Giá trị của hàng hóa có mặt chất và mặt lượng. Chất của giá trị là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa để kết tinh trong hàng hóa. Lượng của giá trị là số lượng lao động trừu tượng chứa đựng trong hàng hóa. Số lượng lao động hao phí được đo bằng thời gian lao động để sản xuất ra hàng hóa, tinh bằng: ngày, giờ, phút, giây...
Lượng giá trị của hàng hóa được tính bằng thời gian lao
động xã hội căn thiết để sản xuất ra hàng hóa chứ không phải
tinh bằng thời gian lao động cá biệt. Bởi vì, cùng một loại hàng hóa có nhiều
người sản xuất. Do sự khác nhau về kỹ thuật, tay nghề, công cụ nên thời gian
lao động hao phí để sản xuất ra các hàng hóa cùng loại đó khác nhau. Có người
hao phí nhiều, có người hao pill it, nên không thể lấy mức hao phí cá biệt làm cơ
sở để trao đổi.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian để
sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó trong điều kiện sàn xuất bình thường,
trình độ kỹ thuật và cường độ lao động trung bình. Thông thường, thời gian lao
động xã hội cần thiết để sản xuất ra một loại hàng hóa gần sát với thời gian
lao động cá biệt của những người sản xuất ra đại đa số loại hàng hóa đó trên
thị trường.
Trong nền sản xuất hàng hóa giản đơn dựa trên cơ sở tư
hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, thì thời gian lao động xã hội cần thiết hình thành
ưiột cách tự phát trên thị trường.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là một đại lượng
không cố định, nên giá trị của hàng hóa cũng không phải là đại lượng cố định,
nó phụ thuộc vào các nhân tố sau:
Một là, năng suất lao động (sức sản xuất
của lao động): Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động được
tính bằng số lượng sản phẩm trên một đơn vị thời gian hay số lượng thời gian để
chế tạo một sản phẩm. Giá trị hàng hóa thay đổi tỷ lệ nghịch với năng suất lao
động xã hội. Năng suất lao động phụ thuộc vào: trình độ kỹ thuật của người lao
động, phương pháp tổ chức lao động, các điều kiện tự nhiên... Tăng năng suất
lao động là tăng số lượng sản phẩm trên một đơn vị thời gian hay giảm thời gian
chế tạo ra một đơn vị sản phẩm. Năng suất lao động tăng lên làm cho lượng giá
trị trên một đơn vị sản phẩm giảm, nhưng tổng số lượng giá trị trong một đơn vị
thời gian không đổi.
Hai là, cường độ lao động: Cường độ lao
động là độ căng thẳng, khần trương của lao động trong một đơn vị thời gian sản
xuất hàng hóa. Tăng cường độ lao động tức là tăng mức độ khẩn trương của lao
động, do đó sức lực hao phí sẽ nhiều hơn trong một đơn vị thời gian. Tăng cường
độ lao động đồng nghĩa với kéo dài thời gian lao động, làm cho số lượng sản
phẩm được tạo ra trong một đơn vị thời gian tăng lên, do đó tổng số giá trị
tăng nhưng lượng giá trị trên một dơn vị sản phẩm không thay đổi.
Ba là, tính chất của lao dộng: Lao động giản
đơn hay lao động phức tạp.
Lao động giản đơn là lao động mà bất cứ người nào có
khả năng lao động bình thường đều làm được, không cần phải huấn luyện, đào tạo.
Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải tốn công đào tạo, học tập, rèn luyện
chuyên môn. Trong một đơn vị thời gian, lao động phức tạp tạo ra khối lượng giá
trị hàng hóa nhiều hơn lao động giản đơn. Lao động phức tạp là bội số của lao
động giản đơn. Trong quá trình trao đổi hàng hóa, mọi lao động phức tạp được
quy thành lao động giản đơn. Việc quy lao động phức tạp thành bội số của lao
động giản đơn diễn ra một cách tự phát thông qua hoạt động của người sản xuất
và trao đổi hàng hóa trên thị trường. Như vậy, lượng giá trị của hàng hóa là
lượng lao động giản đơn trừu tượng xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét