Khi xem xét, đánh giá
về vấn đề dân tộc, nếu chỉ nhìn nhận về trình độ kinh tế của các dân tộc thiểu
số (DTTS) một cách đơn thuần thì dễ đưa ra nhận định chủ quan, phiến diện về
đời sống thực tế.
Muốn hiểu đúng bản chất, khách quan, toàn diện
về vấn đề dân tộc thì ngoài việc bảo đảm về quyền chính trị, kinh tế, xã hội,
không thể không tính đến một yếu tố rất quan trọng, đó là việc bảo đảm quyền
văn hóa cho các DTTS có được hiện thực hóa trong thực tế hay không.
Chính sách bảo tồn, phát triển văn hóa các
DTTS luôn được coi trọng
Xuất phát từ những điều kiện lịch sử, tự
nhiên, xã hội, hầu hết các DTTS ở Việt Nam cư trú, lao động sản xuất ở miền
núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới. Tuy chỉ chiếm tỷ lệ dân số nhỏ, song
các DTTS Việt Nam là một phần máu thịt của dân tộc Việt Nam. Trong xu
thế hội nhập và toàn cầu hóa, 53 DTTS là đối tượng dễ bị “tổn thương
văn hóa” trong quá trình phát triển, vì vậy, Đảng và Nhà nước Việt Nam xác
định, cùng với chăm lo phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an sinh, xóa đói giảm
nghèo, việc bảo tồn, phát huy văn hóa các DTTS vừa là nhiệm vụ cấp
thiết, vừa có ý nghĩa chiến lược phải thực hiện kiên trì, lâu dài.
Việc coi trọng bảo vệ, phát huy các giá trị
văn hóa các DTTS được Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định tại Cương
lĩnh Xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011); đặc biệt, được thể hiện sâu sắc tại hai nghị quyết chuyên đề về văn
hóa. Một trong 10 nhiệm vụ cụ thể được nêu ra tại Nghị quyết Trung ương 5 khóa
VIII về “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” (năm
1998) là “Bảo tồn, phát huy, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số”, trong đó
nhấn mạnh đến việc đầu tư và tổ chức điều tra, sưu tầm, nghiên cứu, phổ biến
các giá trị văn hóa, văn học, nghệ thuật các DTTS. Nghị quyết số 33-NQ/TW
khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững đất nước” (năm 2014) định hướng phải giữ gìn và phát huy di
sản văn hóa các DTTS, nhất là tiếng nói, chữ viết, trang phục, lễ hội
truyền thống của các DTTS.
Để bảo đảm các quyền của các DTTS, Điều
42 Hiến pháp 2013 quy định: “Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử
dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp”. Trước đó, Điều 7, Luật Giáo
dục 2005 cũng ghi rõ: “Nhà nước tạo điều kiện để người DTTS được học
tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc, giúp cho học sinh người DTTS dễ dàng tiếp thu kiến thức khi
học tập trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác”. Thông qua quy định này nhằm
bảo đảm cho các DTTS có quyền tự do quyết định vị thế xuất thân cũng
như thể hiện quyền sử dụng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình-đây là những
vấn đề căn cốt để khẳng định quyền bình đẳng của các DTTS trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam.
Không chỉ đề ra chủ trương, luật pháp, Nhà
nước Việt Nam đã chủ động lắng nghe, tiếp thu những ý kiến từ chính bà
con DTTS để hoàn thiện chính sách phù hợp với lòng dân. Cách đây 3
năm (tháng 8-2015), Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã mời hơn 50 đại biểu là
già làng, trưởng bản, nghệ nhân, người có uy tín thuộc các DTTS (Pà
Thẻn, Cờ Lao, Pu Péo, Lô Lô, Ngái, La Hủ, Lự, Mảng, Cống, Si La, La Ha, Bố Y,
Chứt, Ơ Đu, Brâu, Rơ Măm) về Thủ đô Hà Nội tham dự Hội nghị-hội thảo “Giải pháp
Bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa của 16 DTTS có số dân dưới 10.000
người”. Tại đây, người dân không chỉ nêu lên tâm tư, nguyện vọng mà còn trực
tiếp góp ý, đề xuất với Đảng, Nhà nước nhiều vấn đề tâm huyết về bảo tồn, phát
huy, phát triển văn hóa các DTTS.
Những kết quả hiện thực sinh động trong thực
tiễn
Mọi chủ trương, chính sách chỉ có giá trị khi
đi vào thực tiễn và được thực tiễn kiểm chứng. Điều đó được thể hiện ở Đề án
“Bảo tồn, phát triển văn hóa các DTTS Việt Nam đến năm 2020” được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1270/QĐ-TTg ngày 27-7-2011. Bám sát
phương châm “Đồng bào các DTTS là chủ thể văn hóa đề xướng, thực hiện
và thụ hưởng”, với số vốn thực hiện trên 1.500 tỷ đồng, đến nay đề án đã, đang
được triển khai sâu rộng, trong đó tập trung ưu tiên phát triển văn hóa
các DTTS rất ít người, các dân tộc không có điều kiện tự bảo vệ và
phát huy di sản văn hóa của dân tộc mình. Hiện nay, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch đã hoàn thành việc rà soát, thống kê và hỗ trợ khẩn cấp, nâng cao năng lực
tự bảo vệ trước nguy cơ mai một văn hóa của các DTTS dưới 10.000
người, đặc biệt là 10 dân tộc, gồm: Brâu, Rơ Măm, Si La, Pu Péo, Bố Y, Ơ Đu, Lô
Lô, Mảng, Cống, Cờ Lao.
Nhờ có nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước, những
năm gần đây, nhiều truyền thống văn hóa tốt đẹp, nhiều nghi lễ đặc sắc, nhiều
trò chơi dân gian của các DTTS được khôi phục, phát huy trong ngày
hội văn hóa diễn ra trên khắp mọi miền đất nước. Nhiều ngày hội văn hóa vùng
miền, như: Tây Bắc, Đông Bắc, miền Trung, miền Đông Nam Bộ… được Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch tổ chức 2-3 năm/lần. Những nét đẹp về dân ca, dân vũ, dân
nhạc, lễ hội, trang phục truyền thống, ẩm thực của nhiều DTTS tưởng
như bị “phủ” một lớp bụi thời gian, nay được khôi phục, giới thiệu để đông đảo
công chúng biết đến khi các địa phương tổ chức các ngày hội riêng của các dân
tộc, như: Mông, Mường, Hoa, Thái, Chăm, Khmer…
Tại Thủ đô Hà Nội, từ năm 2010 đến nay, du
khách trong nước và quốc tế cũng có điều kiện trực tiếp tham gia trải nghiệm
không gian văn hóa của các dân tộc Tày, Nùng, Thái, Mông, Khmer, Chăm, Lô Lô, Ê
Đê, Ba Na, Gia Rai, Mường… do chính các nghệ nhân, bà con DTTS trình
diễn tại Làng Văn hóa-Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, thị xã Sơn Tây).
Từ 10 năm qua, Ngày văn hóa các dân tộc Việt Nam 19-4 được tổ chức thường niên
trở thành ngày hội gặp gỡ, giao lưu văn hóa cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Theo các chuyên gia nghiên cứu văn hóa, việc tổ chức ngày hội văn hóa ở các địa
phương cũng như Ngày văn hóa các dân tộc Việt Nam không những đã “cứu” được
nhiều giá trị văn hóa của các DTTS trước nguy cơ bị mai một trong đời
sống đương đại, mà còn tạo cơ hội cho mỗi DTTS thêm một lần nêu cao
lòng tự hào, tự tôn dân tộc, tự khẳng định những giá trị văn hóa độc đáo của
dân tộc mình và đó cũng là một cách để bảo đảm quyền văn hóa nhìn từ chiều sâu
nhân văn nhất.
Cùng với tạo điều kiện cho văn hóa
các DTTS được bảo tồn, phát huy, những năm qua, các cấp chính quyền
cũng đã có những việc làm thiết thực để đồng bào từng bước cải thiện, nâng cao
đời sống văn hóa tinh thần. Đến nay, phần lớn các thôn, bản, phum, sóc, bản,
mường ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn đã hoàn thành và đang xây
dựng nhà văn hóa theo tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Trong 5 tiêu chí của
Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 theo
Quyết định số 1722/QĐ-TTg ngày 2-9-2016 của Thủ tướng Chính phủ, có 2 tiêu chí
liên quan đến bảo đảm quyền văn hóa cho đồng bào các DTTS, đó là giáo dục
và tiếp cận thông tin. Theo đó, đến năm 2020, 100% xã có mạng lưới trường mầm
non, phổ thông, trung tâm học tập cộng đồng đủ để đáp ứng nhu cầu học tập và
phổ biến kiến thức cho người dân; 90% các hộ dân thuộc địa bàn huyện nghèo, xã
nghèo được tiếp cận, cung cấp thông tin về chính sách, pháp luật của Đảng và
Nhà nước; hỗ trợ phương tiện nghe-xem cho khoảng 10.000 hộ nghèo. Cụ thể hóa đề
án trên, mấy năm gần đây, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định cấp miễn phí 18 đầu
báo, tạp chí cho các xã thuộc vùng DTTS và miền núi, vùng đặc biệt
khó khăn. Cuối tháng 11-2017, Thủ tướng Chính phủ cũng quyết định cấp radio
miễn phí cho các già làng, trưởng bản, người có uy tín, chức sắc tôn giáo và
trưởng các tổ chức đảng, đoàn thể quần chúng cấp thôn (thanh niên, phụ nữ, nông
dân, cựu chiến binh…) ở các tỉnh Cao Bằng, Hà Giang, Lai Châu, Nghệ An, Quảng
Nam, Kon Tum, Đăk Nông, Ninh Thuận, Trà Vinh, Kiên Giang.
Một tờ báo, một chiếc radio có thể không đáng
là bao với những người có điều kiện kinh tế, nhưng đó là tài sản văn hóa rất ý
nghĩa với những người DTTS nghèo. Hơn thế, nói mộc mạc như bà con dân
tộc, đó chính là cầu nối thông tin giữa Chính phủ và đồng bào, là ánh sáng văn
hóa của Đảng soi rọi cho người dân vùng sâu, vùng xa nỗ lực vượt qua khó khăn
để vươn tới cuộc sống no ấm, văn minh.
Nguồn: www.qdnd.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét