Thứ Tư, 18 tháng 5, 2022

CHIẾN TRANH TÂM LÝ TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG!

 Hiện nay các cường quốc thế giới đang âm thầm triển khai những phương án đối đầu nhau trên mạng Internet, vì thế, bất kể quốc gia nào đều cảm thấy sự cấp thiết trong việc đầu tư một lực lượng chuyên biệt, xây dựng những “căn cứ” với trang bị đầy đủ về thiết bị công nghệ và đội ngũ kỹ thuật viên giỏi để bẻ khóa, tung ra những đòn tấn công mạng nhằm ngăn chặn và đối phó lẫn nhau.

Khi Internet xuất hiện, chiến tranh tâm lý bước vào không gian ảo, các nước phương Tây thông qua các trang mạng xã hội để thúc đẩy “Cuộc cách mạng màu” và các tổ chức khủng bố cũng thông qua trận địa này để “chiêu binh mã”. Chiến tranh tâm lý trên không gian mạng một thủ đoạn của chiến tranh thông qua không gian mạng, nhằm làm suy yếu đối thủ nhanh hơn và giành chiến thắng triệt để hơn so với các phương thức khác đã được tiến hành trong chiến tranh xâm lược truyền thống. Các nhà tư tưởng khẳng định, chiến tranh tâm lý trên không gian mạng đồng nhất với cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng. Chiến tranh tâm lý trên không gian mạng là các thủ đoạn của đấu tranh tư tưởng thông qua không gian mạng để tác động vào tâm lý con người, xã hội của đối phương; nhằm tạo ra những xung đột tư tưởng: Lý tưởng, niềm tin, lợi ích và quyền lợi chính trị, kinh tế, xã hội, giá trị văn hóa… Từ đó gây ra mất đoàn kết, khủng hoảng và xung đột nội bộ, suy giảm tinh thần chiến đấu, dẫn đến phe cánh, bè phái, nội chiến rồi tự tan dã.

Lý do để các nước sử dụng chiến tranh tâm lý trên không gian mạng bởi vì:

Thứ nhất, đây là phương tiện thông tin dễ tiếp thu nhất ở mọi thời điểm và, ít bị chi phối bởi ngoại cảnh, rất “hợp khẩu vị” đối với mọi tầng lớp, giới tính, lứa tuổi và ở mọi trình độ khác nhau.

Thứ hai, mạng lưới truyền thông của các quốc gia ngày nay đa phần sử dụng internet, do vậy, chiến tranh tâm lý của thời đại thông tin không khi nào trở nên dễ dàng hơn như hiện nay.

Thứ ba, là vì sau khi nghiên cứu các biểu hiện tâm lý con người và xã hội, các nhà hoạt động chính trị, chuyên gia quân sự cho rằng, nơi dễ bị tổn thương nhất là tâm lý con người và xã hội. Nên đánh vào đây chẳng khác nào đánh vào “tiền duyên phòng ngự” trong trận địa tư tưởng của cá nhân và các cộng đồng người.

Trận địa của chiến tranh tâm lý trên không gian mạng, đó là cuộc chiến tranh diễn ra ở nhiều lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, quân sự, ngoại giao, khoa học công nghệ, truyền thông, giáo dục, thể thao… Trong thời bình, chiến tranh tâm lý trên không gian mạng càng được phát huy tác dụng và trở thành phương tiện quan trọng để tiêu diệt chính phủ của quốc gia có chủ quyền hoặc là chế độ chính trị có xu hướng đi ngược lại mục tiêu “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền”.

Vũ khí của chiến tranh tâm lý trên không gian mạng là cuộc chiến tranh sử dụng phương thức tuyên truyền trên không gian mạng là chủ yếu. Phương tiện tiến hành chiến tranh tâm lý trên không gian mạng không phải là các loại máy bay, tàu chiến, tàu ngầm hay những sư đoàn, quân đoàn với hàng nghìn binh sĩ mà lại là các phương tiện có kết nối internet, Internet, phát thanh, truyền hình, truyền đơn…

Đạn của chiến tranh tâm lý trên không gian mạng là “thông tin”, theo các nhà phân tích chính trị, xã hội, “đạn” của chiến tranh tâm lý trên không gian mạng có nhiều loại, rất đa dạng và được sử dụng ở từng thời điểm khác nhau. Nếu là tuyên truyền công khai thì sẽ có “thông tin trắng”. Còn tuyên truyền bí mật lại có “thông tin đen”, “thông tin xám”, “thông tin hồng”… Nhằm thực hiện triệt để ba chức năng chính:

Một là, đánh lạc phương hướng chính trị của đối phương thông qua việc cung cấp nhiều thông tin sai lệch cho cá nhân và cộng đồng, làm biến dạng chân lý, mang lại cho con người “bán chân lý” (thực thực hư hư), tạo nên những ảo tưởng xa lạ.

Hai là, phá hoại đạo đức và lối sống của quân đội và nhân dân phía đối lập, khêu gợi sự thất vọng.

Ba là, gieo cấy vào nhận thức của quần chúng các quan điểm và giá trị tinh thần theo mục đích của bên tham chiến.

Vì là cuộc chiến vô hình, không giới tuyến, không bộc lộ trực diện ý đồ, khó xác định đối tượng và thông qua việc sử dụng thông tin trên không gian mạng ở các thời điểm khác nhau nên chiến tranh tâm lý trên không gian mạng trở thành cuộc chiến khó nhận diện và phòng, chống nhất trong giai đoạn hiện nay...

Như vậy, một nguy cơ chiến tranh mới trong xã hội hiện đại không cần tốn một viên đạn hay quả tên lửa, mà chỉ cần một cú nhấp chuột thì cả một quốc gia, thậm chí nhiều quốc gia cùng lúc, có thể bị đánh sập, mọi hoạt động ngưng trệ, cả một hệ thống thông tin liên lạc phải “lưu vong” ra nước ngoài, thậm chí bị đánh cắp dữ liệu sạch sẽ. Đó là cuộc chiến tranh thông tin kết hợp giữa chiến tranh điện tử, các hoạt động xâm nhập hệ thống và chiến tranh tâm lý sẽ hợp nhất thành một hình thức xung đột mới.

Điều đó khiến trung tâm và điểm nóng của các cuộc chiến tranh trong tương lai có lẽ chỉ diễn ra trên mạng. Ở Việt Nam, để thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch trong và ngoài nước liên kết với nhau đẩy mạnh chống phá cách mạng nước ta dưới nhiều hình thức; trong đó, có việc sử dụng internet Tác chiến mạng đã và đang trở thành một trong những biện pháp chủ yếu, được các thế lực thù địch sử dụng rộng rãi trên nhiều lĩnh vực.

Cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội hiện nay đã và đang tiếp cận, sử dụng internet với nhiều mục đích khác nhau: tìm kiếm tài liệu phục vụ học tập, trao đổi thông tin hữu ích, chia sẻ, kết nối bạn bè… Để phòng, chống chiến tranh tâm lý trên không gian mạng đội ngũ cán bộ các cấp cần thực hiện tốt một số biện pháp sau:

1- Quản lý chặt chẽ internet, nhất là các trang mạng xã hội trong đơn vị.

2- Làm tốt công tác giáo dục, nâng cao trình độ kiến thức mọi mặt, cho cán bộ, chiến sĩ. Lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị cần trang bị kiến thức cần thiết để mỗi quân nhân có thể tự sàng lọc, tiếp nhận thông tin hữu ích, chính thống, là cơ sở “miễn dịch” với những “bả độc” làm nhiễu loạn môi trường xã hội. Mỗi cán bộ, chiến sĩ đơn vị cần phải luôn tỉnh táo, nhận diện đúng, bình tĩnh xem xét, phân tích, để vạch trần bản chất của những “bả độc”và có biện pháp phòng, chống hiệu quả.

3- Bồi dưỡng kỹ năng nhận diện các âm mưu, thủ đoạn trên không gian mạng cho cán bộ, chiến sĩ.

4- Nâng cao ý thức phòng tránh, tự vệ và sử biện pháp kỹ thuật để khắc phục hậu quả trong trường hợp bị tấn công trên không gian mạng.

Chiến tranh tâm lý thời nào cũng có nhưng ngày nay, trong thời đại mạng Internet phát triển, chiến trường chiến tranh tâm lý mang một diện mạo mới được mở rộng về quy mô và phát huy tối đa uy lực của nó. Đó là một cuộc chiến không có bom đạn nên không có người chết hay bị thương nhưng tác động rất mạnh đến tinh thần công chúng. Chiến tranh tâm lý là một trong những thủ đoạn mà kẻ địch đã sử dụng trong các cuộc kháng chiến trước đây và hiện nay chúng còn tiếp tục sử dụng với những chiêu thức mới hết sức tinh vi phức tạp. Để bộ đội có sức kháng thể tốt, tạo ra sự miễn dịch trước chiến tranh tâm lý trên không gian mạng đòi hỏi cán bộ các cấp phải nắm chắc các nội dung trên, biết cách ngăn chặn không để chúng phát huy tác dụng./.

ST

 

VẤN ĐỀ NGA VÀ UKRAINE PHẢI CĂN CỨ VÀO TRUYỀN THÔNG CHÍNH THỐNG

 Trong những ngày qua, khi Nga tiến công Ukraine, trên mạng xã hội xuất hiện nhiều kênh cá nhân, nhiều nguồn thông tin có bình luận đa chiều về cuộc chiến. Đại đa số họ đều đưa ra các quan điểm, có người ủng hộ, có người lên án, có người bày tỏ sự lo lắng đến sự an toàn về tính mạng và tài sản của người dân, nhất là các công dân Việt Nam đang sinh sống, làm việc tại Ukraine. Tuy nhiên, cũng thấy rõ, đại đa số các kênh thông tin là không chính thống, thông tin chủ yếu là cắt ghép, lượm lặt, không đề cập cụ thể và đúng đắn về các vấn đề ở Ukraine.

Sự xuất hiện của các trang mạng xã hội đã thay đổi một cách căn bản dòng chảy thông tin, từ mô hình truyền thông một nguồn - nhiều người nhận đến mô hình mạng lưới nhiều nguồn - nhiều người nhận, điển hình như các trang blog. Thậm chí, thay vì tự thu thập và điều tra thông tin như trước, nhiều nhà báo chuyển sang tìm kiếm tư liệu trên mạng xã hội. Việc thu thập thông tin đôi khi chỉ đơn giản là tiếp nhận và phát tán nội dung từ những nguồn tin tự do không có chuyên môn, đôi khi thậm chí không thông qua biên tập hay kiểm chứng. Độc giả giờ đây không còn chỉ tiếp nhận thông tin, mà chính họ đang đảm nhiệm những vai trò mới: trở thành những nhà báo công dân bằng cách tự đưa tin, hay trở thành những biên tập viên bằng cách chia sẻ với bạn bè về những xu hướng tin tức trên mạng xã hội. Và tất nhiên, ở đây không có sự kiểm định chất lượng, thậm chí còn phát tán những thông tin thiếu chính xác hoặc gây nhầm lẫn. Công chúng rơi vào trạng thái hoang mang vì không biết tin vào ai, hoặc tin vào điều gì. Bằng cách lan truyền thông tin thất thiệt, các thế lực thù địch cũng có thể dễ dàng thao túng mạng xã hội.

Khác với các kênh truyền thông mạng xã hội, các kênh thông tin chính thống có biên tập viên chịu trách nhiệm sàng lọc thông tin sai lệch hoặc những nguồn tin thiếu chính xác, có hội đồng biên tập để đánh giá bài đăng. Đặc biệt, trước những thông tin mới, thông tin còn chưa rõ ràng, truyền thông chính thống sẽ có vai trò tổng hợp đánh giá, cung cấp cho độc giả thông tin bản chất và định hướng tư tưởng. Đối với Việt Nam, hệ thống thông tin truyền thông chính thống đã trở thành công cụ, phương tiện hữu ích, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng của dân tộc; là tiếng nói của nhân dân, là cầu nối giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước. Trong đó, chúng ta phải kể đến vai trò của Đài Phát thanh và Truyền hình Việt Nam, Báo Nhân dân, Báo Tiền Phong, các trang thông tin điện tử của Đảng Cộng sản, của Chính phủ…

Do đó, khi nhìn nhận vấn đề Nga và Ukraine, các kênh thông tin trên mạng xã hội chỉ có giá trị tham khảo. Khi cần đánh giá đúng bản chất sự việc, hãy đặt niềm tin đúng chỗ trước thế giới thông tin đầy biến động. Chỉ có theo dõi hệ thống thông tin truyền thông chính thống mới cung cấp, đem lại cho người đọc, người nghe, người xem những thông tin chính xác, có độ tin cậy cao, phản ánh đúng đắn hiện thực cuộc sống./.

ST

 

NHẬN DẠNG CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH CHỐNG PHÁ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG, QUAN ĐIỂM, ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY

1. Quan niệm và tiêu xác định quan điểm sai trái, thù địch

1.1. Quan niệm về quan điểm sai trái, thù địch

Theo Từ điển tiếng Việt, “quan điểm”: 1 điểm xuất phát quy định hướng suy nghĩ, cách xem xét, đánh giá về một sự vật, hiện tượng nào đó: Quan điểm giai cấp; có quan điểm sống đúng đắn. 2 cách nhìn, cách suy nghĩ: Trình bày rõ quan điểm của mình; bất đồng quan điểm[1].

Còn “sai trái” là không đúng, không phù hợp với lẽ phải: việc làm sai trái, hành động sai trái[2]. Như vậy, sai trái có cả ở trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn. Sai trái trong nhận thức, được biểu hiện ở những hiểu biết (tri thức) không đúng, sai lầm. Những tri thức này trái với những tri thức đúng, tức là trái với chân lý.

Quan điểm sai trái là những quan điểm không đúng về mặt khoa học và thực tiễn. Đó là loại quan điểm có nội dung phản khoa học, phi thực tiễn. Quan điểm sai trái thể hiện ở nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Ở góc độ chính trị xã hội, đó là những quan điểm sai trái có liên quan đến vấn đề giai cấp, nhà nước, đảng phái chính trị… Có nhiều nguyên nhân dẫn đến quan điểm sai trái, có thể do trình độ nhận thức còn thấp, do ngộ nhận, do phương pháp nhận thức không đúng của chủ thể,…

Theo Từ điển tiếng Việt, “thù địch” là kẻ ở phía đối lập, có mối hận thù một cách sâu sắc: những phần tử thù địch, hai người là thù địch của nhau; chống đối lại một cách quyết liệt vì lẽ sống còn: thái độ thù địch[3]. Quan điểm thù địch, trước hết là quan điểm sai trái, nhưng đối lập về lợi ích và lập trường giai cấp của một chủ thể với một chủ thể khác. Chủ thể của quan điểm thù địch thường là chủ thể đối lập về lập trường tư tưởng, chính trị, về lợi ích giai cấp, quốc gia, dân tộc. Nguyên nhân sâu xa dẫn đến quan điểm thù địch là do đối lập nhau về lợi ích và lập trường giai cấp, nguyên nhân trực tiếp là do mục đích, động cơ của chủ thể.

Quan điểm sai trái, xét về mặt lập trường giai cấp, tuy không phải là quan điểm thù địch, nhưng trong những trường hợp cụ thể, có thể có quan điểm sai trái cụ thể trùng với quan điểm thù địch. Trong những trường hợp này, chủ thể của quan điểm sai trái là đồng minh tự nhiên của chủ thể có quan điểm thù địch tương tự. Nhưng ngay cả ở đây, lập trường của hai chủ thể này là hoàn toàn khác nhau. Họ chỉ ngẫu nhiên có sự “gặp nhau” về mặt quan điểm. Rõ ràng, cùng một nội dung quan điểm giống nhau, nhưng động cơ và mục đích của các chủ thể là hoàn toàn khác nhau. Do đó, không thể đánh đồng bản chất cũng như mục đích của các quan điểm là như nhau.

Đối với chúng ta, quan điểm sai trái, thù địch là tập hợp những quan điểm không đúng về khoa học và thực tiễn; đối lập về lợi ích và lập trường giai cấp công nhân – dân tộc Việt Nam. Những quan điểm của các chủ thể (cá nhân, tổ chức…) gây nên những tác hại về mặt nhận thức, tư tưởng trong xã hội, làm tổn hại đến lợi ích của quốc gia – dân tộc và nhân dân Việt Nam; chống lại Đảng Cộng sản, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; xâm hại an ninh quốc gia, đến độc lập, tự chủ, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam… được xem là quan điểm sai trái, thù địch.

Quan điểm sai trái có thể là của cán bộ, đảng viên, nhân dân. Quan điểm thù địch là quan điểm của các thế lực thù địch. Nhưng, như trên đã nói, quan điểm sai trái cũng có thể trở thành quan điểm thù địch khi mức độ sai trái trở nên nghiêm trọng, nó không còn là sai trái về mặt nhận thức, quan điểm mà chuyển thành sai trái trong cả lập trường chính trị, lợi ích giai cấp. Khi đó chủ thể của quan điểm sai trái tự trở thành chủ thể của quan điểm thù địch, dù không mong muốn, và vô hình trung họ rơi vào vị trí của “các thế lực thù địch” về mặt quan điểm. Quan điểm (tư tưởng) hướng dẫn hành động. Những quan điểm sai trái, bất kể là của ai, nếu không được uốn nắn, sửa chữa kịp thời, sớm hay muộn cũng sẽ hướng chủ thể của nó tới những hành động thực tiễn để thực hiện quan điểm đó trên thực tế. Khi đó quan điểm sai trái không còn thuần túy là quan điểm mà nó đã được hiện thực hóa, thực tiễn hóa trong đời sống xã hội ở những mức độ khác nhau.

Cũng cần thấy rằng, các thế lực thù địch không phải lúc nào, cũng không phải họ chỉ toàn có quan điểm thù địch đối với chúng ta, mặc dù giữa họ và chúng ta đối lập nhau về lợi ích, về lập trường, quan điểm giai cấp. Song có thể giữa chúng ta và họ vẫn có những quan điểm tương đồng, chung, giống nhau. Thậm chí họ có thể có những quan điểm tích cực, tiến bộ mà chúng ta có thể kế thừa, tiếp thu, nếu biết gạt bỏ những định kiến giai cấp hẹp hòi, thiển cận. Điều này có ý nghĩa phương pháp luật rất quan trọng: khi phê phán, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch không được tách rời quan điểm với nhân thân chủ thể quan điểm đó, nhưng cũng không được đồng nhất tuyệt đối quan điểm với nhân thân chủ thể của nó. Bản thân “các thế lực thù địch” cũng là một khái niệm “động” và “mở”. Nó không cố định cho một đối tượng bất biến nào, mà luôn có sự vận động, chuyển hóa biện chứng, có thể hôm nay chủ thể này là bạn với ta nhưng ngày mai cũng có thể là thế lực thù địch và ngược lại. Song, để nhận diện rõ các thế lực thù địch thì phải dựa trên một nguyên tắc nhất quán là: bất cứ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của chúng ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là thế lực thù địch. Điều này càng có ý nghĩa sâu sắc hơn trong điều kiện hiện nay khi chúng ta chủ động, tích cực hội nhập quốc tế ngày càng toàn diện, sâu rộng, với phương châm “thêm bạn, bớt thù” để góp phần giữa vững nền độc lập, tự chủ của đất nước.

1.2. Tiêu chí xác định quan điểm sai trái, thù địch

Thứ nhất, quan điểm đó không đúng về mặt khoa học, nghĩa là nó không phản ánh một vấn đề khoa học thực sự, không mang lại một giá trị khoa học thực sự; đối tượng mà nó phản ánh là không rõ ràng; mang nặng tính chủ quan, thiên kiến, tư biện và thiếu tính khách quan khoa học trong phương pháp xem xét; luận giải thiếu tường minh, ngụy biện, thiếu tính tin cậy.

Thứ hai, quan điểm đó không đúng về mặt thực tiễn. Ở đây không phải là thực tiễn chung chung trừu tượng, cũng không phải là thực tiễn mù quáng hay thực tiễn của những cá nhân hoặc nhóm người đơn lẻ. Đó là thực tiễn cách mạng sáng tạo và đổi mới của đất nước, dân tộc và nhân dân; là thực tiễn được soi sáng, dẫn dắt bởi lý luận tiên phong của thời đại; là thực tiễn phổ quát được lặp lại “hàng nghìn triệu lần” bởi đông đảo quần chúng nhân dân đã và đang tiến hành hoạt động một cách hữu ích và hiệu quả vì sự phát triển của đất nước, sự tiến bộ xã hội.

Thứ ba, quan điểm đó không đúng về mặt chính trị (lập trường giai cấp). Về thực chất, quan điểm đó không xuất phát từ lợi ích, lập trường của giai cấp công nhân, của dân tộc Việt Nam; đi ngược với lợi ích quốc gia – dân tộc và nhân dân ta. Hoặc có đại diện cũng chỉ là đại diện cho nhóm nhỏ, bộ phận, không phải đại diện cho toàn bộ giai cấp công nhân, nhân dân hay toàn bộ quốc gia – dân tộc Việt Nam.

2. Một số dạng quan điểm sai trái, thù địch chống phá nền tảng tư tưởng, quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước ta hiện nay

Từ quan niệm và dựa vào các tiêu chí trên đây, có thể nêu một số dạng quan điểm sai trái, thù địch chống phá nền tảng tư tưởng, quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước ta hiện nay:

2.1. Dạng thứ nhất: Phủ nhận hoàn toàn, hoặc phủ nhận những nội dung cơ bản chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta (phủ định sạch trơn và phủ định có chủ đích, có chọn lọc)

Mục đích: Tấn công vào chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận vai trò nền tảng tư tưởng của Đảng, Nhà nước ta, đòi thay chủ nghĩa Mác – Lênin bằng hệ tư tưởng khác; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đả kích chế độ xã hội chủ nghĩa và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, nhằm hướng lái đất nước ta đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.

Về nội dung: Tấn công vào những nội dung cốt lõi, những giá trị căn cốt của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cụ thể:

– Phủ định chủ nghĩa Mác – Lênin.

Trong triết học: Họ phê phán phép biện chứng duy vật mácxít là phương pháp đại ngụy biện, “nói thế nào cũng được”. Phủ nhận học thuyết hình thái kinh tế – xã hội – xương sống của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Họ cho rằng hình thái kinh tế – xã hội chỉ là một lý thuyết về chủ nghĩa xã hội không tưởng, không bao giờ thực hiện được, theo đó, sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Đông Âu, Liên Xô là một tất yếu, được dự báo trước, có căn nguyên từ lý thuyết hình thái kinh tế – xã hội nói trên. Phủ nhận học thuyết đấu tranh giai cấp của C. Mác, phủ nhận vai trò động lực đấu tranh giai cấp trong xã hội có sự phân chia giai cấp. Phủ nhận lý luận mácxít về con người: cho rằng chủ nghĩa Mác – Lênin đề cao quyền tập thể, phủ nhận quyền cá nhân, tức phủ nhận quyền con người.

Trong kinh tế chính trị: Phủ nhận học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác, cho rằng học thuyết đó không còn đúng trong điều kiện hiện nay, khi mà chủ nghĩa tư bản đã tự điều chỉnh và thích nghi, quan tâm nhiều hơn tới người lao động, quan hệ bóc lột giữa tư bản và lao động cũng không còn như trước nữa, công nhân cũng không còn là “vô sản” như trước đây, một bộ phận công nhân đã gia nhập tầng lớp trung lưu, có mức sống khá. Ở nhiều nước tư bản, một số công nhân đã có cổ phần và trở thành cổ đông trong các công ty cổ phần, họ cũng là một thành phần tham dự phân phối lợi nhuận, v.v..

Trong chủ nghĩa xã hội khoa học: Phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Cho rằng giai cấp công nhân không có đủ trình độ, năng lực và điều kiện để lãnh đạo xã hội. Cho chủ nghĩa xã hội khoa học là học thuyết “viển vông”, đem áp dụng vào thực tế chỉ sinh ra những “quái thai của lịch sử”. Mô hình chủ nghĩa xã hội mà C. Mác đưa ra là “ảo tưởng”, không bao giờ thực hiện được.

– Phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh.

Một mặt, họ cho rằng Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc, không phải là người mácxít, không theo chủ nghĩa cộng sản; chỉ lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm phương tiện. Mặt khác, lại hạ thấp tư tưởng Hồ Chí Minh, cho Hồ Chí Minh không có tư tưởng riêng, chỉ cóp nhặt tư tưởng của những người khác. Cả hai quan niệm này đều phủ định mối liên hệ giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với một trong những nguồn gốc hình thành của nó là chủ nghĩa Mác – Lênin. Do đó, về thực chất, các quan điểm này đều nhằm phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh.

– Công kích, xuyên tạc đường lối, quan điểm của Đảng ,chính sách, pháp luật của Nhà nước ta.

Tập trung phủ nhận con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, phủ nhận mục tiêu của chủ nghĩa xã hội; ca ngợi chủ nghĩa tư bản và con đường tư bản chủ nghĩa. Họ cho rằng: “Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là con đường vòng quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa tư bản”. Sau khi chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, có quan điểm cho rằng, hiện nay ở các nước này đang thực hiện một bước “quá độ ngược từ chủ nghĩa xã hội về chủ nghĩa tư bản” (!). Cùng với phủ nhận con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, họ cũng phủ nhận định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam. Các quan điểm sai trái, thù địch cho rằng định hướng xã hội chủ nghĩa là một thứ định hướng “tù mù”, “hư ảo”, vì xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng Cộng sản muốn hướng đến là một xã hội không có thực, chính chủ thể định hướng là Đảng Cộng sản cũng còn chưa hình dung được nó là như thế nào (!). Do đó, nên gác lại mục tiêu xã hội chủ nghĩa và trở về với cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là con đường đúng đắn nhất.

Phê phán pháp luật Việt Nam, các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận tính hợp hiến, hợp pháp và tính chính đáng về sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội; tập trung phủ nhận Điều 4 trong Hiếp pháp năm 2013 của nước ta quy định Đảng Cộng sản Việt Nam lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Các quan điểm này cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay đã hết vai trò lịch sử. Đảng cầm quyền là không chính đáng, vì không được bầu lên.

Về phương thức: Tấn công trực tiếp/trực diện vào nền tảng tư tưởng và quan điểm, đường lối của Đảng ta và chính sách, pháp luật của Nhà nước ta. Kích hoạt các hành động “phản kháng” trong xã hội đối với các chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Đồng nhất bản chất của Đảng ta với những hiện tượng biểu hiện sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, từ đó quy chụp mọi khuyết điểm, sai lầm thuộc về Đảng, phủ nhận công lao của Đảng. Một số sử dụng các chiêu thức quen thuộc: ngụy biện, công kích nói xấu, bôi đen, suy diễn vô căn cứ, hạ bệ thần tượng đối với cá nhân các lãnh tụ của Đảng Cộng sản.

2.2. Dạng thứ hai: Chia cắt các bộ phận, các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chia cắt tư tưởng của các nhà kinh điển; chia cắt tư tưởng Hồ Chí Minh với quan điểm của Đảng ta

Mục đích: Làm mất/phá vỡ tính chỉnh thể, tính liên tục phát triển của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận từng mảnh, từng bộ phận và tiến tới phủ nhận toàn bộ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; làm cho bên tiếp nhận thông tin có định hướng tư duy sai lầm, dẫn đến những nhận định, quan điểm sai lầm.

Nội dung: Đem đối lập tư tưởng của C. Mác thời trẻ và tư tưởng C. Mác lúc trưởng thành. Đối lập tư tưởng của C. Mác với tư tưởng của Ph. Ăngghen; tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen với tư tưởng của V. I. Lênin. Đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lênin: cắt rời mối liên hệ tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lênin, cho rằng chủ nghĩa Mác – Lênin đã lỗi thời, không còn phù hợp với thực tiễn hiện nay, không phù hợp với Việt Nam, chỉ nên dựa vào tư tưởng Hồ Chí Minh. Tách rời hoặc đối lập những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin với những người phát triển về sau, muốn xoá bỏ toàn bộ chủ nghĩa Mác – Lênin. Hoặc giả đề cao tư tưởng của người này phủ nhận tư tưởng của người kia, thực chất là phủ định tất cả. Chẳng hạn, lợi dụng đề cao tư tưởng (dân tộc) Hồ Chí Minh để đòi xóa bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin.

Về mối liên hệ giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với quan điểm, đường lối của Đảng ta, các quan điểm sai trái, thù địch cố tách rời hoặc phủ nhận mối liên hệ hữu cơ này. Họ cho rằng Đảng ta lấy tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng, “kim chỉ nam” cho hành động, song thực chất chỉ là “bình phong”, “lá chắn” cho những hành động sai trái, Đảng “nói vậy mà không phải vậy” (!). Trên thực tế, Đảng đang ngày càng rời xa tư tưởng Hồ Chí Minh, không làm đúng những “di huấn”, những “chỉ dẫn” của Người (!). Họ cho rằng, “con đường Bác Hồ đã chọn là con đường dân tộc, không phải chủ nghĩa xã hội”, “Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là không đi theo con đường mà Bác Hồ đã chọn”(!).

Phương thức: Tìm những điểm khác biệt trong tư tưởng của các nhà kinh điển để so sánh với nhau, từ đó đối lập hoá tư tưởng của các nhà kinh điển, làm cho tư tưởng của họ trở nên trái ngược và mâu thuẫn với nhau, bất chấp điều kiện lịch sử, hoàn cảnh ra đời của những tư tưởng đó; che giấu, xuyên tạc mối liên hệ lôgích nội tại, tính chỉnh thể – toàn vẹn và xu hướng phát triển có sự bao hàm và kế thừa nhau trong quá trình hình thành, phát triển tư tưởng của các nhà kinh điển, cũng như giữa các nhà kinh điểm với nhau.

2.3. Dạng thứ ba: Xuyên tạc, bóp méo nội dung của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam

Mục đích: Làm cho nhiều người (do trình độ lý luận thấp) không phân biệt được đúng sai; đánh đồng các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin là như nhau, và về mặt bản chất là sai.

Nội dung: Tấn công vào những tư tưởng của các nhà kinh điểm trước đây đúng và hiện nay vẫn đúng và vẫn còn giá trị lâu dài, – đó là những nguyên lý nền tảng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt tập trung vào những tư tưởng trước đây đúng nhưng hiện nay có biểu hiện không phù hợp với thực tiễn mới và một số tư tưởng cụ thể đã bị thực tiễn lịch sử vượt qua, đặc biệt thực tiễn ở Việt Nam cần phải bổ sung, hoàn thiện; những tư tưởng ngay từ thời các nhà kinh điển còn sống đã thừa nhận là không đúng và những tư tưởng trước kia chúng ta nhận thức chưa đúng, cần phải nhận thức lại cho đúng.

Phương thức: Tiến công từ “điểm” đến “diện”; pha trộn, cắt xén, khoét sâu vào những tư tưởng của các nhà kinh điển có biểu hiện không phù hợp với thực tiễn mới cần phải bổ sung, hoàn thiện hoặc đã bị thực tiễn mới vượt qua. Từ đó rút ra kết luận rằng: Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là lạc hậu, lỗi thời, không phù hợp với thực tiễn, với thời đại, không nên tin và đi theo.

2.4. Dạng thứ tư: Đem đối lập một cách siêu hình, phiến diện và khiên cưỡng lý luận và thực tiễn để vừa phủ nhận lý luận khoa học vừa phủ nhận thực tiễn cách mạng của chúng ta; đánh đồng những hạn chế của lý luận và thực tiễn; dùng những sai lầm, hạn chế của thực tiễn do chủ quan của chúng ta để làm căn cứ phủ định lý luận, cho lý luận đang cản đường thực tiễn

Mục đích: Phủ nhận đối với Đảng, Nhà nước ta trên cả hai bình diện lý luận và thực tiễn, từ đó phủ nhận vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước ta.

Nội dung: Dùng lý luận để phê phán thực tiễn của Đảng, Nhà nước ta; đồng thời dùng thực tiễn để kiểm chứng phản bác lý luận, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta.

Phương thức: Ngụy biện, lợi dụng những yếu kém, hạn chế của chúng ta cả trong công tác lý luận và thực tiễn tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để tập trung chống phá, hạ thấp, phủ nhận những thành tựu mà chúng ta đã đạt được; “thổi phồng, bơm to” những khuyết điểm, yếu kém của chúng ta.

Nhận diện, nhận dạng các quan điểm sai trái, thù địch chống phá nền tảng tư tưởng, quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước ta chính là “chỉ mặt, gọi tên” và làm “hiện hình” nguyên bản các quan điểm sai trái, thù địch. Đây là một quá trình không hề dễ dàng, không làm một lần là xong, mà luôn phải được bổ sung, phát triển. Bởi lẽ, nhận thức là một quá trình “đi sâu một cách vô hạn”, ngày càng tiệm cận đầy đủ, sâu sắc về bản chất đối tượng mà nó phản ánh. Hơn nữa, các quan điểm sai trái, thù địch cũng không phải là bất biến, mà bản thân nó cũng vận động, biến hình, biến dạng để thích ứng với mọi điều kiện, hoàn cảnh và tình hình mới. Chủ thể của các quan điểm sai trái, thù địch cũng không ít thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt để “phù phép”, “biến hóa” các quan điểm của họ, kể cả “giả danh”, “khoác áo” của chúng ta để chống lại chính chúng ta. Để nhận dạng đúng các quan điểm sai trái, thù địch, cần phải dựa chắc vào thế giới quan và phương pháp luận mácxít, đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, xuất phát từ lợi ích quốc gia, dân tộc, bình tĩnh, tỉnh táo xem xét, xử lý thấu đáo vấn đề; không được đơn giản, hời hợt, vội vàng./.

Nguồn: Nhân Văn Việt

 

ĐẨY LÙI NGUY CƠ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ TỒN VONG CỦA CHẾ ĐỘ “KHÔNG NGỦ QUÊN TRÊN “VÒNG NGUYỆT QUẾ” !

 Nhìn lại chặng đường hơn 35 năm đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Những thành tựu đó là cả quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Nhưng chúng ta cũng không ngủ quên trên “vòng nguyệt quế” bởi nguy cơ tụt hậu về kinh tế vẫn hiện hữu.

Thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử

Dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, công cuộc đổi mới đất nước thực sự mang lại những thay đổi to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

Quá trình tiến hành khảo sát ở một số địa phương trên cả nước, khi đặt vấn đề với các thế hệ trưởng thành trước đổi mới (năm 1986), nhiều người vẫn còn ám ảnh bởi sự tàn phá nặng nề của chiến tranh và những năm thiếu đói triền miên, người dân, nhất là nông dân làm không đủ no. Sau chiến tranh, các nước đế quốc áp đặt bao vây cấm vận kinh tế với Việt Nam trong suốt gần 20 năm, khoảng 3/4 dân số sống dưới mức nghèo khổ. “Lương thực, thực phẩm khan hiếm do nước ngoài cấm vận. Trong nước, cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp khiến người nông dân không mặn mà với ruộng đồng. Gia đình tôi cũng như nhiều người dân khác trong vùng thiếu đói triền miên”, ông Nguyễn Văn Bình (78 tuổi) ở xã Kim Chung, huyện Hoài Đức, TP Hà Nội chia sẻ.

Tại Đại hội VI (tháng 12-1986), Trung ương Đảng đề ra đường lối đổi mới toàn diện, đánh dấu bước chuyển rất quan trọng trong nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội (CNXH), về thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Đại hội VI đã cụ thể hóa quan điểm mới về cơ cấu kinh tế, về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong chặng đường đầu tiên, từ đó đề ra chủ trương tập trung cho "3 chương trình kinh tế lớn". Đại hội có quan điểm mới về cải tạo XHCN, coi cải tạo XHCN là nhiệm vụ thường xuyên, phải trải qua thời gian dài và liên tục với những bước đi, hình thức thích hợp. Đại hội nhận rõ, ngay khi quan hệ sản xuất XHCN chiếm ưu thế vẫn tồn tại những thành phần kinh tế khác, như kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa, kinh tế tư bản tư nhân ở mức độ nhất định...

Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế nước ta bắt đầu có những bước chuyển động tích cực và phát triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt hơn 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỷ USD, trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN; thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008.

Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay, Việt Nam không những bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ liên tục tăng và hiện chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt hơn 540 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 280 tỷ USD. Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỷ USD vào cuối năm 2020. Tỷ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều (tiêu chí cao hơn trước).

Cũng nhờ kinh tế có bước phát triển nên đời sống văn hóa cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hóa phát triển phong phú, đa dạng. Hiện Việt Nam có hơn 70% dân số sử dụng internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển.

Đại hội XIII của Đảng một lần nữa khẳng định và nhấn mạnh: Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới.

Trong thời gian qua, chúng tôi có dịp khảo sát tại nhiều địa phương trong cả nước. Mỗi người dân dù ở miền núi hay vùng biển, thành phố hay nông thôn đều có chung cảm nhận: Diện mạo đất nước đổi thay từng ngày. Đặc biệt đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, trong những năm qua, nhờ có sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, sự đoàn kết vượt khó vươn lên của đồng bào các dân tộc, kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã có bước phát triển vượt bậc. Hiện nay, 98,4% xã có đường ô tô đến trung tâm, tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số được sử dụng điện lưới đạt 96.7%; 100% xã có trường tiểu học, THCS; 99,7% xã có trường mầm non, mẫu giáo; 99,5% xã có trạm y tế; 76,7% thôn có nhà văn hóa sinh hoạt cộng đồng...

Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên CNXH là đúng đắn. Những kết quả đạt được sau hơn 35 năm đổi mới là minh chứng cụ thể nhất, sinh động và thuyết phục nhất để đập tan các luận điệu xuyên tạc về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.

Chúng ta sẽ tụt hậu nếu...

Ngày 28-3-2021, tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, khi giới thiệu, quán triệt chuyên đề về Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2021-2030 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2021-2025, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc (nay là Chủ tịch nước) đã khẳng định: “Cán bộ, đảng viên chúng ta đều có nguyện vọng đưa đất nước tiến bước. Đây là truyền thống quý, không chịu đói nghèo, không chịu tụt hậu, không chịu thua kém. Tất cả điều đó cũng là sự hiện thực hóa ước nguyện của Bác Hồ, đưa dân tộc Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu và mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân... Áp lực đối với chúng ta là liên tục tăng trưởng cao. Các nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc có 2-3 thập niên liền liên tục tăng trưởng cao. Việt Nam hoàn toàn có khả năng tăng trưởng cao, nếu không có biện pháp để tăng trưởng cao thì sẽ tụt hậu, không phát triển bền vững, nghèo, thu nhập thấp, lạc hậu”.

Sau hơn 35 năm đổi mới, nhìn tổng quát, thế và lực của nước ta mặc dù đã mạnh hơn trước nhưng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, nhiều nút thắt vẫn chưa được khơi thông; nguy cơ tụt hậu, nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình còn rất lớn, nhất là một số nhóm yếu tố, nhóm dễ bị tổn thương trước các biến động kinh tế... Đặc biệt, Việt Nam sẽ tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức trong bối cảnh dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp, nền kinh tế có độ mở lớn và chịu tác động đan xen nhiều mặt bởi tình hình kinh tế quốc tế ngày càng khó lường; những căng thẳng địa chính trị, sự gia tăng bảo hộ thương mại và các rủi ro tài chính... Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra cơ hội lớn cho các nước đang phát triển có thể đuổi kịp nước giàu, nhưng cũng đi kèm theo nhiều thách thức bị bỏ lại hoặc lệ thuộc hơn vào nước giàu.

Đại hội XIII của Đảng đã đề ra mục tiêu cụ thể: Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa XHCN Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Để đạt mục tiêu đề ra, chúng ta phải đổi mới tư duy phát triển, thay đổi cách làm. Chính phủ thể hiện rõ sự điều hành linh hoạt trong đại dịch Covid-19 khi có những chính sách phù hợp, đặc biệt là Nghị quyết 128 được ban hành thực sự đã thổi một luồng sinh khí mới vào nền kinh tế Việt Nam. GDP năm 2021 ước tính tăng 2,58%; thu ngân sách nhà nước ước tính cả năm 2021 đạt 1.523,4 nghìn tỷ đồng, bằng 113,4% dự toán năm (tăng 180,1 nghìn tỷ đồng). Việt Nam cũng trở thành một trong 20 nước thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn nhất thế giới.

Đầu năm 2022, lần đầu tiên Quốc hội khóa XV tổ chức Kỳ họp bất thường lần thứ nhất. Tại kỳ họp này, Quốc hội xem xét, quyết định thông qua những nội dung quan trọng, như: Nghị quyết về chính sách tài khóa, tiền tệ để hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Đầu tư...; Nghị quyết về chủ trương đầu tư Dự án xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc-Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025; Nghị quyết thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP Cần Thơ... Phát biểu bế mạc kỳ họp, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nhấn mạnh: “Tinh thần và kết quả của Kỳ họp bất thường lần thứ nhất, Quốc hội khóa XV đã tạo ra những khí thế mới, thời cơ mới, cùng với các chính sách mới được ban hành, sự điều hành quyết liệt của Chính phủ, sự vào cuộc của các cấp, các ngành và cả hệ thống chính trị, sự ủng hộ, đồng lòng của nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, chúng ta tin tưởng sẽ thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội năm 2022 và cả giai đoạn 2021-2025, đất nước sẽ tiếp tục phát triển bền vững, đời sống người dân sẽ được nâng cao, niềm tin của nhân dân sẽ càng được củng cố vững chắc”.

Quyết tâm của cả hệ thống chính trị được thể hiện rõ nét nhất, sinh động nhất khi ngay đầu Xuân 2022, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tiến hành chuyến đi “xuyên Tết, xuyên Việt” khảo sát từ Bắc vào Nam, trực tiếp chỉ đạo, giải quyết những vướng mắc trong triển khai một số dự án trọng điểm. Để thực hiện mục tiêu đã đề ra, Thủ tướng nhiều lần nhấn mạnh, đối với các bộ, ngành, địa phương: Quyết tâm phải rất cao, nỗ lực phải rất lớn, hành động quyết liệt, hiệu quả, xác định trọng tâm, trọng điểm để lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư nguồn vốn, tổ chức thực hiện khoa học, hợp lý, hiệu quả.

Với niềm tin và khát vọng vươn lên mạnh mẽ, Việt Nam đã và đang bứt phá, nhanh chóng rút ngắn khoảng cách phát triển với khu vực và thế giới, nỗ lực phấn đấu hướng tới mục tiêu sớm trở thành nước thu nhập trung bình cao, tránh nguy cơ tụt hậu...

Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ nhiệm kỳ 2021-2026, trong bối cảnh, tình hình có nhiều khó khăn, thách thức lớn hơn trước và gay gắt hơn so với dự báo, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã yêu cầu Chính phủ cần tập trung “ưu tiên thực hiện 6 nhiệm vụ trọng tâm và 3 đột phá chiến lược, xử lý dứt điểm những “điểm nghẽn”, vướng mắc, tồn tại để phát triển đất nước nhanh và bền vững hơn trên cơ sở tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của đất nước”, xứng đáng với vị thế là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất; trực tiếp tổ chức, quản lý, triển khai thực hiện hiệu quả mọi chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Nhóm PV Báo QĐND

 

CẢNH GIÁC TRƯỚC CHIÊU TRÒ XUYÊN TẠC ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ XUNG ĐỘT NGA - UKRAINE

Trước những diễn biến căng thẳng giữa Nga và Ukraine trên các diễn đàn, mạng xã hội xuất hiện một số bài viết với lối suy diễn ác ý, xuyên tạc về quan điểm của Việt Nam đối với tình hình tại Ukraine hòng nhằm hạ thấp uy tín của Đảng, Nhà nước và làm xấu hình ảnh của Việt Nam với cộng đồng quốc tế khiến dư luận rất bất bình.

Ngày 24/2/2022, Nga phát động “chiến dịch quân sự đặc biệt” tại Ukraine với cơ sở đưa ra là quyền tự vệ theo Điều 51 Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 và nhằm chấm dứt hành vi bị cho là “diệt chủng” của Ukraine tại vùng Donetsk và Luhansk. Chiến tranh khiến hàng triệu người dân Ukraine cần viện trợ nhân đạo của cộng đồng quốc tế. Cộng đồng quốc tế mong muốn Nga và Ukraine sớm tìm ra giải pháp hòa bình và chấm dứt cuộc chiến này.

Ngày 27/2, Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc thông qua Nghị quyết 2623 (2022), quyết định triệu tập phiên họp đặc biệt khẩn cấp của Đại hội đồng Liên hợp quốc liên quan tình hình tại Ukraine. Đây là cơ hội để 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc lên tiếng và thúc đẩy các bên tìm kiếm giải pháp hòa bình.

Ngày 1/3, Đại sứ Đặng Hoàng Giang-Trưởng Phái đoàn Thường trực của Việt Nam tại Liên hợp quốc phát biểu và khẳng định lập trường, quan điểm của Việt Nam rằng, một khi chiến tranh nổ ra chỉ gây đau khổ vô tận cho người dân. Đại sứ nhấn mạnh, trong bối cảnh hiện nay, “mọi tranh chấp quốc tế cần được giải quyết bằng các biện pháp hòa bình, dựa trên các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên hợp quốc, bao gồm các nguyên tắc về bình đẳng chủ quyền, độc lập chính trị và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia và không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực”.

Một lần nữa khẳng định quan điểm của Việt Nam về cuộc chiến của Nga tại Ukraine, bà Lê Thị Thu Hằng - người phát ngôn Bộ Ngoại giao đã khẳng định khi trả lời báo chí về việc bỏ phiếu của Việt Nam trong phiên họp khẩn cấp của Hội đồng Bảo an, “Việt Nam luôn theo dõi sát sao và hết sức quan ngại về tình hình Ukraine” và cho rằng “ưu tiên hiện nay là cần kiềm chế tối đa, chấm dứt các hành động sử dụng vũ lực để tránh gây thương vong và tổn thất đối với dân thường, nối lại đối thoại và đàm phán thông qua tất cả các kênh nhằm đạt được các giải pháp lâu dài có tính đến lợi ích chính đáng của tất cả các bên trên cơ sở phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc và các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế”.

Điều này phù hợp tinh thần được quy định tại Điều 12 Hiến pháp 2013 của Việt Nam-đạo luật có giá trị cao nhất, rằng “nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”.

Như vậy, Việt Nam luôn nhất quán từ văn bản pháp lý đến tuyên bố, phát ngôn khi đưa ra quan điểm của quốc gia về cuộc chiến tại Ukraine là kêu gọi chấm dứt hành vi sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, về giải pháp đối thoại và tìm kiếm giải pháp lâu dài cho các bên để kiềm chế leo thang hoạt động vũ trang. Việt Nam không thiên vị bên nào mà đứng về lẽ phải và công lý. Bởi đây cũng là thông điệp rõ ràng của Đại hội đồng Liên hợp quốc: Hãy mở rộng cánh cửa đối thoại và ngoại giao ngay từ bây giờ.

Bất chấp thực tế đó, thời gian qua, tại một số diễn đàn đã xuất hiện những bình luận cho rằng quan điểm này của Việt Nam là “mơ hồ, không rõ ràng”. Chúng ta cần nhận biết rằng, Việt Nam là quốc gia đã trải qua nhiều cuộc chiến, hiểu rõ sự tàn phá và những thương đau của chiến tranh và như vậy càng hiểu rõ, quý trọng cái giá của hòa bình, khát vọng hòa bình. Những bình luận kích động đã lộ rõ ý đồ nhằm tạo ra những căng thẳng, xung đột trong nội bộ, gây chia rẽ mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước bạn. Không dừng ở đó, còn có các bài viết với nội dung nhằm kích động người dân khi đưa ra thăm dò ý kiến người đọc để tìm kiếm cái được gọi là bằng chứng “người dân ủng hộ đa số”, quan điểm của Nhà nước Việt Nam “chỉ là thiểu số”.

Trên các trang báo nước ngoài còn tỏ ra nghi vấn về thái độ của Nhà nước, quy chụp rằng Việt Nam quay lưng với hòa bình. Hành động này đã lộ rõ âm mưu đằng sau là hạ thấp uy tín của Nhà nước đối với người dân, từ đó hướng lái đến vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước. Với cách phỏng vấn một số cá nhân có nhận thức phiến diện được cho là “chuyên gia”, nhưng thực chất nội dung trao đổi lộ rõ động cơ chống phá Đảng, Nhà nước và làm xấu đi hình ảnh của Việt Nam trong quan hệ quốc tế từ vấn đề của Ukraine.

Thực tiễn đã chứng minh, Nga và Ukraine đều là các đối tác quan trọng của Việt Nam. Tình hữu nghị thân thiết giữa Việt Nam và Nga, Việt Nam và Ukraine luôn bền vững trong thời gian qua và mở rộng trên tất cả lĩnh vực chính trị-ngoại giao, thương mại, văn hóa-xã hội, khoa học-công nghệ… Việc Việt Nam kêu gọi các bên tìm kiếm giải pháp lâu dài trên cơ sở tính đến lợi ích và quan ngại của các bên; tôn trọng pháp luật quốc tế; chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia; quan tâm đến an toàn của cư dân đang sinh sống tại Ukraine cũng như các hoạt động cứu trợ nhân đạo, là phù hợp tình hình hiện nay.

Sự lựa chọn này sẽ không làm phức tạp thêm tình trạng căng thẳng, không làm sâu sắc hơn cuộc xung đột và không tạo ra các làn sóng biểu tình ủng hộ một bên ngay trong lòng quốc gia mình. Đây cũng là sự lựa chọn của rất nhiều quốc gia trên thế giới khi bỏ phiếu trắng khi thông qua hai Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc. Bởi quan hệ ngoại giao nhất quán của Việt Nam là chọn chính nghĩa.

 

VÌ SAO CHỦ NGHĨA TƯ BẢN NHẤT ĐỊNH SẼ DIỆT VONG, CHỦ NGHĨA XÃ HỘI SẼ LÀ TƯƠNG LAI CỦA NHÂN LOẠI?

 Khi nghiên cứu về quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, cả C.Mác, Ph.ĂngGhen và V.I.Lênin đều khẳng định rằng chủ nghĩa tư bản sẽ đi đến chỗ diệt vong, tương lại nhân loại sẽ là chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.

Vậy nhận định của các ông liệu có chủ quan duy ý chí?

Trước hết, phải nhìn nhận chủ nghĩa tư bản là một nấc thang trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại. C.Mác đánh giá: Chủ nghĩa tư bản là xấu xa so với chủ nghĩa cộng sản, nhưng nó là một hình thái kinh tế, xã hội tiến bộ nhất so với những hình thái kinh tế, xã hội đã có trong lịch sử. Và sự điều chỉnh, thích nghi của chủ nghĩa tư bản đương đại được thực hiện trên nhiều phương diện, nhất là quan hệ sản xuất.

Trở lại lịch sử những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, trước sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô, các học giả tư sản “rêu rao” về chiến thắng của chủ nghĩa tư bản, cho đây là thời điểm “cáo chung của học thuyết Mác”, rằng chủ nghĩa xã hội đã “lỗi thời, lạc hậu”, và chủ nghĩa tư bản mới là đích đến cuối cùng của nhân loại. Đồng thời, bằng những điều chỉnh để tự thích nghi về quan hệ sản xuất, họ cũng biện minh cho một thứ chủ nghĩa tư bản đã có sự thay đổi về chất để trở thành chủ nghĩa tư bản hiện đại, chủ nghĩa tư bản nhân dân, chủ nghĩa tư bản tiến bộ… Vậy, những điều chỉnh về quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản đương đại là gì?.

Về quan hệ sở hữu: Ngoài đối tượng sở hữu đã có những thay đổi lớn (từ sở hữu hiện vật sang giá trị), với việc chia nhỏ cổ phần, phát hành cổ phiếu mệnh giá thấp, chủ nghĩa tư bản đã huy động được hàng triệu nguồn vốn nhỏ lẻ, nhàn rỗi trong các tầng lớp nhân dân tập trung thành nguồn lực to lớn phục vụ cho sản xuất, kinh doanh, phần nào làm cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa còn phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tạo “không gian” cho chủ nghĩa tư bản tiếp tục phát triển. Sự điều chỉnh về quan hệ sở hữu phần nào “xóa đi” ranh giới giữa nhà tư bản với người lao động, tạm thời dung hòa mâu thuẫn giữa ông chủ và người làm thuê. Bởi về mặt hình thức, cả nhà tư bản và người lao động đều có cổ phần và trở thành cổ đông của nhà máy, xí nghiệp nên đều là “ông chủ” - đồng sở hữu, đều “bình đẳng” trước phương án tổ chức quản lý và kết quả sản xuất kinh doanh.

Về quan hệ tổ chức quản lý sản xuất: Trong chủ nghĩa tư bản đương đại, ta thấy dường như các nhà tư bản tách rời và đứng ngoài quá trình tổ chức quản lý sản xuất. Bằng việc áp dụng những thành tựu khoa học, công nghệ và sử dụng những người lao động có trình độ cao về tổ chức quản lý sản xuất, các nhà tư bản đã từng bước hoàn thiện quy trình sản xuất, đồng thời chọn lựa đưa ra được những phương án kinh doanh tối ưu. Các nhà tư bản không còn trực tiếp hiện diện trong các dây chuyền sản xuất như vai trò của những người “đốc công”. Quan hệ trong quá trình tổ chức sản xuất kinh doanh dường như chỉ còn lại là quan hệ giữa những người lao động với nhau. Có chăng chỉ là sự khác biệt về “sắc áo, lợi ích và thẩm quyền”. Mâu thuẫn, xung đột trực diện giữa các nhà tư bản và lao động dường như đã được giải quyết.

Về quan hệ phân phối: Bên cạnh các hình thức phân phối thông qua giá cả sức lao động, trong chủ nghĩa tư bản đương đại cũng xuất hiện nhiều hình thức phân phối khác đa dạng, phong phú hơn. Bao gồm: Điều tiết phân phối giá trị thặng dư thông qua thuế; phân phối thông qua lợi tức cổ phần; trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp xã hội; các hình thức đầu tư cho giáo dục đào tạo; chăm sóc sức khỏe; tăng mức “thưởng và đãi ngộ cho người lao động”… phần nào tạo ra nguồn thu nhập thêm cho người lao động. Sự bóc lột của nhà tư bản không còn “đậm nét” như những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX mà thay vào đó là hình ảnh của các nhà tư bản “quan tâm, chăm sóc và sẻ chia” cùng người lao động.

Như vậy, sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản đã làm cho hình ảnh “cừu ăn thịt người” với “lỗ chân lông nhuốm đầy máu và nước mắt của giai cấp vô sản” của chủ nghĩa tư bản “bóc lột, ăn bám”, “tàn nhẫn” trong quá khứ bị lu mờ. Thay vào đó là hình ảnh về một chủ nghĩa tư bản “hiện đại, tiến bộ”, “chủ nghĩa tư bản nhân văn, nhân ái”… Tuy nhiên, chúng ta hoàn toàn có thể giải thích khoa học cả về hiện tượng, hình thức, mục đích, nguyên nhân và giới hạn của sự điều chỉnh thích nghi của chủ nghĩa tư bản đương đại.

Cần khẳng định: Sự biến đổi thích nghi về quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản đương đại là có thật nhưng sự điều chỉnh đó không thể tự nó chuyển sang một hình thái kinh tế - xã hội mới. Sự điều chỉnh đó vẫn trong phạm vi giới hạn vỏ bọc của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, chủ nghĩa tư bản ngày nay vẫn nằm trong giai đoạn độc quyền của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Có thể cắt nghĩa vấn đề trên bằng những luận cứ khoa học sau:

Một là, về quan hệ sở hữu: Mặc dù có sự đa dạng về sở hữu, nhưng vấn đề đặt ra là trong hàng triệu triệu cổ phần của các doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa, người lao động nắm tỉ lệ bao nhiêu? Ai vẫn là người nắm số lượng cổ phần, cổ phiếu lớn hoặc giữ tỉ lệ cổ phiếu chi phối?... Câu trả lời chắc chắn vẫn là các nhà tư bản. Thông qua chế độ tham dự, theo mô hình một công ty mẹ khống chế nhiều công ty con, một công ty con khống chế nhiều công ty cháu... mà quyền lực kinh tế, chính trị, xã hội của nhà tư bản, của các tổ chức độc quyền tăng lên. Vì vậy, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện nay vẫn dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Những điều chỉnh thích nghi về quan hệ sở hữu trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hiện nay làm cho nó phù hợp được phần nào đó với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nhằm mục tiêu tiếp tục duy trì và củng cố chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản về tư liệu sản xuất, tuy nhiên, bản chất của quan hệ sở hữu không thay đổi.

Hai là, về tổ chức quản lý sản xuất: Trong tổ chức quản lý sản xuất, việc thuê mướn hoặc sa thải (kể cả giám đốc điều hành sản xuất, giám đốc kỹ thuật, giám đốc marketing, thậm chí cả giám đốc tài chính …) đều do các nhà tư bản quyết định. Những điều chỉnh thích nghi về quan hệ tổ chức quản lý sản xuất nhằm khai thác tối đa nguồn lực con người, tiềm lực khoa học, công nghệ phục vụ cho khát vọng làm giàu của nhà tư bản và toàn bộ giai cấp tư sản. Sự điều chỉnh thích nghi về tổ chức quản lý đã tạo ra sự thích ứng nhất định để thúc đẩy xã hội hoá lực lượng sản xuất tạo điều kiện cho kinh tế phát triển. Tuy nhiên, do tư liệu sản xuất thuộc quyền chiếm hữu của nhà tư bản nên quyền tổ chức quản lý sản xuất vẫn do giai cấp tư sản điều hành, chi phối và mang tính chất tư bản chủ nghĩa. Quan hệ giữa nhà tư bản với công nhân vẫn là quan hệ giữa ông chủ và người làm thuê.

Ba là, trong quan hệ phân phối: Thực hiện trả lợi tức cổ phần và sử dụng một bộ phận lợi nhuận khổng lồ để phân phối thông qua các quỹ không làm cho bản chất của quan hệ phân phối thay đổi. Nhìn nhận một cách khác, việc điều chỉnh quan hệ phân phối sản phẩm phần nào góp phần cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người công nhân làm thuê. Tuy nhiên, những điều chỉnh về quan hệ phân phối đã làm cho một số người lầm tưởng rằng chủ nghĩa tư bản không còn là xã hội bóc lột và bất công, là “chủ nghĩa tư bản nhân dân”, xã hội mà “toàn dân là tư sản”, từ đó gây ra sự chia rẽ trong phong trào đấu tranh của công nhân.

Những sự điều chỉnh, thích nghi ấy không làm thay đổi bản chất của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản không thể tự mình vượt ra ngoài vỏ bọc của chính nó để biến thành một hình thái kinh tế - xã hội mới. Đó cũng chính là giới hạn của sự biến đổi thích nghi, quy định địa vị lịch sử của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa nói chung và của chủ nghĩa tư bản giai đoạn độc quyền nói riêng. Giới hạn mà chủ nghĩa tư bản không thể vượt qua chính là lực lượng sản xuất đã phát triển ở trình độ cao, tạo ra một khối lượng hàng hoá vật phẩm và dịch vụ khổng lồ, lẽ ra nhân loại sẽ không còn đói nghèo, thất nghiệp, thất học và nợ nần v.v. để từng bước đạt tới đỉnh cao của văn minh và hạnh phúc. Nhưng trên thực tế, ngay ở những nước tư bản phát triển nhất, tình trạng bóc lột, bất công, đói nghèo vẫn đang diễn ra và ngày càng sâu sắc hơn. Nguyên nhân của những tình trạng này là do quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất vẫn giữ địa vị thống trị trong nền kinh tế. Quan hệ sản xuất đó mâu thuẫn ngày càng sâu sắc hơn với lực lượng sản xuất đã xã hội hoá ở trình độ cao. Đây chính là mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại và được biểu hiện về mặt xã hội thành những mâu thuẫn chủ yếu sau:

Thứ nhất, mâu thuẫn giữa tư bản với lao động làm thuê: Hiện nay, giai cấp công nhân hiện đại có trình độ chuyên môn ngành nghề ngày càng cao, trong số đó có người giữ các chức vụ là giám đốc, tổng giám đốc... Nhưng xét cho cùng vì không có tư liệu sản xuất nên họ vẫn ở địa vị của người làm thuê, vẫn phải làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản. Tiền lương vẫn là thu nhập chủ yếu và vẫn là giá cả sức lao động của người công nhân làm thuê. Họ vẫn đang bị bần cùng hoá (cả tương đối và tuyệt đối).

Thứ hai, mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển với các nước đang phát triển, chậm phát triển: Sau sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ và chủ nghĩa thực dân kiểu mới, các nước tư bản phát triển vẫn không từ bỏ ý đồ lôi kéo các nước đang phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa nhằm áp đặt quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trên phạm vi toàn cầu. Theo đó, từ những năm 80 của thế kỉ XX trở lại đây, người ta nói nhiều về “chủ nghĩa thực dân kinh tế”, “chủ nghĩa thực dân công nghệ”. Chính mối quan hệ kinh tế bất bình đẳng giữa các nước tư bản phát triển với các nước thế giới thứ ba đã đem lại những khoản siêu lợi nhuận cho các tập đoàn, công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia. Nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, sức lao động dồi dào và rẻ mạt đã biến các nước có nền kinh tế lạc hậu thành những miền đất hứa cho tư bản sinh sôi và cho những công nghệ, thiết bị lạc hậu của các nước tư bản phát triển tiếp tục “sản sinh” giá trị thặng dư cho giai cấp tư sản.

Thứ ba, mâu thuẫn giữa các tổ chức độc quyền tư bản, giữa các công ty xuyên quốc gia, giữa các trung tâm quyền lực tư bản chủ nghĩa với nhau: Đây là mâu thuẫn nội bộ của chủ nghĩa tư bản, nó đã từng tồn tại trong suốt cả thế kỷ XX và vẫn tiếp diễn sang thế kỷ XXI. Chính mâu thuẫn này đã đẩy nhân loại lâm vào hai cuộc chiến tranh thế giới tàn khốc nhất trong lịch sử. Hiện tại, mâu thuẫn giữa các trung tâm quyền lực kinh tế tư bản chủ nghĩa gay gắt tới mức người ta đã dùng tới những thuật ngữ như: chiến tranh địa chính trị; chiến tranh cá thu, chiến tranh ôtô; chiến tranh nhôm, thép; chiến tranh vaccine…  Đặc biệt, thời gian gần đây mâu thuẫn giữa Mỹ với Liên minh châu Âu (EU), giữa Mỹ với các nước tư bản khác trên các vấn đề thương mại, sự đóng góp tài chính cho các hoạt động quân sự… chính là liên minh trong mâu thuẫn đã được V.I.Lênin khái quát bằng cụm từ “liên minh chó sói”.

Thứ tư, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội và những vấn đề toàn cầu: Đầu những năm 90 của thế kỷ XX, sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, có người cho rằng chủ nghĩa xã hội không còn và như vậy, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội cũng không còn nữa. Trên thực tế, chủ nghĩa xã hội vẫn tồn tại ở một số quốc gia, vẫn là một thực thể kinh tế - chính trị - xã hội đối lập với chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa xã hội vẫn là một trào lưu chính trị - tư tưởng ở các nước tư bản, các nước có xu hướng dân tộc chủ nghĩa và ở ngay chính cả những nước mà chế độ xã hội chủ nghĩa đã bị tan rã cách đây trên dưới 3 thập niên. Đặc biệt, khi phần lớn những lợi nhuận của xã hội chỉ tập trung vào trong tay số ít các nhà tư bản, sự bất bình đẳng trong xã hội tiếp tục gia tăng thì những vấn đề toàn cầu đói nghèo, dịch bệnh, sự biến đổi của khí hậu, chiến tranh, tội phạm quốc tế… sẽ không thể giải quyết được một cách triệt để.