Từ nhiều năm trước và đến hiện nay, các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội chính trị ở cả trong nước và nước ngoài thường xuyên chống phá Đảng, Nhà nước, công cuộc đổi mới, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc XHCN của nhân dân ta vẫn xuyên tạc rằng, không có nền kinh tế nào là nền KTTT định hướng XHCN; KTTT, các quy luật của KTTT và định hướng XHCN là những yếu tố đối lập nhau, loại trừ nhau; ghép định hướng XHCN vào KTTT là sự gán ghép chủ quan, duy ý chí, không có cơ sở khoa học, không thuyết phục, làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn; nếu bỏ, không có cái đuôi “định hướng XHCN” thì kinh tế đất nước còn phát triển nhanh hơn, kết quả đạt được còn lớn hơn. Do đó, mặc dù Việt Nam đã tuyên truyền, vận động, nhưng nhiều nước vẫn chưa công nhận kinh tế Việt Nam là KTTT.
Họ còn cho
rằng: Một mặt, Nhà nước ta chủ trương phát triển KTTT, phát triển kinh tế nhiều
thành phần, đa dạng các hình thức sở hữu; doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế được bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật. Nhưng mặt khác,
Nhà nước ta lại xác định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước
cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
thì như vậy là có sự phân biệt đối xử, không thể bình đẳng. Do đó, không thể có
KTTT thật sự, KTTT theo thông lệ quốc tế. Hơn nữa, Nhà nước ta lại xác định
KTTN là một động lực quan trọng của nền kinh tế, được khuyến khích phát triển
thành các tổng công ty, tập đoàn kinh tế mạnh, hoạt động cả trong nước và ngoài
nước thì nền KTTT sẽ phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa như các nước tư
bản khác chứ không phải phát triển theo định hướng XHCN. Nói định hướng XHCN
chỉ là chủ quan, duy ý chí hay là tự lừa dối chính mình, lừa dối người khác mà
thôi...
Những luận
điệu như vậy không phải là không có tác động đến cán bộ, đảng viên, nhân dân,
làm một số người băn khoăn, ảnh hưởng xấu đến sự thống nhất nhận thức, tư tưởng
trong Đảng và trong xã hội; làm giảm lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước,
vào con đường đi lên CNXH; ảnh hưởng tới việc thực hiện có hiệu quả chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, cần phải được đấu
tranh, phản bác.
Thứ nhất, Sai
lầm của những người cho rằng không thể có nền KTTT định hướng XHCN, thứ nhất,
là do họ đã đồng nhất KTTT với KTTT chủ nghĩa tư bản, cho rằng, chỉ có một loại
KTTT là KTTT tư bản chủ nghĩa (TBCN). Song, thực chất các quan hệ KTTT và các
quan hệ tư bản là hoàn toàn khác nhau. Nguồn gốc và bản chất của KTTT là kinh
tế hàng hóa; các phạm trù giá trị, giá cả, hàng hóa, tiền tệ, các quy luật cạnh
tranh, quy luật cung - cầu, quy luật giá trị của kinh tế hàng hóa cũng là các
phạm trù và quy luật của KTTT. Các phạm trù, quy luật này có trước chủ nghĩa tư
bản, được chủ nghĩa tư bản nắm lấy, sử dụng để phát triển thành KTTT TBCN. Giá
trị và tư bản là những phạm trù khác nhau, cũng như quy luật giá trị và quy
luật giá trị thặng dư là những quy luật khác nhau.
Thứ hai, sai
lầm của những người này là dường như cho rằng KTTT TBCN từ khi ra đời đến nay
là không thay đổi, “nhất thành, bất biến”. Họ không thấy rằng trải qua thời
gian, KTTT TBCN cũng có nhiều biến đổi. Thời kỳ đầu khi mới ra đời, KTTT TBCN
là KTTT tự do cạnh tranh, chưa có sự can thiệp của nhà nước. Sự điều tiết của
“bàn tay vô hình” của thị trường đã đưa đến nhiều hệ quả tiêu cực, đặc biệt là
các cuộc khủng hoảng kinh tế chu kỳ, đòi hỏi phải có bàn tay quản lý của nhà
nước để hạn chế, khắc phục những khuyết tật do điều tiết tự phát của cơ chế thị
trường. Ngày nay, nền KTTT hiện đại của các nước tư bản phát triển trên thế
giới đều là nền KTTT có sự quản lý của nhà nước, vừa có điều tiết bởi “bàn tay
vô hình” của thị trường, vừa có điều tiết bằng “bàn tay hữu hình” của nhà nước;
trong đó, điều tiết của thị trường là cơ sở, nền tảng và điều tiết của nhà nước
trên cơ sở tôn trọng điều tiết của thị trường (công cụ quản lý, điều tiết kinh
tế của nhà nước là luật pháp, chính sách và các nguồn lực kinh tế của nhà nước).
Kinh tế thị
trường là sản phẩm của văn minh nhân loại. Chủ nghĩa tư bản đã lấy KTTT làm cơ
sở cho sự tồn tại, vận động, phát triển của mình. Trong thời đại ngày nay, thời
đại quá độ lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới, đã xuất hiện nhiều mô hình KTTT
ở các nước tư bản phát triển, dù ở mức độ khác nhau, đều có định hướng xã hội.
Đây là xu hướng tiến bộ, là những mầm mống của CNXH trong lòng chủ nghĩa tư bản
(là những sự phủ định đối với tư bản tư nhân, dù vẫn chưa phá bỏ được chế độ tư
bản). Do tính chất của thời đại, một nước kinh tế chưa phát triển, chưa qua
giai đoạn phát triển TBCN, cũng có thể quá độ lên CNXH. Kinh tế thị trường định
hướng XHCN là mô hình kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở những nước này,
sử dụng cả KTTT và cả kinh tế TBCN để xây dựng nền tảng cơ sở vật chất cho
CNXH.
Về sai lầm của
luận điểm cho rằng các quy luật của KTTT và định hướng XHCN hoàn toàn đối lập,
loại trừ nhau: Là một nền KTTT thì phải vận hành theo các quy luật của KTTT. Đó
là các quy luật cạnh tranh, quy luật cung - cầu, quy luật giá trị, quy luật lưu
thông tiền tệ, trong đó trung tâm là quy luật giá trị. Đặc trưng của KTTT là
cạnh tranh. Các doanh nghiệp (dùng doanh nghiệp để chỉ chung cho tất cả các chủ
thể kinh tế) luôn phải cạnh tranh với nhau để chiếm được các nguồn lực sản xuất
(đất đai, tài nguyên, vốn, lao động, khoa học - công nghệ...), các dự án đầu
tư, chiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm. Cạnh tranh là sức ép, động lực thúc đẩy
các doanh nghiệp năng động, sáng tạo, cải tiến quản lý, tổ chức sản xuất, kinh doanh
hợp lý; ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ; đổi mới, nâng cao chất lượng sản
phẩm; tiết kiệm, giảm chi phí sản xuất, nâng cao năng suất lao động, hiệu quả
sản xuất, kinh doanh; qua đó, thúc đẩy kinh tế phát triển, thanh lọc những
doanh nghiệp yếu kém. Quy luật cạnh tranh là mạnh được, yếu thua. Đây là mặt
tích cực của cạnh tranh. Nhưng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cũng dẫn đến
những hậu quả tiêu cực: Khai thác tối đa sức lực người lao động (kéo dài giờ
làm, tăng cường độ lao động), giảm chi phí cho lao động (giảm lương, giảm bảo
hộ lao động); khai thác cạn kiệt tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường; sử dụng
các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh, như làm hàng giả, kém chất lượng, ăn
cắp công nghệ, buôn lậu, trốn thuế, chuyển giá, triệt hạ đối thủ... Trong nền
KTTT có sự quản lý của nhà nước ở các nước trên thế giới, nhất là ở các nước
phát triển hiện nay, nhà nước tạo khung khổ pháp luật cho cạnh tranh; bảo vệ,
tôn trọng, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh; nhưng đồng thời, ngăn ngừa, hạn chế
độc quyền cản trở cạnh tranh và chống lại các hoạt động cạnh tranh không lành
mạnh.
