhân dân, làm nòng cốt trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống.

                                                                                  Bibin Nguyen

ĐẤU TRANH LÀM THẤT BẠI LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC, PHỦ NHẬN Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ TO LỚN CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945

Hằng năm, cứ sắp đến Ngày kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 2-9, các thế lực thù địch, phản động, với luận điệu tuyên truyền cũ rích nhằm xuyên tạc, phủ nhận, bóp méo sự thật về những sự kiện và ý nghĩa lịch sử của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Một trong những vấn đề tuyên truyền xuyên tạc đó là: xuyên tạc Ngày Độc lập của Việt Nam và hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Về Ngày Độc lập của Việt Nam. Các thế lực thù địch, phản động rêu rao rằng, Ngày Độc lập của Việt Nam là ngày 11-3-1945, ngày Bảo Đại ký Đạo dụ tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với thực dân Pháp năm 1884 chứ không phải là ngày 02 tháng 9 năm 1945. Đó là tuyên truyền xuyên tạc sai sự thật. Bởi vì, chúng ta đều biết rằng, ngày 9-3-1945 là ngày Nhật đảo chính hất cẳng Pháp ở Đông Dương. Như vậy, trên thực tế, kể từ ngày 9-3-1945, dân tộc Việt Nam nằm dưới sự thống trị của phát xít Nhật, không còn là thuộc địa của thực dân Pháp. Đạo dụ của Bảo Đại tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với thực dân Pháp năm 1884 là ngày 11-3-1945, tức là sau ngày Nhật đã hất cẳng Pháp. Do đó, không thể nói rằng, Ngày Độc lập của Việt Nam là ngày 11-3-1945, mà Ngày Độc lập thật sự của dân tộc Việt Nam là Ngày 2-9-1945, Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập trước đông đảo đồng bào Việt Nam tại Quảng trường Ba Đình lịch sử. Trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập lên nước Việt Nam Cộng hòa Dân chủ. Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam tự tay Nhật, chứ không phải tự tay Pháp”.

Về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cách mạng Tháng Tám năm 1945. Các thế lực thù địch cho rằng, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là nhờ may mắn từ hoàn cảnh lịch sử. Thực tiễn lịch sử đã khẳng định rõ, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, giành chính quyền trên cả nước, không phải là một cuộc cách mạng vội vàng, ngẫu nhiên, “ăn may” như các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc, bóp méo, mà để có được thành quả đó toàn dân tộc Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phải nỗ lực, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, kể cả sự hy sinh, mất mát cho việc chuẩn bị về mọi mặt trong suốt 15 năm kể từ khi Đảng ta ra đời. Đó là chuẩn bị về chủ trương, đường lối; về xây dựng lực lượng chính trị; về xây dựng lực lượng vũ trang; về xây dựng căn cứ địa cách mạng; về xác định, lựa chọn thời cơ khởi nghĩa.

Về chủ trương, đường lối. Ngay từ ngày đầu mới thành lập, Đảng ta đã chủ trương kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền và quan điểm này đã được thể hiện qua các phong trào cách mạng: 1930 - 1931, 1936 - 1939, 1939 - 1945, mà đỉnh cao là cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền Tháng 8 năm 1945.

Về xây dựng lực lượng chính trị. Ngay từ những ngày đầu thành lập, Đảng ta đã chú trọng xây dựng lực lượng chính trị. Đảng đã cử nhiều thanh niên ưu tú đi học tập, đào tạo tại các trường của Quốc tế Cộng sản để sau này về nước nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong Đảng, trong các tổ chức cách mạng truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước, trang bị lý luận cách mạng cho các tầng lớp nhân dân. Cùng với đó, Đảng cũng đã thành lập một số tổ chức quần chúng để lập nên khối đại đoàn kết toàn dân đứng lên làm cách mạng cứu nước.

Về xây dựng lực lượng vũ trang. Trong những năm đầu thập kỷ 30 của Thế kỷ XX, lực lượng vũ trang của ta phát triển còn rất tự do, nhỏ lẻ, chưa có tổ chức, Đảng ta đã từng bước thành lập các đội du kích, rồi tiến tới thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, lực lượng nòng cốt cho các tổ chức vũ trang đánh giặc, cùng nhân dân làm cuộc tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Để tập dượt khả năng chỉ huy lãnh đạo kháng chiến, khả năng tập hợp quần chúng và khả năng tổng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền của lực lượng cách mạng khi thời cơ đến, Đảng ta đã tổ chức các phong trào cách mạng: 1930 - 1931, 1936 - 1939, 1939 - 1945.

Về xây dựng căn cứ địa cách mạng. Đảng ta đã tổ chức xây dựng các căn cứ địa cách mạng để tập hợp, xây dựng các tổ chức, lực lượng cách mạng và huấn luyện lực lượng này để chuẩn bị cho khởi nghĩa. Trên thực tế, các căn cứ địa cách mạng của ta đã phát huy tốt vai trò là nơi đóng quân của lực lượng cách mạng, là nơi đánh địch, nơi rút lui, phòng thủ để bảo vệ lực lượng, là nơi có thể dễ dàng liên lạc và nhận sự ủng hộ của cách mạng thế giới, đồng thời cũng là nơi cung cấp người và của cho cách mạng.

Về xác định, lựa chọn thời cơ khởi nghĩa. Trên cơ sở các yếu tố chuẩn bị cho khởi nghĩa, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động, nhạy bén, nắm chắc sự biến đổi nhanh chóng và mau lẹ của tình hình thế giới để xác định thời cơ tiến hành Tổng khởi nghĩa. Với sự chuẩn bị chu đáo, đầy đủ mọi yếu tố cho khởi nghĩa trong thời gian lâu dài và biết lựa chọn đúng thời cơ khởi nghĩa mà cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền Tháng Tám năm 1945 của dân tộc ta giành được thắng lợi to lớn, triệt để khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Thực tế trên đã khẳng định rằng, Ngày Độc lập của dân tộc Việt Nam là ngày 2-9-1945 và thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của dân tộc ta là bởi sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc, là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc lâu dài, đầy hy sinh, gian khổ của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, chứ không phải như luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật của các thế lực thù địch, phản động thường rêu rao, kích động.

Hiện nay, đất nước đang đứng trước tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen. Lợi dụng tình hình đó, các thế lực thù địch, phản động tăng cường hoạt động chống phá, tuyên truyền xuyên tạc, bóp méo sự thật lịch sử, ý nghĩa, kết quả và giá trị to lớn của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 hòng phục vụ mục đích đen tối là từng bước xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ xã hội ở nước ta. Vì vậy, để đấu tranh làm thất bại những âm mưu, thủ đoạn, những luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật của các thế lực thù địch, phản động: 1. Các cấp, ngành và các địa phương cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục truyền thống lịch sử của dân tộc; tăng cường tuyên truyền giáo dục cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ hiểu rõ ý nghĩa, giá trị to lớn và vai trò của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam từ đó đến nay. 2. Tích cực, chủ động đấu tranh làm thất bại hoạt động tuyên truyền xuyên tạc, bóp méo, phủ nhận thành quả của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của các thế lực thù địch, phản động. Xuyên tạc, bóp méo sự thật hòng hạ thấp ý nghĩa, vai trò và thành quả Cách mạng Tháng Tám của dân tộc ta, từ đó hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, tiến tới xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta là bản chất không bao giờ thay đổi của các thế lực thù địch, phản động. 3. Tập trung phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân. Thông qua đó khẳng định giá trị lịch sử, tầm vóc to lớn và kết quả thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đem lại. 4. Mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Tuyên truyền cho nhân dân thế giới hiểu đúng, khách quan về Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của nước ta và những thành tựu mà Việt Nam đạt được kể từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay. Tuyên truyền cho nhân dân thế giới nhận biết rõ bộ mặt thật, những sai trái, xuyên tạc trong luận điệu tuyên truyền của các thế lực thù địch, phản động làm cho các luận điệu đó trở thành tiếng nói lạc lõng, bị phê phán, cô lập.

                                                                                                                                          Bibin Nguyen