“Tự diễn biến”, “Tự chuyển hóa” về tư tưởng
trong đội ngũ cán bộ, đảng viên là một vấn đề hệ trọng, liên quan đến sự tồn
vong của Đảng, của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Để nhận diện và phòng,
chống thì việc tìm hiểu nguyên nhân và đề ra những giải pháp cơ bản giúp khắc
phục vấn đề trên trong thực tiễn là cần thiết.
Nhận
diện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng
Có
thể nói, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong nội bộ đảng
và đội ngũ cán bộ, đảng viên là điều kiện, cơ hội cho chủ nghĩa đế quốc và các
thế lực thù địch thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy quá trình “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Tại
Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (4-1994), Đảng ta
xác định 4 nguy cơ đối với chế độ ta là: “Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so
với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới do điểm xuất phát thấp, tốc độ
tăng trưởng chưa cao và chưa vững chắc, lại phải đi lên trong môi trường cạnh
tranh gay gắt; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa nếu không khắc phục được
những lệch lạc trong chủ trương, chính sách và chỉ đạo thực hiện; nguy cơ về
nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực
thù địch”(1) . Đánh giá về “nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa” và “nguy cơ
về nạn tham nhũng và tệ quan liêu” về thực chất đã chỉ ra nguyên nhân có thể
dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng, Nhà nước và cả hệ
thống chính trị. Nhận định của Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa
VII về những nguy cơ đối với chế độ ta tiếp tục được các đại hội của Đảng, từ
Đại hội lần thứ VIII đến Đại hội lần thứ XII khẳng định lại với tinh thần đánh
giá những nguy cơ này chẳng những vẫn đang tồn tại mà có phần còn nghiêm trọng
hơn.
Từ thực tiễn cuộc sống, chúng ta có thể hiểu “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên là quá trình
tự thay đổi tư duy, nhận thức của cán bộ, đảng viên theo chiều hướng tiêu cực,
từ đúng thành sai, từ tin tưởng đến hoài nghi, phủ định tính khoa học, tính
đúng đắn của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước để chuyển sang sùng bái, tin theo các
luận điểm tư sản, sai trái, phản động.
Đâu
là nguyên nhân?
Quá
trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có thể khái quát qua một số nguyên nhân
chủ yếu sau:
Thứ nhất, do những tác động trái chiều của quá trình toàn cầu hóa
và kinh tế thị trường. Kinh tế thị
trường cùng với quá trình toàn cầu hóa là xu thế tất yếu, tác động đến mọi mặt
về kinh tế – xã hội của các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Đối với nước ta,
quá trình này bên cạnh những tác động tích cực thì còn chứa đựng những tác động
tiêu cực, là nguyên nhân dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ
cán bộ, đảng viên, đó là việc truyền bá những giá trị dân chủ, nhân quyền, đạo
đức, lối sống không phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể hiện nay của Việt Nam.
Quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, sự bùng nổ thông tin qua internet đã
tác động trực tiếp đến nhận thức của mỗi người. Cùng với sự lan tỏa những điều
tốt đẹp trong xã hội đến từ các quốc gia trên thế giới còn có sự xâm nhập những
lối sống thiếu lành mạnh, phản tiến bộ, hoặc là công cụ của các thế lực thù
địch. Và, những hoài nghi, dao động không được định hướng kịp thời được cộng
hưởng bởi sự xuyên tạc của các thế lực thù địch thông qua chiến lược “diễn biến
hòa bình” đã tác động tiêu cực đến một bộ phận cán bộ, đảng viên có lập trường
không vững vàng, tự nguyện rời bỏ lý tưởng của Đảng, công khai chỉ trích lý
tưởng, con đường chủ nghĩa xã hội.
Thứ
hai, do những thách thức của hoàn cảnh lịch sử, âm mưu “diễn biến hòa bình” của
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động trong, ngoài nước. Sự tan rã của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông
Âu buổi đầu là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự suy giảm lòng tin của một số
cán bộ, đảng viên đối với chủ nghĩa Mác – Lê-nin và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội. Mặc dù sự sụp đổ này đã diễn ra gần ba thập kỷ, tuy nhiên trong hàng
ngũ cán bộ, đảng viên đã và hiện có những người bi quan, dao động, nghi ngờ
tính đúng đắn, tính khoa học của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Ngày nay, các nước tiếp tục đi lên chủ nghĩa xã hội còn lại sau sự sụp đổ của
Liên Xô và Đông Âu trong đó có nước ta đang đối mặt với những khó khăn thách
thức mới, đó chính là sự phân hóa giàu nghèo, những cản trở từ chính quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đối mặt từ bên trong như: tham nhũng, lãng phí,
các tệ nạn xã hội, lối sống bị tha hóa, những cám dỗ vật chất tầm thường, lợi
ích nhóm… Vì vậy, các thế lực thù địch đã lợi dụng để xuyên tạc, hòng chia rẽ
khối đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế mà chúng ta đang dày công xây
dựng trong tiến trình đổi mới đất nước.
Chiến lược “Diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực thù địch vẫn không ngừng thay đổi nội dung và phương thức hoạt
động. Ngoài các chiêu bài cũ như: phổ biến tuyên truyền các giá trị “dân chủ”,
nhân quyền, thể chế “tam quyền phân lập”, “đa nguyên chính trị, đa đảng đối
lập”… hiện chúng đang sử dụng các phương thức mới như: tán dương, ủng hộ và dựa
vào các đối tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để thực hiện ý đồ chuyển hóa
chế độ xã hội ta…
Thứ
ba, do những yếu kém từ chính nội bộ đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong
quá trình lãnh đạo thực hiện sự nghiệp đổi mới. Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo trong
hơn 30 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, khẳng định vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế, đồng thời khẳng định tính đúng đắn, khoa học của con
đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Tuy nhiên,
trong quá trình lãnh đạo cách mạng thì Đảng còn tồn tại những hạn chế nhất
định, làm “mảnh đất” cho “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hình thành. Đó là:
–
Hạn chế trong đổi mới tư duy, phát triển lý luận và công tác tuyên truyền, giáo
dục chính trị tư tưởng. Có thể nhận thấy rằng, thực tiễn luôn vận động và phát
triển trong khi đó công tác nghiên cứu, phát triển lý luận của chúng ta chưa
theo kịp được với sự vận động, phát triển này. Tình trạng giáo điều, rập khuôn
cùng với hiện tượng phủ nhận hệ thống lý luận Mác – xít của các thế lực thù
địch, phần tử cơ hội chính trị khiến cho lĩnh vực tư tưởng lý luận trở nên phức
tạp; công tác tổng kết thực tiễn, bổ sung lý luận còn chậm, hiệu quả thấp. Mặt
khác, công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác
– Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên còn nhiều hạn chế về nội
dung và phương pháp nên hiệu quả tuyên truyền chưa cao, chưa đủ sức “đề kháng”
trước những luồng tư tưởng độc hại, đây là nguyên nhân dẫn đến sự sa sút niềm
tin, xuất hiện tâm lý tiêu cực.
–
Hạn chế trong công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị, thể chế nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đó là, việc chưa phân định rõ ràng, rành
mạch, trách nhiệm không rõ, nội dung và phương thức hoạt động chậm đổi mới, còn
nhiều biểu hiện của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Tổ chức bộ máy ở nhiều
cơ quan, tổ chức chưa hợp lý, còn cồng kềnh. Tinh thần thái độ trách nhiệm phục
vụ của một bộ phận cán bộ công chức, viên chức còn thấp.
–
Những yếu kém trong công tác kiểm tra, giám sát và công tác cán bộ đang thực sự
là vấn đề nóng bỏng tác động không nhỏ đến lòng tin của nhân dân vào Đảng, vào
chế độ xã hội chủ nghĩa. Hiện tượng chạy chức, chạy quyền, chạy bằng cấp, cất
nhắc cán bộ không đúng người có tài, có tâm, có tầm… đang tác động rất lớn đến
tâm tư, tình cảm, niềm tin của cán bộ, đảng viên. Ngoài ra, trong công tác kiểm
tra, giám sát chúng ta chưa huy động được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia
vào việc giám sát tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên cũng là một trong những
nguyên nhân làm cho một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức lối sống.
Để công tác phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư
tưởng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên đạt được hiệu quả cao
Quyết
tâm thực hiện mục tiêu: “… Kiên quyết khắc phục những
yếu kém trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng,
có đạo đức, trách nhiệm, năng lực và động cơ đúng đắn, thực sự tiên phong,
gương mẫu, luôn đặt lợi ích của tập thể, quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích cá
nhân, thực sự là cán bộ của dân, phục vụ nhân dân. Củng cố niềm tin của nhân
dân với Đảng”, như Nghị quyết số 04-NQ/TW, Hội nghị Trung ương 4,
khóa XII của Đảng đề ra, trong thời gian tới chúng ta cần:
Một
là, đổi mới tư duy, phát triển lý
luận, đặc biệt coi trọng công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán
bộ, đảng viên trong tình hình mới. Mục đích của giải pháp này nhằm củng cố,
khẳng định nền tảng tư tưởng của Đảng, làm cho chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh thực sự là kim chỉ nam trong mọi chủ trương, chính sách của Đảng và
mỗi cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần những nguyên lý, quy luật trong xây dựng
đảng Mác-xít nói riêng và các vấn đề chính trị – xã hội nói chung. Muốn vậy,
cần:
–
Kiên trì thế giới quan, phương pháp luận khoa học và các giá trị cốt lõi của
chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam; đồng thời, tiếp thu các thành tựu mới, tinh hoa của nhân loại, những
nền tảng cơ bản cần vận dụng trong nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển
lý luận.
–
Bổ sung, hoàn thiện những luận điểm khoa học về chủ nghĩa xã hội, về con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, giải quyết được những băn khoăn, trăn trở
trong nhận thức, tư tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Đây là
yếu tố rất quan trọng để nâng cao nhận thức chính trị, tăng cường niềm tin của
cán bộ, đảng viên và nhân dân về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam, góp phần đẩy lùi, triệt tiêu những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” về tư tưởng và suy thoái về đạo đức, lối sống trong một bộ phận
cán bộ, đảng viên hiện nay.
–
Nghiên cứu, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả nội dung xây dựng Đảng
về đạo đức. Nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, lý luận; tuyên truyền, giáo
dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Đổi mới mạnh
mẽ công tác giáo dục lý luận chính trị, học tập nghị quyết; thực hiện nền nếp
việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là
cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Thực hiện nghiêm túc việc chất vấn trong
Đảng. Gắn kiểm điểm, tự phê bình và phê bình với làm rõ trách nhiệm chính trị,
trách nhiệm đạo đức và trách nhiệm pháp lý của đảng viên. Đối với cán bộ, đảng
viên làm việc trong các cơ quan đảng, nhà nước các cấp, cần kiểm điểm, đánh giá
về thực hiện chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên, nghĩa vụ công chức,
đạo đức công vụ, trách nhiệm trước nhân dân.
–
Cụ thể hóa nội dung xây dựng văn hóa trong các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước,
trong hệ thống chính trị, trọng tâm là đề cao tính tiên phong, gương mẫu của
cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp, nhất là của người đứng đầu.
Hai
là, nâng cao chất lượng quản lý đảng
viên, thường xuyên duy trì có hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng. Với đội ngũ cán bộ, đảng viên phải tự giác đặt
mình vào trong tổ chức, chịu sự quản lý của tổ chức, chấp hành các chế độ, quy
định trong sinh hoạt đảng. Khắc phục các hiện tượng ngại sinh hoạt, bỏ sinh
hoạt dưới bất kỳ hình thức nào hoặc coi sinh hoạt chỉ là hình thức. Dù ở bất cứ
cương vị công tác nào cũng phải luôn luôn nêu cao ý thức tổ chức, kỷ luật,
không ngừng tu dưỡng, rèn luyện. Với tổ chức đảng,
phải nâng cao chất lượng quản lý đảng viên một cách toàn diện, kể cả các quan
hệ xã hội, các nguồn thu nhập, lối sống. Tăng cường chế độ trách nhiệm trong
Đảng, quán triệt và thực hiện nghiêm quy định về trách nhiệm nêu gương của cán
bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; tiến hành tốt công tác
kiểm tra, giám sát sẽ góp phần quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên ở mọi lúc,
mọi nơi; phát hiện và xử lý kịp thời những đảng viên vi phạm tư cách, suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những phần tử cơ hội, bất mãn, gây
mất đoàn kết nội bộ trong Đảng. Do đó, công tác kiểm tra, giám sát và thi hành
kỷ luật Đảng phải được tiến hành chặt chẽ, đúng quy trình, đạt hiệu quả thiết
thực, nâng cao vai trò của cơ quan, Ủy ban Kiểm tra của cấp ủy các cấp, tổ chức
đảng, cơ quan báo chí, quần chúng nhân dân đối với cán bộ, đảng viên, gắn kiểm
tra, giám sát với thi hành kỷ luật Đảng theo Điều lệ đã ban hành; kiên quyết xử
lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên vi phạm, những tổ chức đảng yếu kém làm
trong sạch nội bộ Đảng; Cần quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân người
đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kỷ
luật đảng. Đối với người đứng đầu, cần tăng cường kiểm tra trách nhiệm chính
trị trong đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và lợi ích nhóm.
Ba
là, nâng cao hiệu quả giáo dục, rèn
luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên với nhiều hình thức, phương pháp. Trong công
tác, cán bộ, đảng viên phải giải quyết nhiều mối quan hệ xã hội, trong đó mối
quan hệ giữa lợi ích của tập thể – lợi ích cá nhân là yếu tố cơ bản tác động
chi phối đến tư tưởng, tình cảm, đạo đức lối sống, nếu mỗi cá nhân thiếu bản
lĩnh chính trị, không tự giải quyết hài hòa mối quan hệ này sẽ dễ dàng bị lôi
cuốn vào vòng xoáy của tham vọng quyền lực, vun vén lợi ích cá nhân, tham
nhũng, lãng phí, bị kẻ xấu lợi dụng lôi kéo, mua chuộc làm phai nhạt mục tiêu
lý tưởng cách mạng của Đảng. Nâng cao chất lượng giáo dục rèn luyện đội ngũ cán
bộ, đảng viên là công việc thường xuyên, công việc “gốc” trong công tác xây
dựng Đảng. Chú trọng kết hợp giữa tự giáo dục, rèn luyện của bản thân với giáo
dục rèn luyện của tổ chức là phương pháp cơ bản.
Cán
bộ, đảng viên phải tự giác rèn luyện, thể hiện ở tinh thần cầu thị tiến bộ;
tinh thần ham học tập ở mọi lúc, mọi nơi; có ý thức kiên trì rèn luyện thói
quen, phương pháp làm việc khoa học, nghiêm túc, cụ thể, tỷ mỷ từ việc nhỏ đến
việc lớn, từ những hành vi đơn giản đến phức tạp, “việc thiện thì nhỏ mấy, khó
mấy cũng nên làm, việc ác thì nhỏ mấy cũng tránh”. Biết tự đánh giá bản thân để
lựa chọn con đường, biện pháp rèn luyện phù hợp; có thái độ nghiêm khắc trong
tự phê bình, lắng nghe ý kiến nhận xét của quần chúng, cấp trên, cấp dưới và
đồng cấp về bản thân mình. Tích cực chủ động phát huy ưu điểm, khắc phục sửa
chữa sai lầm, khuyết điểm để không ngừng tự hoàn thiện bản thân…
Cấp
ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu tổ chức các cấp cần thường xuyên coi trọng
việc rèn luyện cán bộ, đảng viên; quy định rõ chức trách, nhiệm vụ, quyền lợi
của mỗi cá nhân trên từng cương vị công tác, tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ,
đảng viên bộc lộ, phát huy tối đa năng lực bản thân; lấy kết quả hoạt động thực
tiễn làm tiêu chí cơ bản để đánh giá phẩm chất và năng lực cán bộ, đảng viên.
Kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện quy định của Bộ Chính trị về những điều đảng
viên không được làm; kịp thời phát hiện, biểu dương người tốt, việc tốt; tạo dư
luận lên án và kịp thời xử lý nghiêm những biểu hiện sai phạm của cán bộ, đảng
viên dù ở bất cứ cương vị công tác nào.
Bốn
là, Đảng phải thường xuyên quan tâm
hơn nữa đến đời sống vật chất, tinh thần và lợi ích thiết thân của đội ngũ cán
bộ, đảng viên. Hiện nay, trong điều kiện Đảng cầm quyền, đảng viên là cán bộ,
công chức nhà nước có điều kiện chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho bản
thân và gia đình. Do đó, khi đời sống được bảo đảm, quyền lợi vật chất chính
đáng được bảo vệ, chính là điều kiện để mỗi người gắn bó với công việc; yên tâm
thực hiện nhiệm vụ được giao; giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống. Bảo đảm thu
nhập, tiền lương tương xứng với sự đóng góp, phù hợp với công sức, trí tuệ của
mỗi người đã cống hiến; thực hiện “đẩy mạnh cải cách tiền lương, thu nhập,
chính sách nhà ở bảo đảm cuộc sống cho cán bộ, đảng viên, công chức để góp phần
phòng, chống tham nhũng”(2); công bằng giữa các khu vực, nhất là khu vực hành
chính sự nghiệp, với khu vực doanh nghiệp nhà nước là nguyện vọng chính đáng
của đảng viên, công chức, viên chức.
Để
đời sống vật chất và tinh thần của đảng viên được bảo đảm, ngoài việc phát huy
yếu tố chủ quan của bản thân mỗi đảng viên thì trách nhiệm của cấp ủy, người
đứng đầu cơ quan, đơn vị các cấp phải thật sự quan tâm đến điều kiện làm việc,
thu nhập và cuộc sống cho họ. Chống đặc quyền, đặc lợi, có những chính sách,
quy định chế độ vật chất và tinh thần, bảo đảm công khai, dân chủ, công bằng và
chính đáng giữa các cấp cán bộ và giữa cán bộ, công chức với nhân dân./.
—————————————————————–
(1)
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ
đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2005, tr.404
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, tr.213
Hãy nâng cao cảnh giác đấu tranh làm thất bại âm mưu chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch, phản động!
Trả lờiXóa