QĐND - Kỳ họp thứ chín, Quốc hội khóa XIV (bế mạc vào cuối tuần qua) đã thông qua 10 luật, 21 nghị quyết, cho ý kiến về 6 dự án luật khác. Đây là một trong những thành công lớn của kỳ họp lần này, đáp ứng lòng mong mỏi của đông đảo cử tri. Thế nhưng một số ít người có thể vì không hiểu hoặc cố tình không hiểu đã xuyên tạc quy trình xây dựng pháp luật ở Việt Nam, gây bức xúc trong dư luận…
“Góp ý, phê bình về quy
trình xây dựng luật” nhưng lại không hiểu luật
Ngày 18-6 vừa
qua, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Luật BHVBQPPL) với 92,96%
đại biểu Quốc hội (ĐBQH) tham gia biểu quyết tán thành. Đây là một trong những dự
án luật được đông đảo cử tri quan tâm. Dự án luật này cũng được một số đối
tượng chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta “soi xét” khá kỹ. Những người này
từng có những bản “góp ý phê bình về quy trình xây dựng luật ở Việt Nam” đăng
tải trên mạng xã hội và một số cơ quan báo chí nước ngoài, trong đó phê bình
trực tiếp quy trình xây dựng Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật
BHVBQPPL.
Có lẽ họ không
nhớ vào ngày 22-5-2020, Quốc hội đã thảo luận trực tuyến về dự án Luật
BHVBQPPL. Tại cuộc họp này, về cơ bản, các vị ĐBQH đã tán thành với báo cáo
giải trình, tiếp thu, chỉnh lý và nhiều nội dung của dự thảo luật; đồng thời
đóng góp thêm ý kiến về một số điều, khoản cụ thể. Trên cơ sở ý kiến của các vị
ĐBQH, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đã chỉ đạo các cơ quan hữu quan nghiên
cứu, tiếp thu để chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo luật. Có ý kiến đề nghị quy định
rõ hơn về thời gian cơ quan chủ trì soạn thảo gửi văn bản tới Mặt trận Tổ
quốc (MTTQ) Việt Nam và phạm vi, chủ thể, thời hạn thực hiện phản biện
xã hội của MTTQ Việt Nam để bảo đảm tính khả thi. UBTVQH đã báo cáo: Việc
phản biện xã hội đối với dự thảo Luật BHVBQPPL đang được thực hiện theo quy
định của Luật MTTQ Việt Nam. Dự thảo luật đã tiếp thu, bổ sung quy định về hoạt
động phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên trong quy
trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật tại Điều 6. Các vấn đề về
thời gian gửi văn bản, phạm vi, chủ thể, thời hạn phản biện xã hội thuộc trình
tự, thủ tục thực hiện phản biện xã hội, hiện đang được quy định tại Nghị quyết
liên tịch số 403/2017/NQLT-UBTVQH14-CP-ĐCTUBTWMTTQVN. Do đó, UBTVQH xin tiếp
thu ý kiến của các ĐBQH để chỉ đạo các cơ quan liên quan rà soát, đề xuất sửa
đổi, bổ sung, quy định rõ trong Nghị quyết liên tịch số 403.
Cũng có ý kiến đề
nghị Hội đồng Dân tộc (HDDT), các ủy ban của Quốc hội chỉ nên có ý kiến mà
không nên quy định trách nhiệm thẩm tra đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh và
tham gia thẩm tra dự án, dự thảo thuộc lĩnh vực phụ trách, UBTVQH cho rằng,
theo quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội, HĐDT, ủy ban của Quốc hội
có nhiệm vụ thẩm tra các dự án luật thuộc lĩnh vực phụ trách nhằm bảo đảm tất
cả nội dung liên quan của dự án luật đều được xem xét để báo cáo Quốc hội,
UBTVQH. Tương tự như vậy, trong việc thẩm tra đề nghị xây dựng luật, ngoài
trách nhiệm chung của Ủy ban Pháp luật thì rất cần ý kiến thẩm tra chuyên môn
sâu của HĐDT, các ủy ban khác của Quốc hội với vai trò là cơ quan phụ trách
lĩnh vực. Đây cũng là sự đổi mới hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc
hội trong công tác lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh từ đầu nhiệm
kỳ Quốc hội khóa XIV nhằm nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp
luật và đã đạt được những kết quả tích cực. Việc quy định như vậy cũng là nhằm
đề cao, làm rõ hơn trách nhiệm của các cơ quan tham gia trong quy trình xây
dựng, ban hành luật như yêu cầu của Ban Bí thư tại Thông báo số 26-TB/TW ngày
19-4-2017.
Như vậy UBTVQH đã
tiếp thu tối đa ý kiến đóng góp của các ĐBQH theo hướng mở rộng dân chủ, phát
huy trí tuệ tập thể của các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH và toàn dân trong
xây dựng các dự án luật, điều này trái với ý kiến của một số người cho
rằng Quốc hội áp đặt ý chí của một số ít người trong xây dựng luật.
Điều đáng phê phán là có người “góp ý, phê bình về quy trình xây dựng
luật ở Việt Nam” nhưng lại không hiểu quy trình xây dựng luật ở Việt Nam.
Thành quả xây dựng pháp luật ở
Việt Nam là điều không thể phủ nhận
Lập hiến và lập
pháp là một trong những hoạt động quan trọng và đặc trưng nhất của Quốc
hội Việt Nam. Chức năng này đã được thể hiện xuyên suốt qua các bản Hiến
pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Hiến pháp năm 2013. Ngoài Hiến pháp năm 1946
quy định nguyên tắc chung “Nghị viện nhân dân đặt ra các pháp luật”, thì cả 4
bản Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 và 2013 đều khẳng định Quốc hội là
cơ quan lập hiến và lập pháp. Qua mỗi bản Hiến pháp, cơ chế thực hiện chức năng
lập pháp của Quốc hội được kế thừa, phát triển và ngày càng được làm
rõ hơn. Hiến pháp năm 2013 (hiện hành) đã khẳng định, Quốc hội là
cơ quan làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp, làm luật, sửa đổi luật; thực hiện
quyền lập hiến, lập pháp. Trên thực tế, quy định này của Hiến pháp được thực
hiện khá chặt chẽ, cụ thể theo trình tự như sau: Hàng năm, trên cơ sở đề nghị
của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền trình dự án luật, pháp lệnh, UBTVQH
lập và trình Quốc hội xem xét, quyết định chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh. Trên cơ sở đó, UBTVQH phân công, chỉ đạo, đôn đốc và giám sát các cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan thực hiện chương trình này. HĐDT, các ủy ban
của Quốc hội, bên cạnh việc thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, còn dành
nhiều thời gian, công sức cho việc chỉnh lý, hoàn thiện các dự án luật trên cơ
sở ý kiến của các vị ĐBQH, ý kiến của nhân dân, của các cơ quan, tổ chức hữu
quan. Để phục vụ cho công tác này, HĐDT, các ủy ban của Quốc hội đã
tham gia ngay từ đầu vào quá trình xây dựng dự án luật. UBTVQH với tư cách là
cơ quan chuẩn bị và chủ trì kỳ họp Quốc hội, thường xuyên cho ý kiến đối
với các dự án luật, pháp lệnh. Giữa hai kỳ họp, các đoàn ĐBQH đã tổ chức các
hội nghị để trao đổi, thảo luận và lấy ý kiến của các đối tượng có liên quan. Ý
kiến của ĐBQH là cơ sở quan trọng mang tính quyết định trong việc hoạch định
chính sách, chỉnh lý và hoàn thiện từng nội dung của dự án luật. Theo trình tự
này, Quốc hội đã nắm trọn quyền lập pháp, vì thế ý kiến một
số người cho rằng Quốc hội chỉ là cơ quan thông qua luật là không có
cơ sở lý luận và thực tiễn. Thực tế cho thấy, nếu so sánh giữa dự án luật
trình Quốc hội với các dự án luật đã được các cơ quan của Quốc
hội thẩm tra, chỉnh lý, hoàn thiện và Quốc hội thông qua thì
chất lượng được nâng cao đáng kể, phù hợp với điều kiện thực tiễn, nhất là về
các chính sách, cả về mặt nội dung cũng như hình thức văn bản. Quy trình xây
dựng luật của Việt Nam cũng phù hợp với thông lệ quốc tế. Theo quy trình
này, pháp luật đã ban hành giúp chúng ta đã thu được nhiều thành quả
mà các thế lực thù địch dù có cố tình xuyên tạc nhưng cũng không thể phủ nhận.
Tại Kỳ họp thứ
chín mới đây, Quốc hội đã thông qua 10 luật, 21 nghị quyết, cho ý
kiến về 6 dự án luật khác. Các dự án luật, nghị quyết trình Quốc
hội xem xét, thông qua và cho ý kiến tại Kỳ họp thứ chín đã bám sát chủ
trương, đường lối của Đảng, tiếp tục thể chế hóa Hiến pháp, góp phần bảo đảm
tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, hoàn thiện hệ thống pháp luật
về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường; tổ chức bộ máy; quan hệ lao động; bảo đảm quốc phòng, an
ninh, trật tự, an toàn xã hội, tăng cường công tác nội luật hóa các điều ước,
cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước,
tiến trình hội nhập quốc tế.
Tiếp tục hoàn thiện quy trình
xây dựng pháp luật ở Việt Nam
Có thể nói hệ
thống pháp luật Việt Nam kể từ thời điểm đổi mới đất nước năm 1986 đến nay đã
phát triển không ngừng và còn phải tiếp tục hoàn thiện. Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật BHVBQPPL mà Quốc hội vừa thông qua sẽ tạo cơ
sở pháp lý cho việc tiếp tục hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật ở Việt
Nam. Theo đó, cơ quan trình dự án luật được quyền bảo vệ quan điểm của mình
trong toàn bộ quá trình soạn thảo và trình thông qua dự án luật. Còn cơ quan
thẩm tra, dù đó là các ủy ban của Quốc hội hay UBTVQH thì
phải làm đúng chức năng của cơ quan thẩm tra, giúp Quốc hội xem
xét, thậm chí có thể đề nghị Quốc hội không thông qua một dự án luật
là điều hoàn toàn có thể xảy ra nhưng không nên làm thay và tước đi quyền của
cơ quan soạn thảo dự án luật.
Luật BHVBQPPL năm
1996 được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2002 đã quy định hồ sơ dự án luật
trình Quốc hội phải có dự thảo văn bản quy định chi tiết. Luật
BHVBQPPL năm 2008 đã bỏ quy định này. Tuy nhiên, năm 2013, qua giám sát tối cao
việc ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật, Quốc hội thấy rằng tình
trạng nợ đọng, chậm ban hành văn bản quy định chi tiết có xu hướng gia tăng,
dẫn đến luật chậm được triển khai thực hiện. Do đó, Quốc hội đã ban hành Nghị
quyết số 67/2013/QH13 yêu cầu trong hồ sơ dự án luật phải trình kèm theo dự
thảo văn bản quy định chi tiết. Quy định này tiếp tục được thể hiện trong Luật
BHVBQPPL sửa đổi, bổ sung. Đồng thời, tiếp thu ý kiến của các vị ĐBQH, UBTVQH
đã đề nghị cơ quan trình, cơ quan soạn thảo thời gian tới cần quan tâm hơn nữa
việc chuẩn bị dự thảo văn bản quy định chi tiết nhằm bảo đảm chất lượng văn
bản, tránh hình thức, lãng phí.
Để xử lý tình
trạng còn xảy ra một số mâu thuẫn, chồng chéo trong quy định giữa các luật do
ngay từ giai đoạn tổng kết, đánh giá, xây dựng dự thảo văn bản mới, các cơ quan
liên quan chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm trong việc rà soát, phát hiện và xử
lý kịp thời các nội dung có quy định khác nhau trong các văn bản luật ban hành
trước, UBTVQH đã chỉ đạo bổ sung vào Luật sửa đổi bổ sung Luật BHVBQPPL quy
định hồ sơ dự án luật gửi thẩm định, thẩm tra, trình Quốc hội phải có
báo cáo về rà soát các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến dự án, dự
thảo; đồng thời bổ sung vào Khoản 2, Điều 12 quy định “trường hợp văn bản quy
phạm pháp luật đã ban hành có quy định khác với văn bản mới nhưng cần tiếp tục
được áp dụng thì phải được chỉ rõ trong văn bản mới đó”.
Nhà nước ta là
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội
bằng Hiến pháp và pháp luật. Đảng và Nhà nước ta luôn nhận thức sâu sắc sự cần
thiết xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, toàn diện, là cơ sở xây
dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh. Pháp luật của Việt Nam đã có những
quy định rất cụ thể bảo đảm cho mọi công dân được tiếp cận thông tin đa dạng,
nhiều chiều, công khai, chủ động tham gia góp ý kiến trong các giai đoạn của
quy trình xây dựng pháp luật; đồng thời, các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm
quyền xây dựng pháp luật phải lắng nghe, tiếp thu ý kiến, phản hồi ý kiến của
người dân công khai minh bạch; trường hợp tiếp thu ý kiến thì cụ thể ý kiến về
nội dung gì, nếu không tiếp thu thì phải giải trình rõ tại sao không tiếp thu.
Qua đó, một mặt bảo đảm quyền dân chủ của người dân trong xây dựng pháp luật,
mặt khác, những ý kiến góp ý từ người dân, từ cộng đồng sẽ giúp các cơ quan nhà
nước, cá nhân có thẩm quyền xây dựng văn bản quy phạm pháp luật bảo đảm đáp ứng
yêu cầu từ thực tiễn, phản ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Không thể
xuyên tạc thành quả và quy trình xây dựng pháp luật ở Việt Nam.
ĐỖ PHÚ THỌ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét