QĐND Online - Từng được tham gia nhiều kỳ bầu cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, tôi nhận thấy, ở nước ta,
quyền bầu cử, ứng cử và tham gia quản lý Nhà nước và xã hội của mọi công dân
thực sự được coi trọng, công dân luôn phát huy tốt những quyền đó của mình.
Cá nhân người viết hoàn toàn
đồng ý với quan điểm, mục đích của các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và
Hội đồng nhân dân các cấp không chỉ nhằm tổ chức tốt nhất cho người dân thực
hiện quyền chính trị của mình, mà thông qua bầu cử để tiếp tục phát huy trách
nhiệm công dân, phát huy đại đoàn kết toàn dân tộc. Bầu cử không chỉ để tăng
dân chủ mà còn để tăng đoàn kết, tăng đồng thuận xã hội… Và cũng thông qua bầu
cử, chúng ta hình thành, bầu được những người đủ tầm nhất, đủ đức, đủ tài gánh
vác công việc của quốc gia. Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại
biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 đã chứng minh điều đó. Tại kỳ
bầu cử này (tháng 5-2016), tỷ lệ cử tri đi bầu rất cao (hơn 98,77%) cho thấy
người dân ý thức rõ về quyền của mình và cơ quan chức năng các cấp cũng luôn nỗ
lực cao nhất để mọi công dân có điều kiện thực hiện các quyền đó của mình.
Nhà nước của chúng ta là Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Bản chất
của nhà nước pháp quyền là thượng tôn pháp luật. Mọi người đều bình đẳng trước
pháp luật, đều sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Quốc hội là cơ
quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến,
quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối
cao đối với hoạt động của Nhà nước. Hội đồng nhân dân (HĐND) là cơ quan quyền
lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của
nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa
phương và cơ quan nhà nước cấp trên. HĐND quyết định các vấn đề của địa phương
do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và
việc thực hiện nghị quyết của HĐND.
Theo quy định của pháp luật Việt
Nam, công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tính đến ngày bầu cử, đủ
mười tám tuổi trở lên và có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật về bầu
cử đều có quyền bầu cử.
Quyền bầu cử, ứng cử, quyền tham gia
quản lý Nhà nước và xã hội của người dân được quy định rõ tại các Điều 27, 28,
29 Hiến pháp 2013. Điều 27 nêu rõ: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền
bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, HĐND. Việc
thực hiện quyền này do luật định”. Điều 28 quy định: “Công dân có quyền tham
gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà
nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước” (Khoản 1); đồng thời nêu
rõ “Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội;
công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công
dân” (Khoản 2)… Đồng thời, Hiến pháp quy định công dân đủ mười tám tuổi
trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 29),
thể hiện tầm quan trọng của quyền biểu quyết nói riêng và quyền của người dân
được bày tỏ chính kiến, tham gia đóng góp ý kiến đối với Nhà nước. Các quy định
trên của Hiến pháp đã tạo khuôn khổ pháp lý vững chắc bảo đảm cho công dân
được thực sự tham gia quản lý Nhà nước và xã hội.
Ngoài Hiến pháp 2013, quyền bầu cử,
ứng cử và tham gia quản lý Nhà nước và xã hội còn được quy định tại nhiều văn
bản luật như Luật Tiếp công dân, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Thanh tra...
và các văn bản khác có liên quan. Đặc biệt, việc Quốc hội thông qua Luật
bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân ngày
25-6-2015 đã tạo khung pháp lý quan trọng trong việc bảo đảm quyền
bầu cử, ứng cử của công dân. Luật bầu cử quy định rõ việc bầu cử được
tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Nguyên tắc phổ thông thể hiện tính toàn dân và toàn diện trong bầu cử, bảo đảm
để mọi công dân, không phân biệt dân tộc, nam, nữ, thành phần xã hội, tín
ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú... đủ mười tám
tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử
vào Quốc hội và HĐND các cấp. Bình đẳng trong bầu cử là nguyên tắc nhằm bảo đảm
cho mọi công dân đều có quyền như nhau khi tham gia bầu cử, ứng cử, không có
phân biệt đối xử dưới bất cứ hình thức nào.
So với Luật bầu cử cũ, Luật bầu cử
đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND 2015 mở rộng đối tượng cử tri là
người đang bị tạm giam, tạm giữ, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở
giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được ghi tên vào danh sách cử tri
để bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND cấp tỉnh nơi người đó đang bị tạm
giam, tạm giữ, đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở
cai nghiện bắt buộc.
Như vậy, theo luật này, chỉ những
người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật, người đang phải chấp hành hình phạt tù và người mất năng lực
hành vi dân sự thì mới không được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu đại biểu
Quốc hội và đại biểu HĐND.
Luật bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu HĐND 2015 cũng có những quy định cụ thể về dự kiến phân
bổ đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND, đơn vị bầu cử, khu vực bỏ
phiếu, Hội đồng bầu cử quốc gia và các tổ chức phụ trách bầu cử
ở địa phương, danh sách cử tri, việc ứng cử và hiệp thương, giới
thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân,
cũng như các quy định về tuyên truyền, vận động tranh cử, nguyên tắc
và trình tự bỏ phiếu, kết quả bỏ phiếu… Những quy định này đã
hoàn thiện chế định bầu cử, bảo đảm cho công dân thực hiện quyền
làm chủ của mình.
Nghĩa vụ bảo đảm quyền tham gia quản
lý nhà nước và xã hội của người dân là yêu cầu và nguyên tắc trong tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước, được thể hiện rõ trong đường lối, chủ trương của
Nhà nước Việt Nam. Phát huy quyền làm chủ của người dân ở cấp địa phương – nơi
trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Nhà nước - được coi là mục
tiêu và động lực bảo đảm thắng lợi của công cuộc Đổi mới tại Việt Nam.
Nhà nước Việt Nam chủ trương tăng
cường các hình thức dân chủ trực tiếp, nhất là cấp cơ sở. Điều đó có ý nghĩa
quan trọng đối với công tác quản lý, điều hành ở địa phương, nơi mà cộng đồng
dân cư Việt Nam vốn có truyền thống làng xã, các mối quan hệ xã hội vốn luôn
được điều chỉnh trên cơ sở tự nguyện, tự quản. Quy chế Dân chủ ở cơ sở do Nhà
nước ban hành năm 1998 đã tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân tham gia tích
cực vào tiến trình xây dựng, hoạch định và giám sát việc thực hiện chính sách
của Nhà nước, được nhân dân đồng tình, hưởng ứng. Nhờ đó, người dân tham gia
rộng rãi và mạnh mẽ vào quản lý nhà nước và xã hội, tích cực hơn trong việc nắm
bắt thông tin (dân biết), tham gia thảo luận (dân bàn), triển khai (dân làm),
kiểm tra, giám sát (dân kiểm tra) các chủ trương, chính sách, giải pháp phát
triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Nhà nước Việt Nam cũng chủ trương mở
rộng hình thức dân chủ trực tiếp, tạo thêm không gian mới cho sự tham gia của
người dân, đặc biệt thông qua các phương tiện truyền thông như: đối thoại giữa
chính quyền địa phương với người dân thông qua gặp gỡ trực tiếp hoặc trực
tuyến; tổ chức các buổi họp báo; tổ chức các cuộc khảo sát sự hài lòng của công
dân đối với các dịch vụ hành chính công thông qua phiếu khảo sát ý kiến người
dân, phần mềm lấy ý kiến người dân; tổ chức lấy ý kiến nhân dân đối với các dự
thảo văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật... Việc thực hiện dân chủ trực tiếp tại cơ sở còn được thể hiện
qua việc người dân tham gia giám sát công tác giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố
cáo của công dân; đánh giá hoạt động của các cơ quan nhà nước thông qua việc
xác định tính phù hợp của các mục tiêu, chủ trương, chính sách, tính khả thi và
mức độ đáp ứng yêu cầu thực tiễn của các giải pháp..., qua đó tạo ra sự đồng
thuận trong xã hội, cũng như cơ sở vững chắc cho việc tổ chức thực hiện đường
lối chính sách và pháp luật của Nhà nước tại địa phương.
Đặc biệt, ngày 25-11-2015, Quốc hội
Việt Nam đã thông qua Luật Trưng cầu ý dân, gồm 8 chương, 52 điều, quy định cụ
thể phạm vi, nguyên tắc trưng cầu ý dân; quyền hạn và nhiệm vụ của cơ quan, tổ
chức trong trưng cầu ý dân, trình tự, thủ tục quyết định việc trưng cầu ý dân;
kết quả và hiệu lực của kết quả trưng cầu ý dân. Việc thông qua Luật Trưng cầu
ý dân chính là nhằm bảo đảm nhân dân được trực tiếp thể hiện ý chí của mình
trong việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, tăng cường khối đại
đoàn kết dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội.
Đối với mỗi người Việt Nam, việc
được đi bầu cử và thực hiện quyền bầu cử của mình là vinh dự, đồng thời cũng là
trách nhiệm với đất nước. Nhà nước ta luôn tôn trọng và tạo những điều kiện
thuận lợi nhất để mọi công dân thực hiện tốt nhất quyền bầu cử, ứng cử, quyền
tham gia quản lý Nhà nước và xã hội.
Nguồn: WWW.qdnd.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét