Chủ Nhật, 28 tháng 1, 2024

 

<a title="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" style="text-align:center;" href="https://www.qdnd.vn"><img src="https://file3.qdnd.vn/data/images/0/2021/08/11/linh/bannerv2.png" class="vllogo"></a>

Sự xuyên tạc trơ trẽn

Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ, tại Hội nghị QUTƯ lần thứ 6, nhiệm kỳ 2020-2025, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư QUTƯ có bài phát biểu quan trọng, mang tầm chiến lược, định hướng căn bản để QUTƯ, Bộ Quốc phòng tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo Quân đội thực hiện tốt mọi nhiệm vụ đề ra trong những năm tới, nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI và Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Trong bài phát biểu, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư QUTƯ đã nhấn mạnh về công tác cán bộ và chú trọng xây dựng, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ Quân đội theo tinh thần “7 dám”: “Dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung”. Đây là sự đúc kết sâu sắc lý luận và thực tiễn, thể hiện nét đặc sắc trong tư duy lý luận của người đứng đầu Đảng ta và QUTƯ về công tác cán bộ Quân đội trong giai đoạn cách mạng mới.

Thế nhưng, thời gian qua, trên một số diễn đàn, trang mạng xã hội, các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị đã cố ý tung tin sai trái, xuyên tạc ý kiến chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư QUTƯ. Chúng rêu rao rằng, “xây dựng, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ Quân đội "7 dám" chỉ là khẩu hiệu suông”; “làm gì có cán bộ nào thực hiện được "7 dám”, “cán bộ "7 dám" chỉ là lý luận hão huyền”. Chúng còn lợi dụng một số hạn chế trong công tác cán bộ và một vài cán bộ trong Quân đội vi phạm pháp luật đã bị xử lý hình sự rồi tung hỏa mù thật giả lẫn lộn, đánh đồng hiện tượng với bản chất, cố tình lèo lái dư luận theo chiều hướng tiêu cực nhằm gây mất lòng tin của nhân dân đối với đội ngũ cán bộ nói riêng và đối với Đảng, Nhà nước ta nói chung.

Sao lại suy diễn, phát ngôn tùy tiện?

 Hải rất ngạc nhiên và vui mừng vì vừa mới chuyển về cơ quan một năm mà Minh đã phấn đấu tốt, được khen thưởng. Sân khấu buổi tổng kết, trao thưởng của cơ quan Minh hoành tráng, nhiều phần thưởng lần lượt được trao đến tập thể, cá nhân xuất sắc. Nhưng chờ mãi chưa thấy đến lượt Minh lên nhận thưởng. Rồi người dẫn chương trình tuyên bố chuyển sang tiết mục văn nghệ và kết thúc chương trình, thông báo những cá nhân chưa được nhận thưởng sẽ ủy quyền cho các phòng, ban tổ chức trao sau.

Tin giả - sự nguy hại và phương cách ngăn chặn

 

<a title="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" style="text-align:center;" href="https://www.qdnd.vn"><img src="https://file3.qdnd.vn/data/images/0/2021/08/11/linh/bannerv2.png" class="vllogo"></a>

Tin giả - hậu quả thật

Tin giả còn được gọi là tin rác hoặc tin tức giả mạo, là thông tin cố ý bịa đặt hoặc dùng thủ thuật lừa bịp bằng cách lan truyền qua phương tiện truyền thông hay mạng xã hội (MXH). Tin giả thường được tạo ra để tác động đến tư tưởng, quan điểm, tình cảm, cảm xúc, thái độ, hành vi của người dân, gây ảnh hưởng tiêu cực đến diễn biến thực tiễn, nhằm thực hiện các mục đích chính trị, lợi ích kinh tế hay ý đồ xấu xa của chủ thể tiến hành.

Trong điều kiện mới với xu thế phát triển nhanh của MXH và các nền tảng MXH xuyên biên giới, kéo theo việc các thế lực thù địch tăng cường lợi dụng, tung tin giả ngày càng phổ biến với nhiều chiêu trò, cách thức, thậm chí rất khó nhận diện, đấu tranh, đẩy lùi.

Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ người dân sử dụng internet rất cao. Bởi vậy, khi tin giả xuất hiện thì cường độ, tốc độ lan truyền nhanh, tác động rất lớn đến đời sống trên không gian mạng và cộng đồng xã hội. Ví như, khoảng cuối tháng 3, đầu tháng 4-2022, loạt tin đồn thất thiệt trên MXH về việc một số doanh nghiệp ngoài nhà nước niêm yết trên sàn chứng khoán bị thanh tra chuyên đề (hoạt động phát hành trái phiếu và việc thực hiện pháp luật về kế toán, thuế, chứng khoán) gây hoang mang cho nhà đầu tư và gây thiệt hại nghiêm trọng cho các doanh nghiệp. Ngay sau đó, dù có thông tin chính thống để đính chính, trấn an cổ đông, nhà đầu tư nhưng cổ phiếu của các doanh nghiệp này vẫn liên tục giảm mạnh. Điều đó cho thấy, chỉ vì tin giả mà kinh tế đất nước bị ảnh hưởng, chi phối rất nghiêm trọng.

Tương tự, tin giả xuất hiện trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là những vấn đề, lĩnh vực "nóng", "nhạy cảm" liên quan đến công tác nhân sự, bầu cử, bỏ phiếu tín nhiệm, xử lý kỷ luật cán bộ cấp cao... Tin giả cũng thường xuất hiện trước những sự kiện chính trị trọng đại của Đảng, đất nước, Quân đội với tần suất ngày càng nhiều và mức độ nguy hiểm, phức tạp khó lường. Đặc biệt, thời gian gần đây xuất hiện nhiều tin giả về tình hình sức khỏe của một số đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội, gây xáo trộn đến tư tưởng, tình cảm và niềm tin của quần chúng; thậm chí còn tạo ra sự hoang mang, tâm lý tiêu cực trong đời sống xã hội.

Rõ ràng, tin giả là một loại thông tin không có thật, nhưng hệ quả và tác hại của nó thì có thật; ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều lĩnh vực đời sống xã hội, nhất là an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, quốc phòng, an ninh. Chẳng hạn, vào những năm 80, 90 của thế kỷ 20, trên địa bàn Tây Nguyên, các thế lực phản động ở nước ngoài cấu kết với FULRO tung tin giả về việc người Kinh đang chiếm đất của người Thượng, rồi kích động, lôi kéo một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số tụ tập biểu tình, gây rối chính trị ở nhiều địa bàn Tây Nguyên vào các năm 2001, 2004. Tương tự, những sự vụ, sự việc diễn ra ở Thái Bình (năm 1997), Mường Nhé, Điện Biên (năm 2011) và các "điểm nóng" ở Tây Bắc, Tây Nghệ An, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ... đều bắt đầu từ những tin tức giả mạo, bịa đặt một cách trắng trợn. Hay sự kiện diễn ra ở Bình Thuận và hàng chục địa phương trong nước năm 2018 là bài học đau lòng, khi kẻ thù bịa ra tin giả về việc cán bộ Trung ương “tự quyết” cho nước ngoài thuê đất đặc khu trong 99 năm là nhằm hiện thực lợi ích nhóm của một bộ phận cán bộ... Tin giả ấy đã tạo ra sự bức xúc trên MXH, rồi lan ra đời sống, gây nhiều tổn thất cả về vật chất lẫn tinh thần.

Cảnh giác trước các âm mưu lôi kéo, kích động

<a title="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" style="text-align:center;" href="https://www.qdnd.vn"><img src="https://file3.qdnd.vn/data/images/0/2021/08/11/linh/bannerv2.png" class="vllogo"></a>

 - Tôi nghĩ với tính chất, hành vi khủng bố dã man, tàn bạo, nguy hiểm, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng như vậy thì mức án các bị cáo phải chịu nặng hơn. Thực tế, không chỉ người dân nước ta mà cả thế giới đều lên án mạnh mẽ hành vi khủng bố. Các nước đều đấu tranh kiên quyết và triệt để, không khoan nhượng với tội phạm khủng bố...

Cựu chiến binh Sơn vừa dứt lời, bác Mẫn cũng bày tỏ bức xúc:

- Đúng thế! Đó là chưa kể, những kẻ khủng bố hoạt động có tổ chức nhằm thực hiện mưu đồ lật đổ chính quyền nhân dân, chống phá đất nước, làm xáo trộn cuộc sống bình yên của cả huyện, cả tỉnh. Tại phiên tòa, tất cả bị cáo và luật sư bào chữa, trợ giúp viên pháp lý cho các bị cáo đều đồng ý với bản luận tội của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk. Ngay một số trang mạng phản động lần này cũng không thể có ý kiến phản đối tội danh của các bị cáo, bởi những hành vi nguy hiểm và tội lỗi các bị cáo gây ra đã quá rõ ràng. Đáng lẽ tòa phải tuyên phạt thích đáng hơn. 

Hệ thống chính trị một đảng cầm quyền ở Việt Nam - sự lựa chọn đúng đắn của lịch sử

 Những nghịch lý và hệ lụy của chế độ đa đảng

Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập là một khuynh hướng tổ chức đời sống chính trị-xã hội xuất hiện từ đầu thế kỷ 18 với xu hướng tuyệt đối hóa sự đa dạng, đối kháng của các đảng chính trị. Chế độ đa đảng là hệ thống mà ở đó có nhiều đảng chính trị có khả năng giành quyền điều hành chính phủ một cách độc lập hay liên minh với nhau.

Lịch sử chính trị thế giới cho chúng ta một số bài học để thấy rằng hệ thống đa đảng đối lập nhiều khi không dẫn các quốc gia theo con đường này đến hòa bình, ổn định và phồn vinh, mà ngược lại nó dẫn đến sự bất hòa, phân lập, thậm chí là tê liệt của bộ máy công quyền. Trở lại bối cảnh lịch sử của nước Đức cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Nước Đức thời kỳ này tồn tại nhiều đảng phái chính trị, mỗi đảng đại diện cho những lợi ích xã hội được xác định rõ ràng, tranh giành quyền lực và lợi lộc từ quyền lực, thỏa hiệp và ký kết thỏa hiệp với nhau khi nào có thể. Sự chia rẽ trong đời sống chính trị không chỉ dẫn đến hậu quả đau đớn cho Đức vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 mà hiện vẫn còn dẫn tới sự bất ổn chính trị, làm gia tăng nghèo đói và bạo loạn ở nhiều nước trên thế giới.

Nhìn lại cuộc cách mạng “mùa xuân Ả Rập” diễn ra năm 2011 cho thấy điều đó. Phân hóa giàu nghèo, tham nhũng là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự nổi dậy lật đổ chính quyền tại một loạt quốc gia ở khu vực Bắc Phi và Trung Đông. Nhưng sau khi lật đổ chính quyền, điều mà người dân trông chờ là một nền chính trị ổn định, ít tham nhũng, quan tâm đến đời sống của đại đa số người dân, những gì mà các thế lực bên ngoài rao giảng đã không được thực thi trên thực tế. Thay vào đó là sự tranh giành quyền lực giữa các đảng phái và thế lực chính trị. Cho đến hiện tại, ở các quốc gia này, không có một đảng chính trị hay một lực lượng chính trị nào đủ mạnh để có thể thống nhất, lãnh đạo đất nước khiến xã hội vẫn chưa đi vào ổn định và phát triển.

Thể chế đa đảng với cách thức tổ chức cho phép các đảng đối lập phản đối chính sách của đảng cầm quyền nhằm thực hiện dân chủ, nhưng nghịch lý của nó là khiến chính phủ trở nên phân rã và chia rẽ. Sự phân cực chính trị làm phân tán nguồn lực và các chính sách đem lại lợi ích cho đa số người dân thường sẽ khó được thực thi. Bởi khi không nắm chính quyền, các đảng chính trị sẽ có nhiệm vụ là tìm mọi cách phê phán chính sách của đảng đối lập; mục đích chính của việc làm này không phải là để có tiếng nói phản biện nhằm làm cho chính sách được thực thi một cách tốt hơn mà là để giành giữ lá phiếu cho đảng mình trong các lần bầu cử tiếp theo.

Đánh tráo bản chất phiên tòa xét xử vụ khủng bố - âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch

 t3aaa.jpg -0Trước, trong và sau phiên toà, trên nhiều kênh thông tin báo chí nước ngoài, các trang mạng của tổ chức phản động lưu vong và trang mạng cá nhân của các đối tượng chống đối đã tung ra thông tin sai sự thật, các hình ảnh được dàn dựng, cắt ghép với mục đích chính trị hoá vụ án.

Họ cố tình đánh tráo bản chất, biến vụ khủng bố thành vấn đề xung đột, mâu thuẫn trong các dân tộc ở Tây Nguyên nhằm kích động tâm lý kỳ thị dân tộc, gây chia rẽ giữa đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên. Đồng thời tạo cớ để kêu gọi các nước, các tổ chức quốc tế can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta.

Thủ đoạn đánh tráo bản chất vụ án

 “Chính trị hóa” vụ án hình sự là hành vi được các thế lực thù địch triệt để lợi dụng nhằm bẻ lái, xuyên tạc, áp đặt, cho đó là “vi phạm nhân quyền”, “vi phạm dân chủ”, “tranh giành quyền lực”, “thanh trừng phe nhóm”, “lỗi do độc đảng”... Họ thổi phồng, suy diễn vụ việc sang hướng quy kết thành những vấn đề chính trị của đất nước. Đài Á châu tự do (RFA) đưa bài “Vụ xả súng tại Đắk Lắk vào tháng 6/2023 là “phản kháng chống lại áp bức”, xuyên tạc sự thật.

Họ tẩy trắng hành vi khủng bố và kích động, xuyên tạc chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng ta, đồng thời tiếp tục cổ suý, kích động cho những hành động khủng bố trên.

Luận điệu “bẻ lái” chính sách ân giảm án tử hình

 Việc Chủ tịch nước ân giảm hình phạt tử hình xuống tù chung thân cho các bị án thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của Đảng, Nhà nước ta đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, mở ra cho họ con đường được sống, ăn năn hối cải, phục thiện, cải tạo để có cơ hội trở về với gia đình, cộng đồng, xã hội. Tuy nhiên, trên các trang thông tin phản động ở nước ngoài lại cho rằng hoạt động trên là “tuỳ tiện” và chỉ nhằm “lấy lòng” trước khi Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc tổ chức phiên kiểm điểm định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ IV đối với Việt Nam vào tháng 4/2024.

Những luận điệu xuyên tạc, vu cáo quen thuộc

Sau khi Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng ký quyết định ân giảm hình phạt tử hình xuống tù chung thân cho 18 bị án, các trang tin của các tổ chức phản động như Việt Tân, RFA, FRI, VOA... đồng loạt đăng tải bài viết với nội dung xuyên tạc chính sách giảm án của Việt Nam với những luận điệu vu cáo, cho rằng chính quyền Việt Nam phân biệt đối xử, bắt và giam giữ tùy tiện, vi phạm các bảo đảm về xét xử công bằng, nhất là trong giai đoạn Việt Nam đang chuẩn bị bước vào phiên kiểm điểm định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ IV của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc.

Các luận điệu xuyên tạc, vu cáo quen thuộc có thể thấy như: Việt Nam đang giam giữ nhiều “tù nhân chính trị”, “tù nhân lương tâm”, Việt Nam đang duy trì chế độ nhà tù bất công, ngược đãi, tra tấn tù nhân và đàn áp bằng bạo lực… Thậm chí, nhiều tổ chức mang danh nhân quyền như tổ chức Ân xá quốc tế (Amnesty International - viết tắt là AI) năm 2021 còn đưa ra báo cáo về tình hình án tử hình trên toàn thế giới năm 2021, trong đó xếp Việt Nam vào nhóm có tỷ lệ thi hành án tử hình cao nhất. Báo cáo dẫn ra những thông tin về số lượng án tử hình cũng như số tử tù hiện đang chờ thi hành án và cho rằng, con số thực tế có thể còn cao hơn thống kê. Từ đó, vu cáo Việt Nam đang áp dụng "tiêu chuẩn kép" đối với các bị cáo, bị án nguyên là quan chức trong các vụ án kinh tế, hối lộ và có sự khác biệt so với bị cáo, bị án là người dân bình thường; suy diễn “cứ nộp tiền là miễn án tử hình”, “công lý không dành cho quan chức”; “việc tuyên án tử hình hay bỏ án tử hình ở Việt Nam tùy tiện”; “án tử hình là sự vi phạm nhân quyền trắng trợn, thiếu nhân đạo”… Họ vu cáo pháp luật Việt Nam không phù hợp với luật nhân quyền quốc tế; đồng thời đòi thả tự do cho số đối tượng phạm tội chống phá Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đang chấp hành án phạt tù. Trang VOA tiếng Việt giật tít “Việt Nam ân giảm án tử hình cho 18 tử tù trước kỳ rà soát UPR 2024”, trong đó phỏng vấn Trần Thị Nga - một đối tượng từng phạm tội ở Việt Nam hiện đã bị trục xuất sang Mỹ cùng với một vài cái tên khác, nội dung vu cáo chính sách nhân đạo trong ân giảm án tử hình của Đảng, Nhà nước ta.

Cần thấy rằng, trong một số vụ án, sau khi toà tuyên án tử hình, Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm của tử tù thì cũng những tổ chức, cá nhân chống đối trên lại chỉ trích rằng, Việt Nam “thích xử tử”, không nhân văn, nhân đạo, họ viết bài đòi bị án này, bị án kia cần phải được giảm xuống chung thân. Nay, khi Chủ tịch nước ân giảm đối với một số tử tù thì các đối tượng lại “quay xe”, tố ngược! Mục đích mà các tổ chức trên hướng đến là suy diễn, vu cáo nhằm gây sự hoài nghi, hiểu sai về việc thực thi pháp luật và công tác tư pháp, kích động chống đối, gây mất ổn định an ninh, trật tự; hạ thấp uy tín, vị thế của Việt Nam, làm mất niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước.

Cần khẳng định rằng, những đối tượng phạm tội đều phải bị xử lý theo quy định của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự. Pháp luật Việt Nam được xây dựng phù hợp quy định của pháp luật quốc tế và yêu cầu thực tiễn nhằm bảo đảm cho sự phát triển tự do của nhân dân, góp phần xây dựng và duy trì xã hội trật tự, ổn định, ngăn chặn các tổ chức và cá nhân lợi dụng quyền tự do, dân chủ để xâm phạm quyền con người. Việc thực hiện ân giảm án tử hình và đặc xá, giảm án, tha tù trước thời hạn là chính sách khoan hồng của Đảng, Nhà nước và thể hiện truyền thống nhân đạo của dân tộc Việt Nam đối với những người phạm tội, khuyến khích họ hối cải, rèn luyện trở thành người có ích cho xã hội. Đây là việc thực hiện theo quy định của luật pháp vào các dịp ngày lễ lớn của đất nước và các đợt rà soát cụ thể, không phải Việt Nam thực hiện ân giảm án tử hình nhằm “lấy lòng” các nước thành viên trước khi Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc tổ chức phiên Kiểm điểm định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ IV đối với Việt Nam như luận điệu các thế lực xấu nhắm vào chỉ trích, vu cáo. Trước đó, tháng 8/2023, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng cũng đã có quyết định ân giảm từ hình phạt tử hình xuống tù chung thân cho 11 bị án. Trong năm 2022, Chủ tịch nước cũng 2 lần ra quyết định ân giảm từ án tử hình xuống chung thân cho 31 trường hợp, gồm 4 bị án là người nước ngoài.

Một chính sách nhân đạo đặc biệt của Đảng, Nhà nước ta

Việt Nam là một trong số các nước vẫn áp dụng hình phạt cao nhất là tử hình đối với một số tội danh nhằm trừng trị kẻ phạm tội, loại trừ mối nguy hiểm cho xã hội, người dân và đáp ứng yêu cầu răn đe, phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên, mục đích chính của các hình phạt chính là giáo dục, cải tạo, do vậy, bên cạnh khung pháp lý đối với mỗi tội phạm, pháp luật Việt Nam còn ban hành khung giảm nhẹ hình phạt, trong đó có việc giảm án từ tử hình xuống phạt tù chung thân. Từ 1985 đến nay, BLHS Việt Nam qua 4 lần bổ sung, sửa đổi, thay thế, trong đó điểm dễ nhận thấy là số lượng tội danh bị áp dụng hình phạt tử hình đã giảm dần. Nếu như BLHS 1985, hình phạt tử hình được áp dụng với 44/218 tội (20,18%) thì đến BLHS 1999, tội danh áp dụng hình phạt này đã giảm mạnh xuống còn 29/263 tội (11,02%); con số đó tiếp tục được cải thiện trong BLHS 1999 (sửa đổi 2009) với 22/272 tội (8%). Tại BLHS 2015 (sửa đổi 2017), hình phạt tử hình chỉ còn áp dụng đối với 18/314 tội (5,7%). Đồng thời, pháp luật hình sự Việt Nam còn quy định rõ không áp dụng hình phạt tử hình với người dưới 18 tuổi khi phạm tội, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người đủ 75 tuổi trở lên…

Thực tế đó khẳng định Việt Nam đã và đang thực hiện nghiêm túc các nghĩa vụ đối với các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam tham gia, trong đó có nghĩa vụ nội luật hóa, xây dựng cơ chế pháp luật quốc gia phù hợp với các quy định của công ước; thực thi các biện pháp lập pháp, hành pháp và tư pháp để bảo đảm quyền con người; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nội dung công ước; soạn thảo và đệ trình báo cáo quốc gia định kỳ về việc thực hiện công ước; hợp tác quốc tế trong việc thực hiện công ước; xây dựng các chương trình quốc gia để thực hiện những cam kết quốc tế về đảm bảo quyền con người. Những quy định trên là hoàn toàn phù hợp với tinh thần của các hiệp định và văn kiện quốc tế khác như Công ước về quyền trẻ em (CRC) và các quy định bảo đảm nhằm bảo vệ quyền của những người đối mặt với án tử hình (ban hành theo Nghị quyết 1984/50 của ECOSOC của LHQ vào năm 1984). Những con số trên là minh chứng rõ nét nhất cho sự nỗ lực mạnh mẽ về tư duy, nhận thức, xây dựng và thực tiễn thi hành, áp dụng quy định pháp luật của Việt Nam trong lộ trình hạn chế hình phạt tử hình, góp phần khẳng định những giá trị nhân quyền mà Việt Nam đang theo đuổi. Đồng thời, khẳng định chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là bảo vệ và thúc đẩy quyền con người một cách công bằng, bình đẳng cho tất cả mọi công dân, kể cả những người đang chấp hành hình phạt tù.

Bộ Ngoại giao Mỹ cần có đánh giá khách quan và phù hợp bối cảnh mới

 dai-le-phat-dan.jpg -0Báo cáo này tiếp tục xếp Việt Nam vào danh sách giám sát đặc biệt về tự do tôn giáo, trong đó cáo buộc Việt Nam “vi phạm nghiêm trọng về tự do tôn giáo”. Cùng với đó, Ủy hội tự do tôn giáo quốc tế Mỹ (USCIRF) tiếp tục ra thông cáo vu cáo tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam.

“Té nước theo mưa”, các thế lực thù địch, tổ chức phản động lưu vong triệt để lợi dụng để thổi phồng vấn đề, rêu rao đây là thành quả của việc cung cấp thông tin tới Bộ Ngoại giao Mỹ. Tổ chức Ủy ban cứu người vượt biển (BPSOS) tung hô rằng, đây là một phần của kết quả đấu tranh, vận động quốc tế của BPSOS thời gian qua, riêng năm 2023, BPSOS đã thường xuyên tiếp xúc đại sứ lưu động về tự do tôn giáo của Bộ Ngoại giao Mỹ Rashad Hussain, cung cấp cho USCIRF và Bộ Ngoại giao Mỹ hơn 70 báo cáo về “các vi phạm tự do  tôn giáo tại Việt Nam”.

Cùng với đó, BPSOS tiếp tục kêu gọi, hướng dẫn các đối tượng chống đối trong nước cách thức xây dựng “hồ sơ vi phạm nhân quyền, tự do tôn giáo ở Việt Nam” để gửi cho USCIRF. Mới đây, BPSOS còn tuyên bố thành lập các nhóm nghiên cứu nhằm kêu gọi các tổ chức quốc tế, các cá nhân trong và ngoài nước “cung cấp thông tin, tài liệu về hoạt động đàn áp các nhóm tôn giáo độc lập”.

Tổ chức này coi đây là cách thu thập thông tin “cần thiết” để làm bằng chứng xây dựng báo cáo gửi các cơ quan như Bộ Ngoại giao Mỹ, USCIRF, thúc ép các cơ quan này đưa Việt Nam vào danh sách quốc gia cần quan tâm đặc biệt về tôn giáo.

Một số đối tượng chống đối khác cũng được dịp “lên mặt”, đưa ra những lời lẽ vu cáo, bôi nhọ trên các trang mạng xã hội. Đối tượng Y Quynh Bdap (kẻ cầm đầu  tổ chức “Người Thượng vì công lý”) rêu rao rằng, Việt Nam bị liệt vào danh sách trên vì “đã sách nhiễu, đàn áp các hội thánh độc lập, cưỡng ép người Thượng, người Mông bỏ đạo…”. Những trung tâm thông tin chống phá như VOA, RFA, RFI… đưa ra các bài viết dưới dạng “phân tích, bình luận, tọa đàm”, mục đích lấy cớ thổi phồng sự việc, xuyên tạc tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam. Một số bài viết xuyên tạc rằng, dù Việt Nam được bầu vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc song quyền con người tại Việt Nam, trong đó có quyền tự do tôn giáo vẫn bị chà đạp một cách tồi tệ, có hệ thống. Họ còn lấy cớ phỏng vấn một số đối tượng chống đối bất mãn để minh họa cho bài viết.

Chúng tôi thấy rằng, việc Bộ Ngoại giao Mỹ xếp Việt Nam vào danh sách  giám sát đặc biệt về tự do tôn giáo với cáo buộc vi phạm nghiêm trọng về tự do tôn giáo là sai lệch, vừa không phản ánh đúng thực tiễn, vừa tạo điều kiện để các thế lực xấu lấy cớ chống phá Việt Nam. Đặc biệt, báo cáo được đưa ra trong bối cảnh quan hệ Việt – Mỹ được tăng cường, nâng cấp lên quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện. Cụ thể, trong chuyến thăm cấp Nhà nước đến Việt Nam ngày 10-11/9/2023 của Tổng thống Joe Biden, lãnh đạo hai nước đã ra Tuyên bố chung về nâng cấp quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ lên Đối tác Chiến lược toàn diện. Hai bên đã ra Tuyên bố chung, trong đó nêu rõ việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người.

Tuyên bố khẳng định tầm quan trọng của việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, phù hợp với hiến pháp của mỗi nước và các cam kết quốc tế. Hai nước nhất trí tiếp tục ủng hộ thúc đẩy và bảo vệ quyền con người thông qua các cơ chế đối thoại thẳng thắn, xây dựng như đối thoại nhân quyền, đối thoại lao động Việt Nam - Hoa Kỳ hàng năm, qua đó tăng cường hiểu biết lẫn nhau và giảm thiểu khác biệt. Việt Nam và Hoa Kỳ ghi nhận quyền con người, ổn định khu vực, hòa bình thế giới và phát triển bền vững có mối quan hệ bổ trợ lẫn nhau. Hai bên cũng ghi nhận những đóng góp mà các tổ chức xã hội và tôn giáo tiếp tục mang lại trong các lĩnh vực như giáo dục, chăm sóc y tế và dịch vụ xã hội ở cả hai nước.

Cảnh giác trước các luận điệu sai trái xung quanh việc xét xử vụ án khủng bố ở Đắk Lắk

 sai trai 1.png -0Đây là vụ án thu hút sự quan tâm đặc biệt của người dân. Bởi đây là vụ khủng bố chống chính quyền nhân dân với tính chất manh động, liều lĩnh, vô nhân tính, bất chấp đạo lý và luật pháp. Hành vi của nhóm đối tượng này phải xử lý nghiêm trước pháp luật để cảnh tỉnh và răn đe đối với những đối tượng đang có âm mưu làm phức tạp tình hình an ninh trật tự ở vùng Tây Nguyên.

Vụ án mặc dù được đưa ra xét xử công khai và thông tin rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, song các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã tung ra những luận điệu sai trái, xuyên tạc trên các trang mạng xã hội, bọn chúng rêu rao rằng, vụ án “không phải là khủng bố mà là sự phản kháng của người dân tộc bản địa ở Tây Nguyên chống lại sự áp bức của chính quyền”. Với những luận điệu đó, chúng đã cố tình xuyên tạc, cắt xén, nhào nặn rồi dựng lên câu chuyện không có thật nhằm mục tiêu chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, phá hoại cuộc sống bình yên của nhân dân, chống phá chính quyền…

Động cơ sai trái, làm sao đánh giá được nhân quyền!

 Tổ chức Theo dõi nhân quyền (HRW) hôm 11/1 đưa bài viết vu cáo rằng, Chính phủ Việt Nam trong năm 2023 “đã đàn áp rộng rãi các quyền dân sự và chính trị căn bản, đồng thời trừng phạt nghiêm khắc những người thách thức sự độc tôn quyền lực của Đảng Cộng sản Việt Nam”. HRW viết “2023 là năm u ám về nhân quyền tại Việt Nam”, dùng những lời lẽ phê phán, chỉ trích Đảng, Nhà nước Việt Nam và đưa ra dẫn chứng kiểu “bổn cũ soạn lại”, vẫn là những đối tượng bị cơ quan tiến hành tố tụng ở Việt Nam bắt, truy tố, xét xử về các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ. Đài RFA tung bài viết “Ba tổ chức phi chính phủ đề nghị Liên hợp quốc chất vấn Việt Nam về vi phạm tự do internet”, trong đó chiêu trò vẫn chỉ là sự tung hứng nhằm làm nóng vấn đề nhân quyền, tự do intenet ở Việt Nam, lấy cớ để can thiệp, gây sức ép.

PHẢN BÁC NHỮNG LUẬN ĐIỆU CHỐNG PHÁ CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

 

Trong lịch sử nhân loại, hiếm có học thuyết, tư tưởng nào mà trong suốt quá trình hình thành và phát triển lại chịu nhiều sự đả kích, xuyên tạc, bóp méo của các thế lực thù địch như chủ nghĩa Mác – Lênin. Hành trình gần hai thế kỷ kể từ khi C.Mác, Ph.Ăngghen đặt nền móng đầu tiên tại Đức, V.I.Lênin kế tục và phát triển tại Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, cho đến nay, chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn là nền tảng tư tưởng vững chắc của các Đảng Cộng sản cầm quyền, trong đó có Việt Nam.

Vừa qua, trên trang “thongluan-rdp” có đăng tải nội dung “Văn hóa Marx – Lenin độc tài và lừa đảo còn kìm kẹp dân tộc ta bao lâu nữa” của đối tượng Âu Dương Thệ với những luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin, cho rằng “văn hóa Mác – Lênin rủ ngủ, làm ngu dân”; đồng thời tôn vinh cái gọi là “văn hóa chính trị dân chủ đa nguyên”. Mục đích của chúng nhằm xóa bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin, đòi “đa nguyên, đa đảng”. Thực chất đây là những luận điệu xuyên tạc trắng trợn về chủ nghĩa Mác – Lênin. Do đó, cần có nhận thức đúng đắn về những giá trị trường tồn của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, là cơ sở để vạch trần những luận điệu sai trái của những kẻ thù địch như Âu Dương Thệ.

Chiến lược “Ngoại giao cây tre Việt Nam” là đúng đắn!

 

Vừa qua, trên trang “Voatiengviet”, Linh Đan đã đăng tải bài viết: “Việt Nam có thể đánh mất bạn bè và sự tín nhiệm với ngoại giao ‘cây tre’” bày tỏ những bàn luận về chiến lược “ngoại giao cây tre” của Việt Nam. Nội dung của bài viết đưa ra nhiều luận giải, đánh giá về lập trường, quan hệ quốc tế của Việt Nam trong chiến lược, đường lối đối ngoại, ngoại giao mà Đảng, Nhà nước Việt Nam đang thực hiện. Bởi vậy, cần khẳng định một số vấn đề như sau:

Thứ nhất, “ngoại giao cây tre” là triết lý biểu tượng văn hóa của dân tộc Việt Nam vừa mềm dẻo, linh hoạt vừa khí phách hiên ngang. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã mượn hình ảnh cây tre – một biểu tượng văn hóa rất mộc mạc, dung dị mà thân thuộc của người Việt Nam để gửi gắm thông điệp mang tính triết lý hết sức sâu sắc nhưng lại vô cùng gần gũi, thiết thực, đầy hào khí, giàu tính nhân văn, hòa hiếu, trọng lẽ phải, công lý và chính nghĩa của Việt Nam. “Ngoại giao cây tre” không phải là: “quá trừu tượng”! Vì, bản chất “ngoại giao cây tre” thấm đượm tâm hồn cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam đó là mềm mại khôn khéo nhưng rất kiên cường, quyết liệt, linh hoạt sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên định can trường trước mọi thử thách khó khăn vì độc lập dân tộc, vì tự do hạnh phúc của nhân dân, đoàn kết nhân ái nhưng kiên quyết kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, biết nhu biết cương, biết thời biết thế, biết mình biết người, biết tiến biết thoái, tùy cơ ứng biến, lạt mềm buộc chặt.

Phản bác luận điệu xuyên tạc của Nguyễn Doãn Đôn

 

Vừa qua trên trang “Hung – viet. org”, Nguyễn Doãn Đôn có bài viết: “Vì tham quyền dài lâu và không dám cải tổ, nên sự nghiệp của ông Nguyễn Phú Trọng đã không khoáng hậu” cho rằng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vì quá tham vọng quyền lực, nên khẳng định vị thế của mình là anh hùng đốt lò trong công cuộc phòng, chống tham nhũng, song, tham nhũng lại không giảm. Thực tế, Nguyễn Doãn Đôn đang bôi xấu lãnh đạo Đảng, Nhà nước và xuyên tạc tình hình chống tham nhũng ở Việt Nam.

Phát triển Tây Nguyên nhanh, bền vững

 

Tây Nguyên là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh; nơi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào theo tôn giáo cùng chung sống. Thời gian qua, các thế lực thù địch đã triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo ở Tây Nguyên để thực hiện hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Vừa qua, trên trang “Rfavietnam” có bài viết: “Mạng lưới nhân quyền Việt Nam: Chính phủ ngược đãi người thiểu số Tây Nguyên một cách có hệ thống”, cho rằng Chính quyền Cộng sản Việt Nam đang kỳ thị, ngược đãi người thiểu số và đàn áp tự do tôn giáo ở Tây Nguyên. Thực tế, RFA đang xuyên tạc tình hình dân tộc, tôn giáo ở Tây Nguyên.

Thứ Năm, 25 tháng 1, 2024

Không thể phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc đổi mới đất nước

 

Vu khống, xuyên tạc và xảo trá là những gì chúng ta thấy được trong bài viết “Hơn 30 năm nhìn lại, nhân dân và đất nước Việt Nam vẫn là nạn nhân của “giải pháp tạm bợ” của Đảng Cộng sản Việt Nam” của Trương Nhân Tuấn đăng trên trang “Quyenduocbiet”. Bằng ngôn từ của những kẻ phản động “ăn cháo đá bát”, y đã xuyên tạc, bóp méo sự thật hòng phủ nhận sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam với công cuộc đổi mới toàn diện ở nước ta, làm cho nhân dân mất lòng tin vào vai trò lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là luận điệu hết sức nguy hiểm, chống phá trắng trợn của Trương Nhân Tuấn, chúng ta cần cảnh giác.

Thêm một luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin

 

Chủ nghĩa Mác do C.Mác và Ph.Ăng ghen sáng lập vào giữa thế kỷ XIX, đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã được V.I.Lênin phát triển thành chủ nghĩa Mác – Lênin. Từ đó đến nay, thế giới đã trải qua biết bao biến cố thăng trầm, quanh co, phức tạp, song đời sống xã hội vẫn không nằm ngoài những quy luật phổ biến đã được C.Mác tổng kết. Khẳng định giá trị, sức sống của chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời, bên cạnh việc bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, còn phải đấu tranh phê phán các quan điểm xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin được phát tán trên mạng xã hội, kiểu như bài viết của Nguyên Anh đăng trên trang “Quyenduocbiet. com”, với tiêu đề Bọn tâm thn hoang tưởng tự sướng Mác – Lê”.

Thực tế cho thấy, trong quá trình xây dựng và phát triển học thuyết của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phải đấu tranh chống lại các quan điểm, duy tâm, siêu hình, các quan điểm giáo điều, xét lại. Đồng thời, trình bày quan điểm chính diện của mình, phát triển, hoàn thiện học thuyết của mình. Có thể nói, thông qua đấu tranh tư tưởng, lý luận để bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác là tính quy luật trong sự tồn tại của chủ nghĩa Mác. Để bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử mới, V.I. Lênin đã kiên quyết đấu tranh, kịch liệt phê phán những quan điểm cơ hội, xét lại, đồng thời vận dụng chủ nghĩa Mác một cách sáng tạo vào thực tiễn nước Nga, Lênin và Đảng Bônsêvích đã lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân Nga tiến hành cuộc Cách mạng tháng Mười vĩ đại, mở ra thời đại mới trong sự phát triển của loài người – thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới.

Thành quả trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là không thể phủ nhận

 

Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, qua hơn 35 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, sức mạnh quốc gia và vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng nâng cao. Thế nhưng, với âm mưu đen tối, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị vẫn tìm trăm phương ngàn kế để phá hoại sự nghiệp cách mạng của Đảng, dân tộc ta. Mới đây, trên “baotiengdan. com”, Nguyễn Thông rêu rao rằng: “Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam chỉ đem lại nghèo đói và lạc hậu”. Đây là luận điệu phiến diện, không phản ánh đúng thực tế ở Việt Nam, mục đích của y và đồng bọn nhằm phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và những thành quả mà chủ nghĩa xã hội mang lại cho nhân dân Việt Nam.

Đi lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu của cách mạng Việt Nam. Lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không phải là quyết định mang tính cá nhân hay nhất thời, mà là sự tổng hợp các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong nước và quốc tế, trên cơ sở nghiên cứu, vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn phát triển đất nước; đó là một quá trình lâu dài và bền bỉ, trải muôn vàn thử thách với những giai đoạn hết sức cam go đối với vận mệnh của dân tộc và cách mạng Việt Nam. Thực tế, ngay từ khi khởi xướng công cuộc đổi mới, Đảng ta đã xác định dứt khoát, đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp. Điều này được Tổng Bí thư, Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.

Liên minh công – nông – trí thức là một tất yếu khách quan

 

Thời gian gần đây JB Nguyễn Hữu Vinh viết tại trang “Rfavietnam”: “Chấn hưng văn hóa hay mở cửa cho tham nhũng văn hóa?”. Thông qua bài viết Y đã cố tình xuyên tạc khối liên minh công – nông – trí thức, khi lu loa rằng “đưa giai cấp công nhân được gọi là tiên tiến, giai cấp bần cố nông liên minh lên lãnh đạo xã hội, thực chất là phá vỡ hoàn toàn quy luật kinh tế xã hội và tiêu diệt những mầm mống tinh hoa của nền kinh tế đất nước”.

Luận bàn về vấn đề này, chỉ rõ cho Nguyễn Hữu Vinh biết rằng: Cả về mặt lý luận và thực tiễn đều cho thấy, liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và đội ngũ trí thức luôn là vấn đề có tính chiến lược của cách mạng Việt Nam, kể cả trong cách mạng dân tộc, dân chủ cũng như cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó là lực lượng nòng cốt của khối đại đoàn kết toàn dân trong mặt trận dân tộc thống nhất, nguồn sức mạnh và động lực to lớn của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Bằng luận cứ khoa học, khẳng định rõ: Liên minh công – nông – trí thức là một tất yếu khách quan, được chế định bởi các cơ sở xã hội hiện thực và được hiện thực hóa qua đường lối tập hợp lực lượng của Đảng Cộng sản; là nhu cầu tồn tại và phát triển của cả công nhân, nông dân và trí thức.

Trong khối liên minh, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo. Thông qua chính đảng của mình để đề ra đường lối cách mạng, những chủ trương lớn nhằm thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng để thực hiện đường lối đó cần phải có lực lượng. Bằng hành động và chính sách thực tiễn, giai cấp công nhân thu hút mọi tầng lớp lao động, trước hết là nông dân và trí thức về phía mình, cùng với họ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là điều kiện để giai cấp công nhân củng cố vai trò chính trị tiên phong của mình. Về phía nông dân, do địa vị kinh tế – xã hội và bản chất giai cấp của mình, nông dân tự nguyện tìm đến với giai cấp công nhân. Nếu không liên kết với công nhân, trí thức thì họ sẽ bị các giai cấp bóc lột lợi dụng, lôi kéo trở lại cuộc sống nô lệ, bị áp bức, bóc lột.

PH.ĂNGGHEN – LÃNH TỤ THIÊN TÀI CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ NHÂN DÂN LAO ĐỘNG TOÀN THẾ GIỚI

 

Năm 2023 những người cộng sản và công nhân quốc tế kỷ niệm lần thứ 203 năm Ngày sinh của Phơ-ri-đơ-rích Ăng-ghen (28/11/1820 – 28/11/2023), lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của giai cấp công nhân, người đã cùng với C.Mác xây dựng hệ thống lý luận khoa học, cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động nhằm giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Ông là nhà bác học và người thầy, lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới.

Xuất thân từ một gia đình tư sản, nhưng Ph.Ăngghen đã hiến dâng toàn bộ cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân. Ông là người bạn, người đồng chí gần gũi nhất của C.Mác, đã cùng C.Mác xây dựng hệ thống lý luận cách mạng, khoa học của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, nghiên cứu lý luận, Ph. Ăngghen luôn tích nghiên cứu, tiếp thu, kế thừa những tinh hoa tư tưởng của nhân loại. Đồng thời luôn gắn chặt với thực tiễn phong phú, sinh động của phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân. Ông được coi là người đầu tiên phát hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh giải phóng người lao động, xây dựng xã hội mới không có áp bức, bóc lột.

PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI – CHỦ NGHĨA CHỦ TRƯƠNG ĐÚNG ĐẮN CỦA ĐẢNG TA

 

Kinh tế thị trường là thành quả của văn minh nhân loại, được Đảng và Nhà nước Việt Nam vận dụng một cách đúng đắn, khách quan, khoa học, sáng tạo, trở thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó nhấn mạnh vị trí, vai trò của con người chính là động lực và cũng là mục tiêu cao nhất của sự phát triển. Song, các thế lực thù địch cho rằng, không có nền kinh tế nào là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa là những yếu tố đối lập nhau, loại trừ nhau; gán ghép định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường là chủ quan, duy ý chí, không có cơ sở khoa học, không thuyết phục; nếu bỏ cái đuôi định hướng xã hội chủ nghĩa thì nền kinh tế đất nước còn phát triển nhanh hơn, hiệu quả hơn; kinh tế thị trường là của chủ nghĩa tư bản, vận động theo các quy luật của chủ nghĩa tư bản, không thể dung hòa và kết hợp với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, với định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế của các quốc gia vì giữa chúng có sự mâu thuẫn, đối lập. Nếu ghép định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường thì chẳng khác nào râu ông nọ cắm cằm bà kia, ghép nước với lửa, hai củ khoai bỏ trong một rọ… Họ cho rằng, Việt Nam phải chuyển sang kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Thực tế, các thế lực thù địch đang cố tình xuyên tạc bản chất tốt đẹp của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.