Về những luận
điểm sai lầm liên quan đến vai trò của kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và
KTTN trong nền KTTT định hướng XHCN: Sai lầm của những người cho rằng nếu kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo thì không có bình đẳng giữa các doanh nghiệp
trong nền kinh tế và không thể có nền KTTT, một là, do bị ám ảnh bởi kinh tế
nhà nước trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp trước đây;
hai là, do hiểu sai về vai trò chủ đạo, cho rằng chủ đạo là phải được sự ưu
đãi, ưu ái của Nhà nước, phải chiếm tỷ trọng lớn, chèn ép, lấn lướt các thành
phần kinh tế khác. Trong nền kinh tế trước đổi mới, chỉ có kinh tế nhà nước và
kinh tế tập thể, không có KTTN (KTTN không được phép tồn tại); kinh tế nhà nước
chiếm tỷ trọng tuyệt đối trong nền kinh tế, do Nhà nước trực tiếp quản lý bằng
kế hoạch hóa tập trung, thì không thể có KTTT. Ngày nay, kinh tế nhà nước hoàn
toàn khác. Kinh tế nhà nước bao gồm các nguồn lực kinh tế của Nhà nước và các
doanh nghiệp nhà nước. Kinh tế nhà nước là một công cụ của Nhà nước, để cùng
với các công cụ khác, như pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch do Nhà nước quản lý, điều tiết hoạt động của nền kinh tế. Các nguồn lực
kinh tế của Nhà nước được huy động, phân bổ, sử dụng theo yêu cầu phải phù hợp,
phục vụ việc thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đất nước;
nhưng khi thực hiện phải theo cơ chế thị trường, thông qua đấu thầu cạnh tranh,
có sự tham gia của doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, để việc phân bổ
hợp lý, sử dụng có hiệu quả cao. Doanh nghiệp nhà nước được Nhà nước đầu tư,
phát triển ở những ngành, lĩnh vực, địa bàn quan trọng về kinh tế - xã hội,
quốc phòng - an ninh của đất nước (nhất là khi các thành phần kinh tế khác
không được, không muốn hay không đủ sức đầu tư), làm lực lượng tiên phong, nòng
cốt cho sự phát triển ngành, lĩnh vực, địa bàn đó. Các doanh nghiệp nhà nước tự
chủ, hoạt động theo cơ chế thị trường, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác. Khi đã có các thành phần kinh tế khác đầu tư
vào các ngành, lĩnh vực, địa bàn này và không nhất thiết phải có doanh nghiệp
nhà nước, thì Nhà nước có thể thoái vốn, cổ phần hóa doanh nghiệp, chuyển vốn
nhà nước đầu tư vào những ngành, lĩnh vực, địa bàn quan trọng khác để thực hiện
chiến lược, mục tiêu mới của Nhà nước. Như vậy, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước với ý nghĩa là công cụ quan trọng để Nhà nước điều tiết, thúc đẩy, định
hướng phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Với vai trò đó, vai trò chủ đạo của
kinh tế nhà nước không mâu thuẫn, cản trở hoạt động của các quy luật kinh tế,
với sự phát triển của KTTT.
Về sai lầm của
luận điểm cho rằng, KTTN với vai trò là một động lực quan trọng của nền kinh
tế, được khuyến khích phát triển thành các tổng công ty, tập đoàn kinh tế mạnh
thì nền kinh tế không thể phát triển theo định hướng XHCN mà sẽ trở thành nền
kinh tế TBCN. Quả thật, nếu để KTTN phát triển một cách tự phát thì nền KTTT
nước ta sẽ đi theo con đường TBCN. Nhưng nền KTTT nước ta có sự quản lý của Nhà
nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, KTTN không phát triển
tự phát, mà phải tuân thủ pháp luật, chính sách của Nhà nước, được định hướng
hoạt động phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế của
Nhà nước, bảo đảm điều kiện lao động, quan hệ lao động hài hòa, quyền và lợi
ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, trách nhiệm xã hội và bảo vệ môi
trường của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, khi Nhà nước
khuyến khích KTTN phát triển thành các tổng công ty, tập đoàn kinh tế mạnh,
hoạt động ở cả trong nước và ngoài nước thì pháp luật, chính sách của Nhà nước
cũng định hướng các tổng công ty, tập đoàn kinh tế phát triển thành các công ty
cổ phần có sự tham gia rộng rãi của các lực lượng xã hội. Bằng cách đó, Nhà
nước ta sẽ đưa KTTN vào con đường phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước, một nấc
thang quá độ lên CNXH, để KTTN đóng góp vào phát triển nền KTTT định hướng
XHCN./.
LĐT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét