Giá trị thặng dư là lượng giá trị dôi ra ngoài giá trị sức lao động do người công nhân làm thuê tạo ra bị nhà tư bản chiếm đoạt. Lợi nhuận là số tiền mà nhà tư bản bán hàng hóa thư được sau khi đã bù đâp đu chi phí sản xuất.
Về bản chất, giá trị thặng dư và lợi nhuận là một.
Chúng có nguồn gốc duy nhất là do lao động không công của người công nhân tạo
ra trong lĩnh vực sản xuất. Tuy nhiên, giá trị thặng dư và lợi nhuận lả những
phạm trù kinh tế khác nhau nên giữa chúng có sụ' khác nhau. Giá trị thặng dư là
nội dung bên trong, được tạo ra trong quá trình sản xuất, là khoan dôi ra ngoài
giá trị tư bản khả biến. Lợi nhuận là hình thức biểu hiện bên ngoài của giá trị
thặng dư được thực hiện trong lưu thông. Nó được quan niệm như là con đẻ của toàn
bộ tư bản ứng trước, vì là hình thức biểu hiện bên ngoài của giá trị thặng dư
trong lưu thông nên lượng lợi nhuận thu được có thể bàng hoặc không bằng với
lượng giá trị thặng dư.
Nếu cung = cầu thì giá cả = giá trị. lượng lợi nhuận =
lượng giá trị thặng dư.
Nếu cung > cầu thì giá cả < giá trị, lượng lợi
nhuận < lượng giá trị thặng dư.
Nếu cung < cầu thì giá cả > giá trị. lượng lợi
nhuận > lượng giá trị thặng dư.
Xét trong toàn xã hội với một thời gian dài thì tổng
giá cả bằng tổng giá trị, nên tổng khối lượng lợi nhuận bằng tổng khối lượng
giá trị thặng dư.
Giá trị thặng dư được biểu hiện dưới các hình thức cụ
thể: lợi nhuận công nghiệp, ỉợi nhuận thương
nghiệp, địa tô
tư bản chu nghĩa, lợi tức cho vay tư bần chủ nghĩa. Trong
giai đoạn cạnh tranh tự do, lợi nhuận bình quân là hình thức giá
trị thặng dư mà các nhà tư bản theo đuổi. Đến giai đoạn tư bản độc
quyền, hình thức giá trị thặng dư mà các tổ chức độc quyền theo đuổi là lợi
nhuận độc quyền cao.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét